Giá HRC nội địa tăng do đồng Pupee suy giảm
Sự mất giá liên tục của đồng rupi và quan ngại thị trường tiền tệ Ấn Độ sẽ tiếp tục suy yếu đang thúc giục các nhà cung cấp HRC Ấn Độ tăng giá thị trường nội địa. Sự bất ổn này đang khiến cho thị trường nhanh chóng chấp nhận việc giá cả tăng.
Các nhà tham gia thị trường nhẩm tính giá trong nước tăng có thể làm lợi cho nhà sản xuất và các nhà nhập khẩu vì người mua sau phải gánh một khoảng thiệt hại lớn từ các lô hàng nhập khẩu do đồng rupi yếu trong khi nhu cầu tiêu thụ nội địa chậm.
Nhiều nguồn tin nhận định tin giá HRC nội địa tăng cũng có thể thúc đẩy doanh số hàng giao ngay tăng lên. Thị trường trong nước hiện đang rất yếu nhưng hình như các nhà máy không để ý tới điều này và tình huống xấu nhất có thể xảy ra là thị trường sẽ không chấp nhận giá mới mà vẫn tiếp tục giao dịch ở mức giá hiện tại. Giá giao dịch trung bình HRC IS 2062 A/B dày 3mm hiện ở mức 33.750-34.250 Rupi/tấn (tương đương 596-578 USD/tấn).
Trong khi đó thì các nhà máy thì cho rằng để thị trường tốt hơn các nhà máy đáng ra có thể tăng 2000-3000 rupi/tấn (34-51 USD/tấn) từ bây giờ. Từ thứ Sáu tuần trước, đồng Rupi sụt giá 5,8% so với đồng dollar Mỹ, đạt 59,4 điểm và giảm 8,8% so với dollar Mỹ tính từ tháng 05.
Hiện tại sự tăng giá này là gần như chắc chắn, mọi thay đổi giá có thể được công bố trong vài ngày tới và có hiệu lực từ ngày 1/07, được biết hiện các nhà máy đang cân nhắc mức tăng 1.000-1.500 rupi/tấn (tương đương 17-25 USD/tấn).
Phôi tháng 07 của CIS tăng giá theo phế liệu
Giá xuất khẩu phôi thanh giao tháng 07 của CIS tăng từ cuối tuần trước do giá phế nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh.
Một số nhà sản xuất Nga và Ukraina đang chào giá giao tháng 08 là 500 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng vẫn chưa được các nhà tiêu dùng trực tiếp ở khu vực Trung Đông/Bắc Phi chấp nhận.
Đối với những hợp đồng đã được giao dịch, giá bán giữa các thương nhân với nhau là 495 USD/tấn FOB Sebastopol/Odessa, trong khi một số lô hàng giao ngay của các thương nhân cho các nhà cán lại ở quanh ngưỡng 490 USD/tấn FOB đối với loại 5sp.
Hiện có rất ít nhà máy chào bán phôi sản xuất tháng 07. Trước đó một nhà sản xuất Ukraina đã chốt hợp đồng tại mức 495 USD/ tấn fob Mariupol, trong khi đó các thương nhân vẫn muốn găm hàng và chưa chịu bán ra vì cho rằng các giao dịch phế gần đây đang tăng lên và có thể sẽ chạm ngưỡng 350 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá tại Platts đã tăng thêm 1,5 USD/tấn lên 496,5 USD/tấn FOB Biển Đen, đây là mức giá có thể được giao dịch cho các hợp đồng tháng 07 sang Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ.
Các nhà máy tăng tích trữ hàng - giá quặng tăng
Trong tuần qua, giá quặng nhập khẩu đã tăng lên do sức mua quặng được đẩy mạnh dựa trên sự phục hồi của giá thép cũng như nhu cầu tái bổ sung tích trữ của các nhà máy thép Trung Quốc sau khi xả hàng hồi tháng 5. Tuy nhiên, vào cuối tuần, sự lo ngại về giá thép đảo chiều đã kéo theo giá quặng giảm trở lại. Nhưng về tổng thể, giá quặng nhìn chung vẫn là tăng.
Theo mức giá tham khảo của Steel Index, giá quặng sắt 62% đã tăng thêm 5.0 USD/tấn, tương đương với 4.4% lên mức 118.60 USD/tấn CFR giao tại cảng Thiên Tân. Trong khi đó, giá quặng Platts 62% Fe IODEX cũng tăng thêm 4%, đạt mức 118.75 USD/tấn CFR giao tại miền Bắc Trung Quốc.
Trong suốt nửa cuối tháng 5, nhiều nhà sản xuất thép Trung Quốc đã bán các lô quặng hợp đồng dài hạn tại thị trường giao ngay và giữ lượng quặng tồn kho ở mức thấp do lo ngại thị trường thép và quặng còn diễn biến tiêu cực trong tháng 6 và 7. Do đó, các nhà máy hiện tại đã trở lại thị trường để thu gom quặng tích trữ, một thương nhân Singapore nói.
Sự phục hồi trong giá thép đã đẩy giá quặng tăng lên. Trong ngày thứ tư tuần rồi (19/6), nhà máy Yanshan Steel ở Đường Sơn cũng đã bỏ thầu phôi vuông với giá 2.944 NDT/tấn ( 477.25 USD/tấn) xuất xưởng, cao hơn 51 NDT/tấn so với tuần trước đó. Gía thép hiện nay đang dần phục hồi sau khi đã giảm trong một thời gian dài, một nhà máy ở Bắc Hải cho biết.
“Giá thép tăng trưởng mạnh hơn đang hỗ trợ cho sự tăng mua các lô hàng quặng.”
Tuy nhiên, giá quặng sắt sẽ không thể duy trì đà tăng này được lâu dựa trên căn bệnh lâu năm về nguồn cung dư thừa. Xu hướng giá quặng tăng lên cũng không đủ sức kéo lại niềm tin của thị trường trong bối cảnh nền kinh tế vĩ mô trong nước đang suy thoái như hiện nay.
Đến cuối tuần, lại chứng kiến sự giảm trở lại của giá quặng. Người mua đã dần rút khỏi thị trường giao ngay do nghi ngờ sự phục hồi của giá thép trong thời gian gần đây sẽ không thể duy trì đà tăng của giá quặng được lâu.
Xuất khẩu HDG Ấn Độ ổn định dù đồng Rupee suy yếu
Tuần qua, giá xuất khẩu HDG Ấn Độ vẫn duy trì ổn định nhưng ngày càng có nhiều nhà cung cấp đưa ra các mức giá giao dịch khác nhau. Một số nhà máy vẫn giữ nguyên giá chào bán mặc dù trong tuần qua đồng rupi mất giá thêm 1,8%, trong khi một số nhà máy khác được cho là sẵn sàng giao dịch với giá thấp hơn 5-10 USD/tấn so với tuần trước đó.
HDG loại dày 0,3mm mạ 90g kẽm trên một mét vuông vẫn giữ nguyên giá cũ 825-840 USD/tấn cfr USA, bao gồm phí vận chuyển 55-60 USD/tấn, giao cuối tháng 07 đầu tháng 08.
Theo một quan chức tại một nhà máy hàng đầu ở Ấn Độ cho biết, giao dịch của nhà máy với các lô hàng trọng tải nhỏ, giá trung bình khoảng 840 USD/tấn cfr; với các lô hàng lớn 1000-2000 tấn, giá trung bình khoảng 825 USD/tấn cfr và không có ý định cân nhắc với mức giá thấp hơn nữa.
Một nhà máy phức hợp chào giá nguồn nguyên liệu 830 USD/tấn cfr và sẵn sàng giao dịch cho đơn đặt hàng trong khoảng 815-820 USD/tấn cfr, nguồn tin từ một công ty có trụ sở ở Mumbai cho hay. Tuy nhiên ông nhận thấy khách hàng chỉ muốn mua với giá dưới 800 USD/tấn cfr. “Chúng tôi rất muốn đặt hàng nhưng tỉ giá đồng rupi thì lại không ổn định, rất khó để bán trong tình hình thị trường như thế này.”, ông nói
Mặc dù giá tháng 06 giảm 15-20 USD/tấn so với giá cuối tháng 5 nhưng thật ra giá giao dịch vẫn duy trì ổn định bất chấp đồng rupi giảm 5,8% trong tháng này. Một thương nhân ở Mumbai nhẩm tính các nhà máy đã được một khoảng lợi 50 USD/tấn do sự suy yếu của đồng rupi và không ngạc nhiên gì cho lắm nếu các nhà máy xem xét giá giao dịch thấp hơn.
Số lượng các đơn đặt hàng ngày càng tăng sau khi bản báo cáo của chính phủ Mỹ cho biết nền kinh tế Mỹ đang phục hồi.
Thị trường phế tuần qua: giảm ở Châu Á, tăng tại các nơi khác
Nhập khẩu phế ở Đông Á diễn ra chậm trong suốt tuần qua. Hàn Quốc giảm mua phế liệu của Nhật Bản do các nhà máy phải cắt giảm lượng điện tiêu thụ theo kế hoạch tiết kiệm năng lượng bắt buộc của chính phủ. Các lần đặt hàng gần đây nhất là cho các lô hàng giao cuối tháng 07 và trong tháng 08.
Nhiều nguồn tin cho rằng công ty Huyndai Steel sẽ sớm đặt từ Nhật Bản phế H2 ở mức 29.500-30.000 Yen/tấn fob (tương đương 302-307 USD/tấn). Cách đây hơn một tuần nhà máy này đã mua phế H2 của Nhật với giá 30.000 Yen/tấn fob.
Thứ Sáu trước, nhà máy Tokyo Steel Manufacturing thông báo có thể giảm giá mua phế khoảng 500 Yen/tấn (tương đương 5 USD/tấn) tại hầu hết các xưởng phế liệu trừ xưởng Utsunomiya, phía bắc tỉnh Kanto. Giá mua phế H2 mới tại xưởng Tahara, tỉnh Aichi có thể là 32.000 Yen/tấn (tương đương 327 USD/tấn) còn tại Utsunomiya giá vẫn duy trì ở mức 32.000 Yen/tấn.
Các thương nhân mua phế ở khu vực vịnh Tokio trả 30.000-30.500 Yen/tấn FAS (tương đương 309-314 USD/tấn), giảm 300-500 Yen/tấn so với tuần trước.
Phế HMS 1&2 80:20 nguồn gốc Mỹ giá vẫn ổn định ở mức 360-370 USD/tấn cfr Đông Á. Giá phế nhập khẩu vào khu vực này tiếp tục được giữ ổn định vì thị trường giá thép thành phẩm trì trệ.
Cách đây 2 Tuần hai đơn hàng lớn đặt mua phế Mỹ ở mức giá 358-360 USD/tấn cfr Đài Loan cơ bản. Tuần trước một nhà cung cấp phế hàng đầu của Mỹ bán một lượng phế 80:20 (1000-2000 tấn) tới Kaohsiung với mức giá 338 USD/tấn cfr.
Giao dịch phế ở Thổ Nhĩ Kỳ khởi động lại từ thứ Sáu tuần trước sau khi các nhà máy thép duy trì việc tăng giá cho mặt hàng thép thành phẩm xuất khẩu. Các nhà sản xuất ở Iskenderun đặt mua phế từ Mỹ, khu vực Benelux và CIS. Một lô nguyên vật liệu 1000 tấn loại 80:20 và một lô 5000 tấn loại HS nguồn gốc Rumani được bán ở mức 355-375 USD/tấn cfr Iskenderun.
Các chào bán từ Mỹ được cho là khoảng 365 USD/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ. Hôm thứ Sáu Platts tăng giá phế 80:20, 8 USD, lên 358 USD/tấn cfr cảng Thổ Nhĩ Kỳ. Kết thúc phiên giao dịch tuần rồi, giá phế tham khảo chốt ở mức 358 USD/tấn cfr Thổ Nhĩ Kỳ so với mức 343 USD/tấn của tuần trước đó.
Tại Mỹ, giá phế 80:20 tại cảng thuộc khu vực bờ biển phía đông tăng 280-290 USD/tấn dài, gồm phí vận chuyển. Một nguồn tin cho rằng nguồn dự trữ phế trong kho thấp và dự đoán Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tham gia thị trường trong tháng 07.
Các thương gia giữ giá nội địa cao hơn so với giá nhập khẩu vì các nhà máy sản xuất thép tìm kiếm nguồn hàng có thể giao nhanh. Giá phế loại thượng hạng ở bang Ohio tăng ở mức cao lên 440 USD/tấn dài, gồm phí vận chuyển. Giá tham khảo trung bình tuần trước tại TSI cho vụn phế khoảng 363 USD/tấn dài giao tới nhà máy.
Sản lượng thép thô TQ dự báo đạt 770 triệu tấn 2013
Sản lượng thép thô Trung Quốc năm nay (2013) có thể đạt 770 triệu tấn, tăng 7.4% so với cùng kỳ năm ngoái và vượt mức dự báo tăng trưởng đầu năm (5%), theo Li Xinchuang- Phó Thư ký Hiệp Hội Gang thép Trung Quốc (CISA) cho biết.
Tại Hội Nghị Thượng Đỉnh Thép Bền vững diễn ra ở Bắc Kinh hôm thứ năm vừa rồi (20/6), Ông Li cho biết, sản lượng thép năm nay tăng chủ yếu là do Nhà nước tiếp tục đầu tư mạnh vào tài sản cố định trong nước cũng như cho xuất khẩu thép.
“Tiêu thụ thép trước giờ ở Trung Quốc vẫn nhận được sự hỗ trợ lớn từ các khoản đầu tư tài sản cố định, và năm 2013 cũng vậy ”, Ông Li cho biết . Không những thế, trong 5 tháng đầu năm nay, số vốn đầu tư này còn tăng thêm 20% mặc dù nền kinh tế trong nước đang suy thoái, Ông nói thêm.
Xuất khẩu thép của Trung Quốc cũng tăng trưởng mạnh hơn trong 5 tháng đầu năm mặc dù có nhiều lô hàng đang bị kiện chống bán phá giá, thuế và bảo hộ thương mại, Ông Li nói thêm. Cũng trong giai đoạn này, Trung Quốc đã xuất khẩu được 25.4 triệu tấn thép thành phẩm, tăng 15.4% so với cùng kỳ năm ngoái, theo thống kê Cục hải Quan cho biết.
Sức tiêu thụ mạnh ở thị trường trong và ngoài nước sẽ giữ cho sản lượng thép Trung Quốc đạt mức cao. Trong 5 tháng đầu năm nay, sản lượng thép thô Trung Quốc đã tăng thêm 8%, đạt 325 triệu tấn so với cùng kỳ năm ngoái, theo thống kê chính thức gần đây nhất cho biết.
Kết thúc Hội Nghị, Ông Li đã loại trừ khả năng sản lượng thép có thể giảm trong nửa cuối năm nay. Ông nói:“ Một vài nhà máy thép có thể sẽ cắt giảm sản lượng bởi vì lợi nhuận kiếm được quá ít hoặc đang bị thua lỗ, nhưng lý do chính vẫn là do nguồn cung quá mức”.
Bình quân sản lượng thép thô Trung Quốc trong 10 ngày đầu tháng 6 đã tăng trở lại sau khi giảm nhẹ vào 10 ngày trước đó, đạt 2.156 triệu tấn/ngày.
Phôi nhập khẩu tăng giá ở Đông Nam Á
Một nguồn tin cho hay tuần trước các nhà cung cấp phôi nhập khẩu cho khu vực Đông Nam Á tăng giá phôi giao tháng 07, 08 lên mức 530-535 USD/tấn cfr Đông Nam Á so với giá tuần trước nữa là 520-530 USD/tấn cfr Đông Nam Á, nhưng vẫn chưa có người mua tại mức giá mới này.
Doanh số mua bán phôi nhập khẩu ở mức giá thấp hơn là nguyên nhân khiến các thương nhân quốc tế do dự giao dịch. Đầu tuần trước, 20.000 tấn phôi thép nguồn gốc Hàn Quốc giao tháng 06 được bán cho Philippines ở giá 515 USD/tấn cfr Philippines. Sở dĩ giá như vậy là do nhà cung cấp này muốn nhanh chóng bán được lô hàng giao ngay
Sức mua của thị trường vẫn không tăng vì người mua cho rằng các thương nhân trong nước vẫn còn hàng dự trữ và thị trường thép thành phẩm hoạt động chậm. Nguồn cung quá dồi dào của Trung Quốc là nguyên nhân chính khiến cho thị trường giao dịch trì trệ. Giá phôi Hàn Quốc vẫn chỉ ở mức 525 USD/tấn cfr Phillipines dù giá chào bán tăng.
Tại Indonesia, 18.000 tấn phôi Hàn Quốc được đặt mua ở mức 518-523 USD/tấn cfr cách đây hai tuần. Một nhà nhập khẩu cho biết giá đang tăng nhưng không có bất cứ người mua mới nào.
Trong khi đó, giá chào bán 10.000-15.000 tấn phôi vuông 130/150mm của Nga ở mức 480-485 USD/tấn cfr Đài Loan, gây ngạc nhiên cho các thương nhân trong khu vực. Một nhà máy Đài Loan đã trả giá ở mức 470 USD/tấn cfr để mua lô hàng này.
Giá phôi thép nội địa Đài Loan tương đương 480-485 USD/tấn, các nhà cán lại chỉ mua phôi nhập khẩu trừ khi có thể đặt được mức giá thấp hơn so với giá phôi sản xuất trong nước. Giá chào bán phôi Đài Loan hiện nay khoảng 490-495 USD/tấn fob.
Thị trường phế liệu Trung Quốc ổn định
Thị trường phế liệu nội địa Trung Quốc trong tuần qua (15-21/6) tương đối ổn định. Trong ngày thứ sáu (21/6), gía phế liệu HS>6mm giao tới nhà máy ở tỉnh Giang Tô đã đạt mức 2.325 NDT/tấn (377 USD/tấn) đã gồm VAT. Cũng trong tuần, thị trường thu mua phế liệu đã chứng kiến sự góp mặt trở lại của Zenith- một nhà sản xuất thép EAF lớn ở Giang Tô sau 2 tháng vắng bóng.
Ngay khi trở lại thị trường giao dịch, Zenith đã nâng giá thu mua phế liệu HS>6mm thêm 50 NDT/tấn, lên mức 2.310 NDT/tấn đã gồm VAT. Zenith cũng tuyên bố rằng sẽ giành lại các nguồn cung phế liệu của nó trên thị trường mặc dù hiện tại nó đã có đủ lượng phế liệu để tiến hành sản xuất.
Trong khi đó, cả hai nhà sản xuất thép Shagang và Xingcheng Special Steel đều giữ nguyên mức giá thu mua phế liệu của họ như ở tuần trước.
Shagang nói rằng không cần thiết phải thay đổi giá thu mua phế liệu vì nguồn cung phế vẫn đang ở mức bình thường. Như vậy, giá phế liệu HS>6mm và TS>6mm do Shagang thu mua lần lượt ổn định ở mức 2.320 NDT/tấn và 2.420 NDT/tấn đã gồm VAT.
Tương tự, Xicheng Special Steel cũng đã giữ nguyên giá thu mua 2 mặt hàng trên ở mức lần lượt 2.250 NDT/tấn và 2.400 NDT/tấn đã gồm VAT.
Trong khi đó, nhà kinh doanh phế Xuzhou Xingfeng ở Giang Tô nói rằng đã mua được phế liệu HS>6mm với giá gốc 2.020-2.050 NDT/tấn đã gồm VAT, và bán lại phải ở mức 2.283-2.317 NDT/tấn thì mới có lời. Cùng thời điểm, Xinhua-một nhà cung phế liệu khác trong khu vực đã bán cho Shagang với mức giá 2.100 NDT/tấn đã gồm VAT, cao hơn 45 NDT/tấn so với giá niêm yết của Shagang.
Tập đoàn Fengli Group-nhà kinh doanh phế liệu lớn nhất ở Trung Quốc cũng đã chào bán phế liệu HS>6mm với mức giá 2.600 NDT/tấn xuất xưởng đã gồm VAT. Qua đó, có thể thấy rằng, trong thời điểm hiện tại, các nhà kinh doanh phế liệu không cần phải gấp rút bán hàng.
Taigang hạ giá thép không gỉ austenitic tháng 7
Theo đà giảm của giá thép không gỉ cộng với giá niken đang dần suy yếu, Shanxi Taigang Stainless Steel của Trung Quốc đã giảm giá xuất xưởng 700 NDT/tấn (113 USD/tấn) đối với sản phẩm thép không gỉ austenitic giao tháng 7.
Theo đó, thép cuộn/tấm cán nóng HRC 304 3-12mm và thép cuộn/tấm cán nguội CRC 304 2B 2mm lần lượt được điều chỉnh về 15.900 NDT/tấn ( 2.570 USD/tấn) và 16.100 NDT/tấn đã gồm 17% VAT. Còn CRC 430 2B 2mm cũng giữ nguyên mức 10.500 NDT/tấn đã gồm 17% VAT.
Ngoài lý do giá niken suy yếu, Tagang cũng đã quyết định hạ giá thép không gỉ để phù hợp với mức giá thấp của thị trường, đại diện của Taigang cho hay. Người này cũng nói thêm rằng tình hình giao dịch trên thị trường giao ngay không có tín hiệu cải thiện, trong khi giá nicken ngày một yếu đi.
Giá nickel từng chạm xuống mức thấp nhất trong vòng bốn năm qua sau khi chốt ở mức 13.740/5 USD/tấn vào ngày 20/06/2013, giảm 500 USD/tấn so với tuần trước đó.
Cũng trong tuần trước, Taigang đã hạ giá thép không gỉ austenitic xuất khẩu 50 USD/tấn. “Để bán được hàng, trong năm nay, các nhà sản xuất thép Trung Quốc dường như đã cắt giảm gía mạnh tay hơn so với năm trước đó”, một thương nhân HongKong bình luận.
Shagang vẫn giữ nguyên giá thép cây xây dựng cuối tháng 6
Hôm thứ sáu tuần qua ( 21/6), Tập đoàn Shagang Group ở miền đông Trung Quốc đã thông báo sẽ vẫn giữ nguyên giá thép cây giao kỳ hạn vào 10 ngày cuối tháng 06 (21-30/6) như hồi giữa tháng.
Theo đó, thép cây xây dựng HRB335 16-25mm và HRB400 16-25mm lần lượt ở mức 3.360 NDT/tấn (548 USD/tấn) và 3.410 NDT/tấn (556 USD/tấn) đã gồm 17% VAT. Tương tự, giá mặt hàng thép cuộn trơn HPB300 kỳ hạn cuối tháng 6 cũng được giữ nguyên ở mức 3450 NDT/tấn (563 USD/tấn) đã gồm VAT.
Tuy nhiên, cũng trong ngày thứ sáu ( 21/6), giá thép cây giao ngay tại miền Bắc Trung Quốc đã có dấu hiệu suy giảm, dựa trên nhu cầu tiêu thụ chậm chạp cũng như các báo cáo số liệu sản xuất suy yếu của nền kinh tế trong nước, theo một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết. Cụ thể, giá thép cây HRB400 18-25mm giao ngay tại thị trường Bắc Kinh do Hebei Iron & Steel (Hegang) sản xuất chỉ còn 3.380-3.390 NDT/tấn (551-553 USD/tấn) đã gồm 17% VAT, giảm 10 NDT/tấn ( 2USD/tấn) so với ngày hôm trước (20/5).
“Việc giảm giá cũng không mấy kết quả trong việc đẩy doanh số bán hàng”, một thương nhân Bắc Kinh cho biết. Do đó, phần lớn các thương nhân vẫn giữ nguyên giá chào bán cuối tuần như ngày thứ Năm trước đó. “Tình hình thị trường thép trong tháng 6 rất tăm tối.”
Niềm tin thị trường bị đánh mất sau khi HSBC's Flash Manufacturing công bố chỉ số sức mua (PMI) trong tháng Sáu đã giảm xuống mức thấp nhất chín tháng, xuống còn 48,3 điểm.
Cũng trong ngày 21/6, thép cây giao tháng 10 tại sàn the Shanghai Futures Exchange (SHFE) đã phịc hồi nhẹ trong phiên cuối tuần 0.98% khi chốt tại mức 3.493 NDT/tấn (570 USD/tấn). Trước đó một ngày, giá thép cây giao dịch kỳ hạn đã mất 1.25%.
Giá thép cuộn Italia có lẽ đã chạm đáy
Giá thép cuộn Italia đã giảm vài euro trong 2 tuần qua, và mức giá hiện nay dường như đã chạm đáy.
HRC sản xuất tháng 07/tháng 08 hiện đang được một nhà sản xuất lớn của Italia bán với giá 420-430 EUR/ tấn xuất xưởng cơ bản. Vì giá quặng sắt đang có xu hướng tăng cũng như sự tăng giá của đồng USD so với EUR và giá thép cán mỏng Mỹ tăng gần đây nên các nhà thị trường cho rằng giá đã chạm đáy và không thể giảm hơn nữa.
Giá quặng và giá thép Mỹ tăng nhẹ cho thấy thị trường đang có xu hướng thay đổi. Sự tăng giá của đồng đô la Mỹ đang giúp các nhà sản xuất Italia tăng xuất khẩu và hạn chế hàng nhập khẩu vào nước này, giúp cho giá không giảm sâu thêm nữa.
Thêm một tín hiệu khác cho thấy giá đã chạm đáy đó là có nhiều giao dịch hơn so với vài ngày trước đó vì nhu cầu tái dự trữ tăng. “Nhu cầu vẫn còn yếu nhưng trong những ngày này đã có một chút thay đổi theo hướng tích cực vì các nhà dự trữ cho rằng giá đã chạm đáy nên bắt đầu tái bổ sung hàng tồn trở lại.”
Nhập khẩu HRC không đáng kể, và chỉ có CRC là sản phẩm duy nhất thu hút được sự quan tâm của khách hàng, ít nhất là cho đến thời điểm tuần trước. Các chào giá từ Trung Quốc là 620 USD/tấn CIF, với tỷ giá EUR:USD là 1:1,34 thì mức giá trên tương đương với 462 EUR/tấn, thấp hơn mức chào giá 485-490 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản của các nhà sản xuất Italia.
“Các chào giá tuần trước của Trung Quốc là 460-463 EUR/tấn CIF, có một sự chênh lệch đáng kể về giá. Nhưng hiện nay tỷ giá EUR:USD là 1:1,32, giá nhập khẩu là 470 EUR/tấn CIF thì mức chênh lệch đã này đã giảm xuống”, một thương nhân nói.
Do nguồn cung HDG tiếp tục dư thừa nên giá được chốt tại mức 470-480 EUR/tấn xuất xưởng cơ bản và không chịu nhiều sức ép cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Cung vẫn đang vượt quá mức cầu, nhưng tỷ giá đang thay đổi theo chiều hướng có lợi cho xuất khẩu.
Metinvest giữ nguyên giá cuộn xuất khẩu tháng 08
Metinvest, nhà sản xuất thép Ukraina vừa chốt giá cho các giao dịch thép cuộn giao tháng 08 với giá không đổi.
Theo đó, HRC được thiết lập với mức giá trung bình được thỏa thuận giữa người mua và người bán là 505 USD/tấn FOB Biển Đen.
Các chào giá tới Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định ở mức 510-520 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi đó thì các nhà phân phối Phần Lan cho biết giá nguyên liệu của Ukraina thấp hơn 20 USD/tấn. Một khách hàng ở Bungary đang tìm mua HRC Ukraina được chào giá 530 USD/tấn CFR, cảng Bungary. Nhưng ông này đang trả giá khoảng 520-525 USD/tấn.
Chỉ một vài nhà cung cấp là chào HRC tại mức 500 USD/tấn và một trong số ít ỏi đó là Ilyich, nhà sản xuất này thường có mức chào thấp hơn Zaporizhstal khoảng 5-10 USD/tấn. Thép tấm dày của Ilyich hiện cũng ở mức 500 USD/tấn fob, tương đương với 560 USD/tấn cfr Dubai. Nhà sản xuất này quyết định giữ nguyên giá xuất khẩu do đang nhận được nhiều đơn hàng từ thị trường nội địa, hơn nữa các chào bán từ các đối thủ cạnh tranh của Nga cũng đã giảm xuống.
MMK hiện đang tạm ngưng các giao dịch và có thể sẽ chưa quay trở lại trong tháng 07 tới do giá chưa phục hồi và một số xưởng sản xuất vẫn đang trong giai đoạn bảo trì. Trong khi đó Metinvest dự định sẽ cung ứng cho thị trường tháng tới với số lượng thép như thường lệ.
Giá tại Platts hôm thứ Sáu đối với HRC và CRC Biển Đen vẫn giữ mức ổn định lần lượt là 502,5 USD/tấn và 590 USD/tấn.
“Nhu cầu tiêu thụ không khuyến khích điều này nhưng gánh nặng chi phí 10% do sự suy yếu của tiền tệ là quá lớn cho các nhà máy. Và dĩ nhiên khách hàng là người chịu phần thiệt hại này thay cho các nhà sản xuất.”, một thương nhân Mumbai nói.