Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 24/03/2016

Giá chào nhập khẩu thép tấm vào Mỹ tăng mạnh

Giá chào tấm nhập khẩu vào thị trường Mỹ đang tăng mạnh song song với mức tăng vọt của giá thép tấm trong nước và toàn cầu, và trong bối cảnh gia tăng dự đoán của các vụ kiện chống bán phá giá. Giá chào thấp nhất là 380usd/tấn ngắn CIF Houston có cách đây 2 tuần trước đã không cỏn và chào giá mới nhất được biết ở mức là 460usd/tấn ngắn.

Platts định giá tấm nhập khẩu ở mức 420-460usd/tấn ngắn CIF Houston, tăng từ mức 395-420usd/tấn ngắn.

Giá tấm trong nước của Mỹ đã chứng kiến ​​sự tăng mạnh thời gian gần đây với các nhà máy công bố tăng 70usd/tấn ngắn kể từ cuối tháng 02. Sự gia tăng đang được lực kéo của thị trường. 

Các nhà máy lớn của Trung Quốc đang tăng chào giá xuất khẩu tấm thêm 62usd/tấn trong tháng 03 do thị trường nội địa tăng mạnh.

HDG Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu hơn do nhu cầu tiêu thụ thấp, hàng nhập khẩu rẻ hơn

Giá HDG ở Thổ Nhĩ Kỳ đã suy yếu hơn, do nhu cầu tiêu thụ thấp trên thị trường cũng như giá chào nhập khẩu giảm xuống được nghe nói hôm thứ Tư, mặc dù giá nhập khẩu và giá trong nước của HRC vẫn duy trì mạnh mẽ, nguồn tin công nghiệp cho biết.

Giá cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng mạnh cùng với giá HRC trong tuần trước thêm hơn 100usd/ tấn, như đã biết. Tuy nhiên, do nhu cầu tiêu thụ giảm dần sau đà tăng vọt này, một số nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu cung cấp mức chiết khẩu giảm đáng kể để thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ trên thị trường.

"Điều chỉnh giá xuống đang tiếp tục trong ngày hôm nay. Giá chào của nhà sản xuất giảm khoảng 40usd/tấn kể từ tuần trước", một giám đốc điều hành tại một trung tâm dịch vụ nói. "Chào giá nhập khẩu cũng đang giảm. Tôi vừa nhận được một chào giá đã điều chỉnh từ một nhà máy châu Âu: giá chào HDG 2-4 mm của họ đã giảm khoảng 15usd/tấn còn 515usd/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ hôm nay," ông nói thêm.

Chào giá của một số nhà sản xuất cuộn hàng đầu Thổ Nhĩ Kỳ cho HDG dày 0.5mm giảm còn 620-640usd/tấn xuất xưởng, trong khi giá chào trong nước cho PPGI 9002 dày 0.5mm 9002 là 720-740usd/tấn xuất xưởng. Giá chào xuất khẩu của nhà sản xuất thấp hơn khoảng 20usd/tấn so với giá niêm yết trong nước. 

Mặc dù giá cuộn mạ giảm do nhu cầu tiêu thụ thấp, giá HRC trong nước và nhập khẩu vẫn duy trì mạnh mẽ trong tuần này ở Thổ Nhĩ Kỳ. Giá chào trong nước của nhà sản xuất là ổn định trong khoảng 430-450usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư, trong khi giá chào nhập khẩu từ CIS đạt khoảng 380-390usd/tấn CIF tuần này cho lô hàng giao tháng Sáu, nguồn tin công nghiệp cho biết.

Định giá HRC EU

Platts duy trì định giá HRC Bắc Âu ở mức 345-355euro/tấn xuất xưởng Ruhr hôm thừ Tư.

Người mua ở Benelux và Đức tiếp tục đưa ra giá thị trường trong phạm vi giá Platts, với chào bán từ các nhà sản xuất được nghe nói nằm trong khoảng 350-370euro/tấn.  

Giá chào nhập khẩu khan hiếm và không cạnh tranh. Định giá CIF Antwerp  của Platts tăng vọt thêm 10euro/tấn lên mức 345-355euro/tấn trong khi giá chào từ Nga và Trung Quốc được nghe là bằng với chào giá nội địa. 

Kardemir, tiếp tục tăng giá phôi thanh/thép cây, giá nhập khẩu biến động

Kardemir, nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ, tiếp tục tăng giá bán hơn nữa đối với phôi thanh, thép cây và gang thỏi hôm thứ Tư, song song với giá nhập khẩu cao hơn đối với phôi thanh và phế.

Kardemir đưa giá bán cho phôi thanh tiêu chuẩn ở mức 347-352usd/tấn xuất xưởng ngày hôm qua, tăng 12usd/tấn so với giá niêm yết trước đó thông báo hôm 10/03; giá phôi bloom cũng tăng lên một khoản tương ứng lên mức 455usd/tấn. Giá phôi thanh trong nước các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ khác trong khoảng 345-365usd/tấn xuất xưởng.

Chào giá nhập khẩu phôi thanh vào Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi đó, vẫn tiếp tục dao động trong tuần này với ảnh hưởng của Trung Quốc. Chào giá mới nhất của Trung Quốc nghe nói trên thị trường là khoảng 330-33usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Hai, nhưng sau đó giá chào này đã bị rút lại, nguồn tin cho biết. "Thật khó để theo sau giá chào của Trung Quốc những ngày này. Họ đang thay đổi từng ngày", một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nhận xét.

Một số giá chào từ các nhà máy CIS cũng vào khoảng 330-335usd/tấn CFR cho sản lượng sản xuất tháng 05 trong tuần này, nhưng những giá chào này rất khan hiếm và dự kiến ​​sẽ được điều chỉnh tăng trong những ngày cho hàng sản xuất tháng Sáu, nguồn tin cho biết.

Kardemir tiếp tục nâng giá thép cây trong nước hơn nữa hôm thứ Tư. Giá bán mới cho thép thanh tròn là 1.187 TRY(413usd)/tấn xuất xưởng, tăng 25TRY (9usd)/tấn, từ giá niêm yết trước đó. Giá thép cây của công ty tăng một khoản tương ứng lên mức 1.170 TRY(407usd)/tấn xuất xưởng. 

Công ty này cũng tăng giá gang thỏi đúc thêm 15usd/ tấn lên mức 279-299usd/tấn xuất xưởng, trong khi giá gang thỏi làm thép đi tăng một khoản tương ứng lên mức 245-275usd/tấn xuất xưởng.

Giá thép cây Châu Á tăng theo hình xoắn ốc khi thị trường Trung Quốc bật mạnh

Hôm thứ Tư, giá thép cây giao ngay ở Châu Á  tăng trong ngày giao dịch thứ tư liên tiếp khi giá Trung Quốc vẫn còn cao. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm tăng 2 USD/tấn so với ngày trước đó lên 328-331 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Một số nhà cung cấp lớn ở Trung Quốc đã ngưng chào giá vì tin rằng giá trong nước đã tăng quá nhanh. “Chúng tôi sẽ không xem xét việc chốt giao dịch với giá dưới 350 USD/tấn CFR Hong Kong  (tương đương 342 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 8 USD/tấn)”, một nhà máy ở miền đông nói, và đã giữ chào giá không dưới 345 USD/tấn CFR.

“Chúng tôi không chào giá xuất khẩu và vì vậy đang tập trung vào thị trường trong nước”.

Một số khách hàng tiếp tục đứng đợi bên lề vì sợ giá thép cây có thể giảm trở lại.

Tại Singapore, chào giá được niêm yết trên 340 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 338 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%.

Giá thép cây giao ngay ở miền bắc đã tăng trở lại, chủ yếu là do sự phục hồi của phôi thanh. Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 23/3, giá giao ngay cho thép cây 18-25mm đường kính 18-25mm là 2.280-2.300 NDT/tấn (351-354 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm  17% VAT, cao hơn ngày trước đó 30 NDT/tấn (5 USD/tấn).

Giá niêm yết của phôi thép ở thành phố Đường Sơn đã tăng thêm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) hôm thứ Tư, như vậy giá đã tăng tổng cộng 90 NDT/tấn (14 USD/tấn) kể từ đầu tuần này.

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 381usd/tấn vào hôm thứ Tư, tăng 7usd/tấn, từ thứ Ba. Mua bán được nghe nói từ các thương nhân và các hãng buôn trong phạm vi 380-385usd/tấn, trong khi mức giá mua thấp nhất trong thị trường đã được nghe nói ở mức 375usd/tấn.

Theo một thương nhân châu Âu, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã bán được xấp xỉ khoảng 100.000 tấn cây trong phạm vi giá 380-385usd/tấn. Các điểm đến được cho là Israel, Lebanon, Saudi Arabia và Mỹ.

Giá bán đến Mỹ phù hợp với mức này đã được nghe từ một thương nhân châu Âu trong phạm vi 385-390usd/tấn FOB. Chào giá là 415usd/tấn CFR Gulf trọng lượng lý thuyết.

Một thương nhân khác ở Thổ Nhĩ Kỳ đã ủng hộ phạm vi giá, nói rằng giá bán đã đạt được trong phạm vi 380-390usd/tấn FOB. Giá này bao gồm một đơn hàng bán sang Mỹ với giá 390usd/tấn FOB trọng lượng thực tế. Một thương nhân thứ ba cũng cho biết giá đang ở mức 380-385usd/tấn FOB, nhưng chỉ có khối lượng nhỏ. Ông nói chào bán hiện nay là 395usd/tấn FOB.

Một người mua UAE nói rằng chào giá được báo ở mức 390usd/tấn từ một người bán. Người mua này trước đó đã cho biết các thương nhân UAE sẽ trả giá mua thấp hơn 5usd/tấn so với giá chào. 

Mức giá này sẽ không lặp lại theo một nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ, người cho biết giá hiện nay đang ổn định.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 316usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Tư, tăng 1usd/tấn.

Các nhà xuất khẩu phôi thanh CIS tiếp tục tăng giá chào bán. Một vài nhà máy Ukraina đang yêu cầu mức giá bán là 335-340usd/tấn FOB BIển Đen. Một nhà máy Ukraina khác đã tham gia thị trường với sản lượng sản xuất còn lại của tháng 05 với mức giá 325usd/tấn FOB Biển Azov, thanh toán trước 5%.

Một nhà kinh doanh cho rằng mức giá trên mức giá chào 325usd/tấn FOB đã đạt được nhưng Các thương nhân khác đã tỏ ra dè dặt hơn trong định giá của mình. Mức giá cao hơn 330usd/tấn FOB được xem là sẽ không ngay lập tức khả thi.  Một thương nhân ở Ai Cập cho biết đã nghe nói có một lô hàng nhỏ 5.000 tấn được đặt ở mức 350-355usd/tấn CFR Ai Cập, tương đương khoảng 325-335usd/tấn FOB Biển Đen hoặc thấp hơn 10usd/tấn cho đơn hàng lớn hơn. Thỏa thuận này không được xác nhận bởi các nguồn tin khác.

Thị trường vẫn tiếp tục tăng với các nhà xuất khẩu Trung Quốc cũng đang tìm cách tăng giá với chào giá mới nhất chốt ở mức 310-320usd/tấn FOB Trung Quốc, cho hàng vận chuyển tháng 05, cập cảng tháng Bảy. Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho hay giá chào của Trung Quốc ở mức 330usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. 

Platts nâng định giá lên mức 316usd/tấn FOB Biển Đen do giá chào từ CIS được cho là tiếp tục tăng lần nữa cũng như niềm tin ngày càng tăng giữa các thương nhân cho rằng các đơn hàng sẽ chốt ở mức cao hơn so với trước đây.

Giá CRC tăng do nhà máy duy trì tăng giá

Hôm thứ Tư các nguồn tin cho biết mức tăng 30usd/tấn ngắn của tấm mỏng Mỹ thông báo tuần trước bởi các nhà máy Mỹ đang bắt đầu duy trì giá CRC và tấm mạ. Các nhà máy trong nước đang thúc đẩy báo giá mới cho CRC và tấm mạ lên mức khoảng 620usd/tấn ngắn.

Dựa trên giá chào cao hơn, Platts nâng định giá CRC hàng ngày thêm 20usd lên mức 600-620usd/tấn ngắn xuất xưởng, tăng từ mức 580-600usd/tấn ngắn. Định giá HRC vẫn ở mức 420-440usd/tấn ngắn, cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana).

Một người dùng cuối cho biết ông đặt mua tấm mạ ở mức giá cơ bản là 580usd/tấn ngắn trong tuần này, và đây có thể là lần cuối cùng người này có thể mua được ở mức giá đó. Các đại diện bán hàng của nhà máy đã được yêu câu nhanh chóng đẩy giá bán lên mức 610usd/tấn ngắn, ông nói.

Thời gian giao hàng cho tấm mạ đang kéo dài đến giữa hoặc cuối tháng 05. Mặc dù điều kiện ccơ bản của thị trường không thật sự mạnh mẽ đối với HRC, người dùng cuối cho biết rằng mọi người sẽ dễ dàng chấp nhận đợt tăng giá mới thêm 30usd/tấn ngắn này thậm chí là đối với HRC. "Tâm lý là trên mặt của nhà máy. Ông đồng ý rằng giá HRC hiện ở mức 420-440usd/tấn ngắn.

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết đã nhận được báo giá HRC tại mức 460usd/tấn ngắn từ ba nhà máy, và nghe nói giá tấm mạ kẽm đang khởi đầu ở mức 620usd/tấn ngắn.

Một nguồn tin nhà máy đã đồng ý rằng giá cả đang trong xu hướng tăng với hàng tồn kho thấp và giá phế tăng đang tác động lên thị trường.  

Hai người mua khác và một nguồn tin nhà máy cũng nói rằng các nhà máy đang chào giá CRC ở mức 620usd/tấn ngắn. 

Giá thép tấm Mỹ tăng vọt vì các nhà máy duy trì ở mức cao

Đà tăng giá trong thị trường thép tấm Mỹ tiếp tục hôm thứ Tư do các nguồn tin thị trường cho biết các nhà máy duy trì giá chào ở mức cao hơn sau thông báo tăng giá.

Một nguồn tin nhà máy cho biết đà tăng lên đang được thực hiện trên khắp thị trường do giá cả đang duy trì ổn định lần đầu tiên trong năm nay và thời hạn ưu đãi của các đơn hàng có giá bán thấp hơn được chấp nhận bởi các nhà máy đã không còn xảy ra. Chào giá mới là 550-560usd/tấn ngắn cho A36 cơ bản vận chuyển, theo các nguồn tin mua-bán.

Giám đốc điều hành nhà máy này cho biết đã không nhìn thấy một sự biến động nào trong đơn đặt hàng kể từ thông báo giá tăng gần đây, tăng lên hoặc giảm xuống, trong khi giao dịch vẫn ổn định.

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết sự thúc đẩy giá cao hơn của nhà máy đối chắc chắn là do vấn đề chi phí. Nhưng mặc dù nhu cầu tiêu thụ đi ngang hàng tồn kho của nhà phân phối ở mức thấp đã chuyền quyền kiểm soát giá cả vào tay nhà máy. Người này cho biết nếu ông đặt đơn hàng giao ngay là 500usd/tấn ngắn thì hiện tại giá của nó sẽ không thấp hơn 560usd/tấn ngắn vận chuyển.

Platts định giá thép tấm A36, xuất xưởng đông nam Mỹ, ở mức 520-530usd/tấn ngắn hôm Thứ sáu, tăng từ mức 480-500usd/tấn ngắn.

Một nguồn tin nhà máy thứ hai đồng ý rằng hàng tồn kho của các trung tâm dịch vụ và nhà phân phối ở mức thấp đang hỗ trợ giá giao dịch. Ông lưu ý rằng người mua đang cố gắng đẩy cho giá xuống thấp hơn nhưng không tạo được lợi thế vì không còn hàng dự trữ để bán.

Một người mua cho biết đơn hàng cuối cùng mà người mua ở mức là 550usd/tấn ngắn cơ bản vận chuyển. Sự kết hợp của các chi phí phế tăng lên, hàng tồn kho của trung tâm dịch vụ ở mức thấp, thời gian giao hàng của nhà máy nội địa kéo dài và các trường hợp trì hoãn giao dịch mua bán ngày một nhiều hơn đang hỗ trợ đà tăng giá của nhà sản xuất. 

Theo các nguồn tin, thời gian giao hàng hiện khoảng 4-5 tuần,. Các nguồn tin nhà máy cho biết thời gian giao hàng dài hơn buộc người mua nhanh chóng quyết định mua hàng, do hàng tồn kho đang ở mức thấp. Người này tin rằng giá thép tấm A36 tấmđang tiến tới mức 560usd/tấn ngắn vận chuyển do mức giá thấp hơn trong năm 2015 và đầu năm 2016 không thể bền vững trong bối cảnh chi phí đầu vào tăng mạnh.

HRC Ấn Độ tiếp tục tăng giá

Giá HRC ở Ấn Độ tuần này tăng 1.000  Rupees/tấn (15 USD/tấn) so với tuần trước, vì các thương nhân tiếp tục mua đầu cơ, sợ giá sẽ tăng cao hơn. Platts định giá HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm ở mức 27.500-28.500 Rupees/tấn (411-426 USD/tấn) xuất xưởng.

Các nhà máy Ấn Độ hiện nay đã nâng giá HRC trong nước thêm 4.000  Rupees/tấn kể từ khi New Delhi áp dụng chính sách giá nhập khẩu tối thiểu (MIP) có hiệu lực từ ngày 5/2. Các thương nhân đã chấp nhận mức giá này mặc dù việc thu mua là do tâm lý. Các thương nhân đang tích trữ hàng nhưng không nhất thiết phải bán ra tất cả tới người tiêu dùng.

Đơn hàng thưa thớt trong tuần này vì hầu hết các ngân hàng đều đóng cửa nghỉ lễ Holi vào thứ Năm và  long Easter vào cuối tuần.

Tuy nhiên, sức mua đã ổn định trong suốt tháng này, tháng cuối cùng của năm tài khóa. Hầu hết các công ty nhà nước mà mua thép cho các dự án cơ sở hạ tầng phải hoàn tất việc thu mua theo quy định của họ trước cuối tháng này.

MIP tiếp tục cản trở việc nhập khẩu, ngoại trừ những nhà cán lại nhập thép để gia công sau đó tái xuất trở lại là không bị áp MIP. Tuy nhiên, những đơn hàng như vậy chiếm khối lượng rất nhỏ chỉ khoảng 10.000 tấn hàng quý.

Trong khi đó, theo số liệu từ Joint Plant Committee, nhập khẩu HRC của cả nước trong tháng 2 tăng 16% so với tháng 1 đạt 201.530 tấn, cho thấy thép được đặt mua trước khi áp dụng MIP đã vụt tăng. Các nhà nhập khẩu sợ việc truy hồi thuế nên đã giảm đặt hàng  ngay cả khi cuộc điều tra MIP đã được tiến hành.

Giá phế ven biển Mỹ tăng cùng với giá nội địa

Giá ven biển ở Mỹ dự kiến ​​sẽ không có sẵn cho các nhà máy trong nước với số lượng đáng kể trong tuần mua tháng 04 do giá xuất khẩu và nhu cầu tiêu thụ tăng cao. Xuất khẩu Bờ Đông Mỹ đang chào giá ở mức cao 190usd/tấn dài cho phế HMS I vận chuyển bằng đường sắt. Giá chào đến các nhà cung cấp địa phương cũng đang được nâng lên mức khoảng 150usd/tấn dài cho HMS I cơ bản.

Mặc dù giá chào tăng, các nhà cung cấp phế hiện vẫn không muốn bán phế đến khu vực bờ biển vì muốn chờ đợi xem giá trong nước sẽ cao đến mức trong tháng 04. Các nhà xuất khẩu "đang đàm phán với với các đại lý lớn hơn nhưng hầu hết các đại lý đó đều quyết định trì hoãn giao dịch", một nhà cung cấp cho biết.

Giá phế tháng 04 dự kiến ​​sẽ tăng tối thiểu là 20usd/tấn dài và chào giá giữa tháng này của một đại lí  cao hơn 50-60usd/tấn dài so với tuần mua tháng 03.

Giá Platts ngày cho phế vụn duy trì ở mức 220-240usd/tấn dài giao đến Midwest, tăng 20usd/tấn dài từ mức đầu tháng 03.

Chào giá cao nhất trong tuần này là 280usd/tấn dài cho phế vụn và 290usd/tấn dài cho cho phế busheling No.01 vận chuyển đến khu vực Đông Nam. Những mức giá đó là "quá cao", một nhà cung cấp địa phương nói. "Có nghĩa là mức tăng 50-60usd.” Mức tăng 25-40usd tho người này có khả năng duy trì bền vững hơn.  

Nhà máy và các đại lý đang bày tỏ sự lo ngại về một sự điều chỉnh có thể xảy ra nếu giá phế tháng 04 tăng cao hơn đáng kể.  

"Thị trường chắc chắn đang ổn định", một nhà cung cấp khu vực Đông Nam cho biết. "Hầu hết các tin đồn là trong phạm vi tăng 20-30usd/tấn dài. Một tăng tới [50-60usd] sẽ không nhanh chóng xuất hiện.”

Các nhà cung cấp ở West Coast cũng đang nâng giá chào xuất khẩu trong HMS 80:20 container lên đến  204-205usd/tấn CFR đến Đài Loan và 220usd/tấn CFR đến Việt Nam.

Giá mới nhất được trả ở Đài Loan được biết ở mức 195-198usd/tấn CFR cho container HMS 80:20.

Một nhà cung cấp Bờ Tây mô tả tìn hình thị trường là không đủ phế, hoặc phôi, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ.

Thương nhân đang nhận 200usd/tấn FAS Cảng Long Beach, California hôm thứ Tư cho phế liệu vụn container. Giá phế của Nhật Bản cũng đang tăng cao, giúp duy trì tính cạnh tranh của phế Mỹ mặc dù giá tăng liên tiếp trong tháng 03.

 

Platts định giá phế container HMS 80:20 West Coats tại mức 195usd/tấn FAS Cảng Los Angeles hôm thứ Tư, tăng từ mức 185.50usd/tấn.

HRC Trung Quốc tăng theo giá phôi thanh và giá giao sau

Giá HRC giao ngay trên thị trường Thượng Hải đã tăng 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) hôm thứ Tư cùng với giá giao sau và phôi thanh. Tuy nhiên, giao dịch vẫn còn trì trệ vì người mua không muốn đặt hàng trong lúc thị trường vẫn đang bất ổn.

Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 2.450-2.470 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Tư, mức trung bình 2.460 NDT/tấn, tăng 50 NDT/tấn so với ngày trước đó. Giá HRC ở Thượng Hải đã tăng 650 NDT/tấn từ mức thấp kỷ lục hồi tháng 12. Cùng ngày, trên sàn Shanghai Futures Exchange, hợp đồng HRC giao kỳ hạn tháng 5 được chốt tại 2.401 NDT/tấn, cao hơn ngày trước đó 37 NDT/tấn.

Giá phôi thanh cao hơn là một lý do khác khiến thị trường HRC phục hồi. Giá phôi ở tỉnh Hà Bắc đã tăng 20  NDT/tấn vào sáng thứ Ba và sau đó lại tăng thêm 30 NDT/tấn vào buổi chiều.

Một số đại lý ở Thượng Hải mà nâng chào giá lên 10-20 NDT/tấn vào buổi sáng thứ Tư, đã chọn cách tăng chào giá thêm 20-30 NDT/tấn vào chiều cùng ngày, chỉ để phản ánh sự thay đổi của giá phôi. Một đại lý ở Thượng Hải cũng cho biết chào giá cao hơn từ các nhà máy là một nguyên nhân khác dẫn đến đợt phục hồi mới đây khi các đại lý bị gánh nặng chi phí đặt hàng cao từ các nhà máy không muốn bán giá thấp. Một nhà phân tích cho biết giá tăng gần đây một phần là do tồn kho thị trường thấp do các nhà máy và đại lý đều giảm lượng hàng dự trữ quá mức.

Trong khi đó, nhu cầu thép silic và tấm ô tô lại bùng nổ kể từ tháng 9 và 10 năm ngoái đã khiến nhiều nhà máy trong nước tối ưu hóa cơ cấu sản phẩm của họ và giảm sản lượng các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp hơn như HRC và thép dài. Điều này đã làm giảm nguồn cung HRC trên thị trường giao ngay và đẩy giá đi lên từ cuối năm ngoái.

Tính đến ngày 15/3, theo Mysteel, HRC tồn kho tại 33 thành phố lớn còn tổng cộng 2,36 triệu tấn, giảm 27.500 tấn so với tuần trước đó và 788.800 tấn so với cùng kỳ năm ngoái. 

Người mua cuộn trơn đứng bên lề trong bối cảnh giá ở Châu Á tăng

Giá giao ngay của cuộn trơn ở Châu Á đã chứng kiến sự phục hồi từ ngày 17-23/3, cho thấy chào giá nhà máy cao hơn và giá Trung Quốc tăng. Sự gia tăng đột biến đã khiến người mua ở Châu Á nhìn chung đang phản đối giá cuộn trơn Trung Quốc cao hơn. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm ở mức 330-335 USD/tấn FOB, tăng 12 USD/tấn so với 1 tuần trước đó.

Một số nhà cung cấp cuộn trơn ở miền bắc Trung Quốc đang chào giá  345-350 USD/tấn FOB, so với khoảng 335 USD/tấn FOB của tuần trước. Nghe nói một số nhà máy nhỏ hơn trong khu vực này đã chào giá 340 USD/tấn FOB. Hai nhà máy lớn ở miền đông chào giá 355 USD/tấn và 360 USD/tấn, tăng khoảng 15 USD/tấn so với tuần trước đó.

Chào giá của nhà máy tăng nhanh đã làm hạn chế hoạt động giao dịch. Người mua ở nước ngoài hoặc là bi quan về triển vọng thị trường hoặc thấy giá quá cao để chấp nhận. Các thương nhân cũng ngừng yết giá, vì muốn quan sát xu hướng thị trường.

Tâm lý lạc quan đã lan tỏa khắp thị trường, cùng với sự gia tăng của giá niêm yết trong nước từ các nhà máy. Hôm 23/3, Yanshan Iron & Steel (Yangang), ở thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, nhìn thấy giá phôi thanh tại cuộc đấu giá trong tuần này tăng 12% tức 213 NDT/tấn (33 USD/tấn) so với tuần trước đó lên 2.008 NDT/tấn. Giá của Yangang là một chong chóng gió cho thị trường phôi thanh ở Đường Sơn.

Giá phôi thanh tăng đã khiến các nhà sản xuất thép thành phẩm tăng giá.  Jiujiang Iron & Steel, một nhà xuất khẩu ở tỉnh Hà Bắc, hôm thứ Tư đã nâng giá thép dây thêm 170 NDT/tấn (26 USD/tấn) lên 2.190 NDT/tấn (337 USD/tấn).

Hôm 23/3 ở thị trường Thượng Hải, giá cuộn trơn Q195 6.5mm định giá 2.250-2.270 NDT/tấn (346-349 USD/tấn) gồm 17% VAT, tăng 155 NDT/tấn (24 USD/tấn) so với 1 tuần trước đó. Nhiều người cho biết hoạt động giao dịch đã chậm lại sau khi tăng nhanh trong tuần này. 

HRC Châu Á tiếp tục tăng khi các thương nhân tăng cường mua vào

Hôm thứ Tư, giá giao ngay của HRC ở Châu Á tăng trong ngày thứ 5 liên tiếp khi một số thương nhân tăng cường mua vào, vì cược giá sẽ tiếp tục tăng khi thị trường Trung Quốc phục hồi và thiếu nguồn cung. Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 357-363 USD/tấn, mức trung bình 360 USD/tấn FOB, tăng 2 USD/tấn so với ngày trước đó.

Một số thương nhân đã chào bán HRC SS400 từ một nhà máy ở miền bắc là 365 USD/tấn CFR Việt Nam (với phí vận chuyển 8 USD/tấn). Một số giao dịch đã được chốt ở mức như vậy mặc dù chính nhà máy đã nâng chào giá lên 370 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Tư.

Một thương nhân khác ở đông bắc đã nhận được chào giá mua 362  USD/tấn CFR Việt Nam từ một người mua Việt cho loại thép này. Các nhà máy Trung Quốc không sẵn sàng bán HRC SS400 dưới mức 360 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Nguồn cung HRC từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản bây giờ đều đã hạn chế, vì vậy các thương nhân đang lao vào mua thép từ các nhà máy Trung Quốc với giá cao và sau đó đợi sự chấp nhận của người mua ở nước ngoài hai hay ba ngày sau đó. Công ty ông đã từ chối chào giá tới người mua ở nước ngoài sau 4 giờ chiều, vì sợ giá sẽ tăng vào ngày sắp tới.

Thép cuộn loại cán lại được sản xuất bởi Guofeng Iron & Steel ở miền bắc được chào giá 390 USD/tấn CFR Việt Nam. Một số thương nhân thậm chí đã chào giá cao 400 USD/tấn CFR Việt Nam. Một nhà máy Hàn Quốc chào giá 399 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn loại cán lại hôm thứ Tư, nhưng không có chào giá mua nào được nhận.