Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 24/10/2016

ArcelorMittal, Tata nâng giá chào thép cuộn châu Âu thêm 20euro/tấn

ArcelorMittal và Tata đã thông báo tăng 20euro/tấn trong giá chào thép cuộn châu Âu, do các nguyên tắc cơ bản mạnh mẽ hơn và chi phí cao hơn.
Thông báo tăng chính thức từ ArcelorMittal đã có hiệu lực từ 20/10, và bao gồm tất cả các vùng cho các đơn đặt hàng mới cho thép cuộn mạ kẽm cán nóng, cán nguội và nhúng nóng. Mức tăng sẽ được áp dụng cho các đơn hàng giao ngay mới trong cả quý tư năm nay và quý một năm tới.
Một nguồn tin tại ArcelorMittal đã xác nhận thông báo tăng, với lí do các nguyên nhân cơ bản cung cầu mạnh mẽ hơn,theo đó chào giá HRC đạt 500euro/tấn và CRC là 600euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Tata cũng đã tăng chào giá lên đến 500euro/tấn và CRC/HDG lên đến 600euro/tấn giao quý một năm sau. Một nguồn tin tại Tata khẳng định quyết định tăng này vào tối thứ Năm, với lý do chi phí cao hơn so với dự kiến của than cốc cũng như các nguyên tắc cơ bản được cải thiện.
Platts đánh giá HRC thứ Năm ở mức 450-460euro/tấn xuất xưởng Ruhr, phản ánh giá giao dịch vẫn có sẵn tại thị trường châu Âu, với CRC ở 545-555euro/tấn.
Do thiếu vắng áp lực từ nhập khẩu và nguồn cung thắt chặt ở Bắc Âu, các nguồn tin cho biết phía các nhà máy trong tuần này là có khả năng tăng giá chào trong hoặc sau khi hội nghị công nghiệp ngành thép diễn ra trong tuần này ở Hanover.
 

 

US Steel, Nucor và CSI thông báo tăng giá tấm mỏng

US Steel đã khởi động một đợt tăng giá thép tấm mỏng vào thứ Sáu, với động thái tương tự của Nucor và California Steel Industries công bố trong ngày. Tất cả ba nhà sản xuất đều công bố tăng 30usd/tấn ngắn, hiệu lực tức thì. .
Đây là lần đầu tiên thị trường tấm mỏng của Mỹ thông báo tăng giá kể từ tháng Sáu và sau một sự suy giảm giá kể từ đầu tháng Tám.
However, since the beginning of August HRC price range midpoints have dropped from $620/st to $470/st, a decline of $150/st, or 24.2%. Cold-rolled coil prices have seen similar but less dramatic price erosion, falling from $830/st to $695/st over the same time period, a 16.3% drop.
Giá thép cuộn cán nóng hầu như là ổn định trong suốt tháng Sáu và tháng Bảy tại mức 620-635usd/tấn ngắn, dựa trên các mức trung điểm của định giá xuất xưởng Midwest cho HRC trong thời gian đó.
Tuy nhiên, kể từ đầu tháng Tám phạm vi mức trung điểm đã giảm từ 620usd/tấn ngắn còn 470usd/tấn ngắn, giảm 150usd/tấn ngắn, hay 24,2%. Giá thép cuộn cán nguội đã thấy sự xói mòn giá tương tự nhưng ít hơn, giảm từ 830usd/tấn ngắn còn 695usd/tấn ngắn so với cùng thời gian, giảm 16,3%.
 

Định giá HRC EU

Platts định giá HRC châu Âu không đổi ở mức 450-460euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu.
ArcelorMittal và Tata đều thông báo tăng giá chào thép cuộn châu Âu thêm 20euro/tấn thứ Sáu, do các nguyên tắc cơ bản được cải thiện và chi phí cao hơn. Với mức tăng này chào giá Mtại cả hai nhà máy là 500euro/tấn đối với HRC và 600euro/tấn đối với CRC và HDG.
Các nguồn tin cho biết họ không ngạc nhiên khi các nhà máy đã quyết định tăng chào giá trong bối cảnh không có nhiều áp lực từ hàng nhập khẩu, nhưng khó có khả năng đạt được mục tiêu trong ngắn hạn. Họ khẳng định cuộn cán nóng vẫn có giá 450-460euro/tấn ở miền bắc châu Âu, với các hoạt động thu mua trầm lắng trước hội nghị ngành trong tuần này.
 

Giá thép cây/phôi thanh Thổ Nhĩ Kỳ tăng hơn nữa cùng với giá phế

Thị trường thép dài trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng trong tuần, phù hợp với phế nhập khẩu HMS I/II (80:20) mạnh lên, đạt mức cao 230usd/tấn CFR trong các hoạt động thu mua mới nhất của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ. Việc mất giá của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ cũng làm dấy lên một số nhu cầu tiêu thụ, cả trong nước và xuất khẩu, nguồn tin cho biết.
Icdas, một trong những nhà sản xuất thép dài lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, đã công bố giá niêm yết trong nước cao hơn đối với thép cây và cuộn trơn tuần trước. Công ty này đã giá niêm yết thép cây 12-32 mm thêm 30TRY (10usd)/tấn lên mức 1.440TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul. Giá này bao gồm 18% VAT và tương đương với mức 395usd/tấn chưa VAT. Icdas cũng tăng giá thép cuộn trơn 7-8.5mm một mức tương lên mức 1.550-1.580 TRY/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT.
Một số các nhà sản xuất thép dài lớn khác cũng tiếp tục nâng giá niêm yết trong suốt tuần qua, trong khi nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn, Kardemir, mà chốt bán thép cây trong tuần trước, dự kiến sẽ tái mở bán với giá cao hơn trong tuần này. Nhà máy này đã chốt bán phôi thanh ngày 21/12, với giá cả tại mức 340-345usd/tấn xuất xưởng, sau khi nhận được đơn đặt hàng đáng chú ý từ thị trường nội địa trong phạm vi này.
Trong khi đó, giá phôi thanh trong nước đã tăng hơn nữa lên tới khoảng 350-355usd/tấn xuất xưởng tại Thổ Nhĩ Kỳ vào cuối tuần, trong khi chào giá phôi thanh nhập khẩu mới nhất từ CIS đạt 335-345usd/tấn CFR, phù hợp với chào giá mạnh lên của Trung Quốc, nguồn tin thương mại cho biết.
Nhà tích trữ cũng tiếp tục nâng giá thép cây trong thị trường nội địa trong tuần qua cùng với giá tăng của nhà máy. Giá xuất kho thép cây ở khu vực Marmara tăng lên khoảng 1.450-1.470 TRY/tấn (bao gồm 18% VAT) thứ Sáu, trong khi giá nhà tích trữ tại khu vực Karabuk, phía bắc Thổ Nhĩ Kỳ, đạt 1.430-1.450TRY/tấn.
 

Thị trường quặng sắt tuần qua tăng giá nhờ thị trường thép phục hồi

Thị trường quặng sắt nhập khẩu có xu hướng đi lên do giá thép tăng mạnh hơn và hoạt động tích trữ của các nhà máy trong tuần qua.
Platts định giá 62% Fe IODEX ở mức 59 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc hôm thứ Sáu, tăng 1,45 USD/dmt (2,5%) so với 1 tuần trước đó.
Nhu cầu tích trữ thép vẫn còn mạnh vì giá thép tăng gần đây đã làm giảm bớt khoản lỗ của các nhà máy trong bối cảnh gia than đá và than cốc tăng. Mặc dù đang bị mắc nợ, nhưng nhiều nhà máy vẫn phải mua quặng sắt để duy trì sản xuất nhằm tạo ra dòng tiền mặt.
“Nhiều nhà máy đã tăng giá thép để bù lại chi phí than cốc tăng gần đây, điều này đã hỗ trợ cho thị trường quặng sắt nhập khẩu”, một doanh nghiệp thép ở miền đông Trung Quốc cho biết.
Giá phôi thép phục hồi mở ra nhiều nhu cầu hơn cho việc mua giao ngay. Giá giao ngay cho phôi vuông ở Đường Sơn là 2.200 NDT/tấn (325,65 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Sáu, tăng 40 NDT/tấn (1,99%) so với 1 tuần trước đó.
 

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 380usd/tấn FOB Thứ Sáu, tăng 1usd/tấn trong ngày.
Một nguồn tin nhà máy cho biết một số giao dịch vào thị trường châu Phi và GCC trong phạm vi giá là 389-405usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này ngụ ý một sự gia tăng đáng kể trong giá giao dịch nhưng các nguồn tin khác ghi nhận vật liệu với giá thấp hơn vẫn có sẵn.
Ví dụ, một nhà kinh doanh báo cáo thép cây cũng có giá chỉ 380usd/tấn FOB, nhưng chỉ từ các nhà máy được lựa chọn. Một nguồn tin thương mại cho biết các thương nhân đã theo đuổi mức giá 380usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi một nguồn tin thương nhân khác cho biết giá khả thi thấp nhất là khoảng 380-385usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ.

Giá phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 230-235usd/tấn

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã nâng giá mua phế shipbreaking trong nước và DKP hơn nữa vào cuối tuần trước, với giá đạt mức cao nhất là 235usd/tấn, phản ánh xu hướng giá phế nhập khẩu mạnh lên.
Giá mua bằng USD của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế shipbreaking tăng 10-15usd/tấn trong tuần trước. Giá thu mua phế shipbreaking ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ozkan, Ege Celik) tăng lên đến 230-235usd/tấn vào thứ Sáu, theo các nguồn công nghiệp.
hà máy thép tích hợp lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Iskenderun tập đoàn Erdemir (Isdemir) ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng tăng giá mua bằng đồng lira cho phế DKP thêm 40TRY (13usd)/tấn lên mức 705 TRY (230usd)/tấn, trong khi nhà máy Eregli của tập đoàn này ở miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã nâng giá thu mua lên mức 705 TRY (230usd)/tấn trong tuần trước.
Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir, tăng giá mua DKP lên mức 680 TRY (221usd)/tấn, hôm 21/10.
Một trong những nhà sản xuất thép EAF lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu, và nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik cũng tăng giá mua DKP thêm 25 TRY (8usd)/tấn lên mức 645TRY (210usd)/tấn và 665TRY (216usd)/tấn tương ứng.
Do đó giá mua phế DKP của các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên mức trong phạm vi là 645-705 TRY (210-230usd)/tấn thứ Sáu, tùy thuộc vào khu vực và yều cầu nhà máy, thek các nguồn tin công nghiệp.
 

Phôi thanh CIS hạn chế, lợi nhuận của nhà cán lại Thổ Nhỹ Kỳ giảm đi

Các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ đã bị sức ép bởi chi phí cao hơn trong tuần kết thúc ngày 21/12, do các nhà máy CIS đã đạt mức giá cao hơn nhiều đối với phôi thanh.
Hai giao dịch đã được báo cáo bán đến Ai Cập tại mức 340usd/tấn FOB thứ Sáu, trong khi đó cũng có một lô hàng bán cho Thổ Nhĩ Kỳ quanh mức này. Các nhà máy đã phần lớn có đơn hàng cho tháng 11, với hầu hết đồn đoán tập trung vào hàng giao tháng 12.
Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 340usd/tấn FOB thứ Năm, tăng lên mức 6usd/tấn trong ngày. Giá tăng 16,50 usd/tấn cchỉ trong hai ngày thứ Năm và thứ Sáu.
Chào giá xuất xưởng CIS nghe nói đến từ các nguồn tin thị trường là khoảng 340-350usd/tấn FOB Biển Đen, với một số ý kiến cho rằng nguồn cung thiếu hụt. Hai nguồn tin cho biết gián đoạn tại nhà máy Krivoy Rog của ArcelorMittal đã hạn chế sản lượng sản xuất, mặc dù điều này đã bị bác bỏ bởi một thương nhân, người nói rằng ông đã nhận được chào giá cũng từ nhà máy đó ở mức 355usd/tấn CFR Ai Cập giáo tháng 11/12.
Một nguồn tin thương mại khác đã nhận xét về nguồn cung hạn chế trong các nhà máy Ukraina.
Hơn nữa các nhà cán lại đều cảm thấy khó khăn, với nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hạn chế. Một nhà xuất khẩu thanh thương phẩm giải thích: "Bạn không thể bán thanh thương phẩm trên 400usd/tấn FOB cho các thị trường xuất khẩu. Có nhiều áp lực lên nhà cán lại… với thép cây, nhu cầu tiêu thụ chậm và một số đang bị mắc kẹt tại mức giá 370usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Các thương nhân cung cho biết khối lượng hàng bán ở Trung Đông thấp, do sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất địa phương và do đó không thể tăng giá. Trong khi các nhà cán lại đang phải vật lộn tìm kiếm nhu cầu tiêu thụ, chi phí đang cao hơn so với giá bán."
Nguyên nhân chính của xu hướng đi lên này là phế, với HMS I/II (80:20) ở mức 231usd/tấn CFR thứ Sáu. Một thương nhân cho biết các nhà máy tích hợp Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tìm kiếm phôi thanh CIS tại mức 330usd CFR Thổ Nhĩ Kỳ, theo mức giá phế liệu hiện nay – mức 340usd/tấn FOB của CIS sẽ là quá cao để họ chấp nhận, các thương nhân cho biết.
 

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 340usd/tấn FOB Biển Đen vào thứ Năm, tăng 6usd/tấn trong ngày.
Định giá tăng lên do có ba giao dịch ở mức giá 340usd/tấn FOB, và chào giá cao hơn.
Giao dịch đầu tiên đặt mua 25.000 tấn đến Ai Cập ở mức 340usd/tấn FOB Biển Đen, giao tháng 12, một thương nhân báo cáo. Một thương nhân thứ hai báo cáo doanh số bán cho một nhà máy lò hồ quang điện Thổ Nhĩ Kỳ cho 20.000 tấn ở mức giá tương tự, và thêm rằng lô hàng này dự kiến có thể được giao tháng 01/2017. Một thương nhân thứ ba nghe nói giá bán cho Ai Cập cũng ở mức này.
Chào giá dao động trong phạm vi 340-350usd/tấn FOB Biển Đen. Doanh số bán của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên, với một nhà máy bán 100.000 tấn phôi thanh cho người tiêu dùng địa phương trong khoảng 340-345usd/tấn. Trong số doanh số bán đó, một nhà cán lại địa phương đã mua 30.000 tấn tại mức 340usd/tấn xuất xưởng. Một nhà máy khác cũng bán phôi thanh trong nước ở mức này, và sau đó nâng giá chào lên mức 345usd/tấn xuất xưởng Izmir. Cũng nhà máy này đã nghe nói chào giá cao hơn ở mức 370usd/tấn xuất xưởng Izmir.
 

Giá tấm mỏng Mỹ giảm nhưng nhà máy đang ra sức thay đổi xu hướng

Giá thép cuộn cán nóng và cán nguội Mỹ chốt ở mức thấp hơn hôm thứ Sáu tuần trước do nguồn tin cho biết giá giao dịch và giá chào trong tuần thấp hơn trước khi có thông báo tăng giá của US Steel và Nucor. Nguồn tin thị trường cho thấy giá thấp hơn này có khả năng đại diện cho mức sàn trong thị trường tấm mỏng
Platts hạ định giá HRC và CRC hàng ngày còn 460-480usd/tấn ngắn và 690-700usd/tấn ngắn từ mức 460- 500usd/tấn ngắn và 700-720usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai giá được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana). Mức giá thấp hơn phản ánh các giao dịch thị trường nghe được trước khi có thông báo tăng giá chính hức từ nhà máy. Chưa có mức giá mới nghe nói đến sau khi giá nhà máy tăng.
Một nguồn tin nhà máy cho biết ông là một chút không chắc chắn về thời gian công bố của USS trước khi biết được thông báo của Nucor, vốn hỗ trợ thị trường nhiều hơn. Tuy nhiên, nguồn tin nhà máy nói rằng điều tích cực chính là thị trường đã đến đáy tương đối nhanh chóng. Mặc dù có những lời phàn nàn từ các nhà máy, ông nói thêm rằng thị trường càng nhanh đạt đáy thì sẽ càng tốt hơn. "Cái chết của 10usd một tấn là khủng khiếp," ông cho biết khi đề cập đến sự sụt giảm hàng tuần được nhìn thấy gần đây.
Giá giao ngay HRC ở mức460-480usd/tấn ngắn trong tuần kết thúc ngày 21/10, theo nguồn tin nhà máy. Ông lưu ý giá 460-470usd/tấn ngắn là "khá bình thường, nhiều như tôi ghét phải thừa nhận điều đó."
Tuy nhiên, nguồn tin nhà máy cho biết các đơn đặt hàng gần đây đã được cải thiện và thời gian còn lại của năm sẽ không tao ra thêm rắc rối nào.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ miền Trung Tây cho biết ông đã đặt mua HRC giao ngay với giá 460usd/tấn ngắn từ hai nhà máy mini ở Trung Tây và quy mô đơn đặt hàng này chỉ là 100 tấn ngắn. Ông nói thêm rằng các nhà máy mini tiếp tục đói đơn đặt hàng và vẫn đang duy trì lợi nhuận do mức chi phí phế hiện tại.
Cả nguồn tin trung tâm dịch vụ và nguồn tin máy cũng cho thấy xu hướng đi lên có thể có trong chi phí phế tháng 11 tạo điều kiện hợp pháp hơn để thông báo tăng giá.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ Trung Tây thứ hai cho biết ông đã được thông báo ông có thể mua HRC ở mức 450usd/tấn ngắn từ nhà máy mini Midwest với một đơn hàng 500-1.000 tấn ngắn. Tuy nhiên, ông đã không đặt mua và không rõ liệu định giá ở mức đó vẫn sẽ có sẵn sau các thông báo tăng giá.
Ông cũng trích dẫn một chào giá CRC thấp nhất là 660usd/tấn ngắn cho một đơn đặt hàng khối lượng “đáng kể”. Chào giá CRC này đã không được xem xét trong định giá hàng ngày của Platts do thông tin thị trường cho thấy kích thước đơn hàng có thể lớn hơn rất nhiều khối lượng tối đa để được xem xét trong đánh giá.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ ba cho biết giá HRC xuất xưởng giao ngay tại mức 460-470usd/tấn ngắn, và ông đã không nhìn thấy bất kỳ chào giá HRC nào trong khoảng440usd hoặc 450usd, trong khi CRC được bán tại mức 670-700usd/tấn ngắn. Ông lưu ý những người mua lớn hơn sẽ có được giá thấp nhất trong phạm vi đó.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ tư cho biết ông đã đặt mua CRC từ một nhà máy tích hợp vào sáng thứ Sáu tại mức 700usd/tấn ngắn cho dưới 100 tấn ngắn. Ông cho biết đơn hàng đã được báo giá hôm thứ Năm trước khi có thông báo giá.

Giá ống đúc miền đông Trung Quốc tăng theo thép tròn đặc

Thị trường ống đúc ở miền đông Trung Quốc tiếp tục xu hướng đi lên kể từ đầu ngày 10/10 do giá nguyên liệu mà cụ thể là thép tròn đặc tăng.
Hôm 21/10, một số nhà sản xuất thép tròn đặc chủ chốt ở miền đông đã nâng giá niêm yết cho 10 ngày cuối tháng 10 lên 180 NDT/tấn (27 USD/tấn), do nhìn chung giá nguyên liệu đều tăng.
Theo đó, 2 doanh nghiệp sản xuất lớn ở tỉnh Giang Tô là Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel đều nâng giá thép tròn đặc 20# 50-130mm thêm 100 NDT/tấn (15 USD/tấn) lên lần lượt 3.020 NDT/tấn (450 USD/tấn) và 2.970 NDT/tấn (442 USD/tấn) cho 10 ngày cuối tháng 10, xuất xưởng và gồm VAT.
Một nhà cung cấp thép tròn đặc khác là Huaigang Special Steel, cũng ở tỉnh Giang Tô cho biết cùng ngày rằng sẽ nâng giá xuất xưởng thêm 180 NDT/tấn (27 USD/tấn) lên 3.060 NDT/tấn (456 USD/tấn) gồm VAT. Hôm 01/10, những nhà máy này đã nâng giá niêm yết giữa tháng 10 thêm 60-120 NDT/tấn.
Cũng trong ngày thứ Sáu, chào giá hiện hành trên thị trường bán lẻ Thượng Hải cho ống đúc loại grade 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông tăng lên khoảng 3.550 NDT/tấn (529 USD/tấn) xuất xưởng và gồm 17% VAT, cao hơn 150 NDT/tấn (22 USD/tấn) so với 10 ngày trước đó.
 

Shagang nâng giá thép cây cuối tháng 10 lên 25 USD/tấn

Jiangsu Shagang Group, doanh nghiệp sản xuất thép tư nhân lớn nhất của Trung Quốc ở tỉnh Giang Tô, đã quyết định nâng giá niêm yết cho thép cây trong nước thêm 170 NDT/tấn (25 USD/tấn) cho 10 ngày cuối tháng 10.
Thép cây HRB400 đường kính 16-25mm của Shagang sẽ tăng lên 2.600 NDT/tấn (387 USD/tấn) xuất xưởng và gồm 17% VAT.
Đây là lần tăng giá thứ hai liên tiếp của Shagang trong tháng này và sau khi tăng 30 NDT/tấn (4,5 USD/tấn) cho 10 ngày giữa tháng 10. Động thái này phù hợp với sự phục hồi được chứng kiến trên thị trường nội địa, phần lớn là do giá nguyên liệu tăng.
Shagang cũng đã nâng giá cuộn trơn HPB300 thêm 100 NDT/tấn (15 USD/tấn) lên 2.680 NDT/tấn (399 USD/tấn) gồm VAT để bán trong cùng thời gian này.
Cũng trong ngày thứ Sáu, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 1/2017 trên sàn Shanghai Futures Exchange giảm 1 NDT/tấn (0,15%) so với ngày trước đó và chốt tại 2.485 NDT/tấn.
 

Hebei I&S duy trì giá thép cây cho cuối tháng 10

Hebei Iron & Steel (Hegang), doanh nghiệp sản xuất thép lớn nhất Trung Quốc, thông báo hôm 21/10 về dự định duy trì giá niêm yết thép cây trong nước cho thời gian từ ngày 21-31/10.
Quyết định này áp dụng cho các sản phẩm được sản xuất bởi các công ty thuộc tập đoàn Hegang gồm Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel (Xuangang) và Chengde Iron & Steel (Chenggang) bán ra khu vực Bắc Kinh và Thiên Tân, và xuất xưởng dựa theo trọng lượng lý thuyết, và gồm VAT.
Giá cuối tháng 10 của Hegang tương đương 2.505 NDT/tấn (373 USD/tấn) trọng lượng thực tế cho những loại thép mà Platts định giá. Hôm 21/10, Platts định giá giao dịch cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm không đổi so với ngày trước đó và giữ ở mức 2.485-2.495 NDT/tấn (368-369 USD/tấn) tại thị trường giao ngay Bắc Kinh, xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm VAT.
Các đại lý ở Bắc Kinh cho biết giá giao ngay bị giảm do nhu cầu suy yếu ở Bắc Kinh và những khu vực lân cận, mặc dù thị trường được hỗ trợ bởi việc giao hàng chậm lại gần đây của các nhà máy và tồn kho giảm. Do đó, Hegang phải duy trì chào giá ổn định một cách thận trọng so với mức tăng mạnh được nhìn thấy trong giá niêm yết của các nhà máy Trung Quốc cho cuối tháng 10.
Theo Mysteel, thép cây tồn kho ở Bắc Kinh tính tới ngày 21/10 giảm 37.700 tấn tức 14% so với tuần trước đó còn 233.100 tấn.

Thị trường thép tấm Mỹ thiếu vắng nhu cầu tiêu thụ cần thiết để cải thiện

Thị trường thép tấm Mỹ tiếp tục không có đủ nhu cầu tiêu thụ để cải thiện, theo các nguồn tin thị trường. Ngoài ra, sự suy yếu tiếp tục trong giá bán lại của nhà phân phối đang hạn chế khả năng thúc đẩy giá cao hơn của nhà máy.
Thông báo tăng 30usd/tấn ngắn của Nucor cho thép tấm cách đây 2 tuần dường như vẫn chưa hỗ trợ thị trường dokhông có nhà máy nào khách cũng thực hiện quyết định tương tự, và người mua không nhìn thấy giá sẽ cao hơn.
Một nguồn tin nhà máy nói rằng đơn hàng đã giao cho thép tấm thương mại A36 ở mức 490-500usd/tấn ngắn. Ông cho biết thiếu hụt nhu cầu tiêu thụ chính là lý do giá cả tiếp tục chịu sức ép. Ngoài ra ông còn cho biết tranh chấp đang diễn ra giữa nhà phân phối và nhà máy trong bối cảnh giá bán lại của nhà phân phối suy giảm.
Do giá bán lại giảm, các nhà phân phối đã thúc đẩy phía nhà máy giảm giá để họ có thể cạnh tranh trong bối cảnh doanh số bán lại suy giảm mạnh.
Cả nhà máy và trung tâm dịch vụ đều dự đoán hoạt động thu mua thường kỳ cuối năm sẽ giảm xuống so với các năm trước.
Metals Service Center Institute gần đây đã phát hành báo cao hoạt động hàng tháng trong đó cho biết giao hàng thép tấm carbon trong tháng Chín của trung tâm dịch vụ ở mức 257.200 tấn ngắn, giảm 22,8% so với mức tháng 09/2015. Giao hàng thép tấm của nhà phân phối trong 9 tháng đầu năm là 2,49 triệu tấn, giảm 22,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết phạm vi giá 490-500usd/tấn ngắn đã giao đều có sẵn ở các nhà máy. Tuy nhiên ông tỏ ra hoài nghi vì nhiều tác nhân trên thế giới cho thấy xu hướng đi lên cũng như sự biến mất cuảng hàng nhập khẩu cập cảng. Tuy nhiên, “nhu cầu tiêu thụ là thành phân duy nhất còn thiếu,” ông nói. “Một thành phần quan trọng cần thiết, nhưng không có lý do để giá cả giảm như nhu cầu tiêu thụ.”
Chào giá nhập khẩu mới tiếp tục khan hiếm với nguồn cung hạn chế. Có một ít vật liệu được chào giá 455usd/tấn ngắn cập cảng Houston nhưng đó là mức giá thấp nhất trên thị trường, theo nguồn tin trung tâm dịch vụ.
Platts hạ định giá thép tấm thương mại hằng ngày A36 hôm thứ sáu tuần tuần trước còn 470-490usd/tấn ngắn, giảm từ mức 490-510usd/tấn ngắn, xuất xưởng nhà máy máy khu vực đông nam nước Mỹ.
Platts cũng hạ định giá nhập khẩu thép tấm còn 455-470usd/tấn ngắn, giảm từ mức 465-480usd/tấn ngắn CIF Houston.  

NSSMC quyết định nâng giá tấm mỏng trong nước

Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) đã quyết định nâng giá tấm mỏng trong nước lần thứ hai trong 6 tháng. Mức tăng 5.000 Yên/tấn (48 USD/tấn), tức khoảng 10% sẽ áp dụng cho đơn hàng giao ngay và cho các nhà cán lại và sản xuất ống thép.
Vào đầu năm nay, nhà máy đã tăng thêm 10.000 Yên/tấn cho những sản phẩm này từ tháng 6, nhưng phát ngôn viên nhà máy từ chối bình luận về mức độ mà người mua chấp nhận.
Một thương nhân ở Tokyo cho biết hầu hết khách hàng vẫn đang phản đối toàn bộ mức tăng 10.000 Yên/tấn nhưng lẽ ra đã chấp nhận một số. “Chúng tôi dự báo tổng mức tăng kể từ tháng 6 sẽ lên khoảng 10.000 Yên/tấn”.
NSSMC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết cho các sản phẩm thép dẹt nhưng giá thị trường cho tấm mỏng SPHC 1.6 mm thick (1,219 x 1,524 mm) là khoảng 60.000-62.000 Yên/tấn (577-596 USD/tấn), không đổi so với tháng 4.
Phát ngôn viên của NSSMC cũng xác nhận công ty đã bắt đầu thương lượng với các khách hàng lâu năm chẳng hạn như những công ty sản xuất ô tô và các ngành công nghiệp có liên quan và trong thiết bị gia dụng để đồng ý với giá cao hơn cho tháng 10 tới tháng 3. Nhưng ông cho biết mức tăng khác nhau giữa các ngành và khách hàng là không thể được tiết lộ.
Các nhà máy liên hợp và sản xuất ô tô của Nhật Bản đã kết thúc cuộc thương lượng giá từ tháng 4 tới tháng 9 và đồng ý không thay đổi. “Chúng tôi tin là mức tăng cho các khách hàng lâu năm sẽ khoảng 10.000 Yên/tấn hoặc tương đương với mức tăng cho những khách hàng khác”.
NSSMC đã tuyên bố bắt đầu thương lượng với các công ty đóng tàu để tăng thêm 10.000 Yên/tấn cho thép tấm dày đối với những hợp đồng từ tháng 10 tới tháng 3. Công ty cũng đang tăng 10.000 Yên/tấn cho thép dầm hình H dùng cho dự án từ hợp đồng tháng 10. 

Giá phế tuần: giá tăng do có thu mua mới

Giá nhập khẩu phế HMS vào Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng trong tuần kết thúc ngày 21/10, vì các nhà máy hiện có nhu cầu tiêu thụ mạnh hơn đối với những lô hàng ở mức giá cao hơn.
Nhu cầu thép thành phẩm trong nước dường như đã tăng cường, và đồng lira suy yếu cũng hỗ trợ khả năng cạnh tranh trong thị trường xuất khẩu, ngoài nguồn cung sản xuất từ lò điện quan vẫn là rẻ hơn đáng kể so với sản lượng sản xuất bằng lò cao.
Doanh số bán chủ chốt trong tuần trước diễn ra hôm thứ Tư, với 2 lô hàng Mỹ ở mức 230usd/tấn CFR cho HSM 80:20, trong khi 1 lô hàng của anh ở mức 228usd/tấn. Các nguồn tin tiếp tục định giá tăng trong tuần này, với dự đoán có nhiều đơn hàng hơn nữa cũng như xu hướng tăng tiếp tục diễn ra.
Giá phế xuất khẩu của Nhật Bản dường như đã gần đạt đáy, các nguồn tin thương mại ở Tokyo và Seoul nói.
Hôm 20/10, nhà máy EAF hàng đầu Hàn Quốc, Huyndai Steel, đã đặt mức giá chào mua cho phế Shindachi ở mức 23.500 Yên/tấn (226usd/tấn) FOB, tăng 2.000 Yên/tấn từ mức giá chào mua hôm 14/10. Nhà máy Hàn Quốc này đã quyết định tạm ngừng chào giá mua cho H2 do đã có đủ hàng tồn kho cũng như đơn hàng tồn đọng.
Ngày 14/10, Hyundai Steel đã không thể đặt đủ phế với giá chào mua ở mức 18.500Yên/tấn FOB đối với H2, vì mức giá any2 thấp hơn giá hiện hành trên thị trường.
Hàng tồn kho phế liệu của Hyundai là vào khoảng 700.000 tấn, qua đó đã gây ra tình trạnh tắc nghẽn trong việc bốc dỡ các lô hàng phế đang tới, các nguồn tin kinh doanh Seoul cho biết. Nhiều nhà cung cấp đã dự đoán nhà máy Hàn Quốc này sẽ sớm đặt hàng, trừ khi có thể có được một mức giá mua tốt.
Các nguồn tin kinh doanh tại Tokyo và Seoul cho biết các nhà cung cấp Nhật Bản đang nhắm mục tiêu 20.000 yên/tấn FOB xuất khẩu cho H2, tăng 1.000 Yên/tấn so với tuần trước.
Các nhà máy lò cao Nhật Bản đã lập kế hoạch để tiêu thụ phế prime hoặc vật liệu chất lượng tốt hơn để giảm thiểu việc sử dụng than cố đang có giá cao hơn, các nguồn kinh doanh Tokyo cho biết. Nhu cầu cao hơn c dự kiến sẽ làm tăng giá đối phế prime, chẳng hạn như phế bushelling. Một số nguồn tin giao dịch dự kiến chênh lệch giá thông thường giữa phế cao cấp hơn và H2 sẽ nới rộng ra, trong khi những người khác cho biết giá H2 cũng có thể tăng nhưng thấp hơn so với phế prime.
Tại Nhật Bản, các thương nhân trả 18.000 Yên/tấn FAS để thu thập H2 cho xuất khẩu từ miền đông Nhật Bản, không thay đổi so với tuần trước. Phế gian đến nhà máy mini trong nước tại Nhật Bản đã dễ dàng và một số nhà máy mini đã cắt giảm giá 500-1.000Yên/tấn để làm chậm lại lô hàng phế sẽ đến. Jonan Steel, tại Saitama gần Tokyo, đã ngừng chấp nhận phế giao đến từ thứ Tư tuần trước, nói rằng các kho dự trữ đã không còn chỗ chứa.
Tokyo Steel Manufacturing, nhà máy mini hàng đầu Nhật Bản, đã duy trì giá mua phế kể từ tháng Sáu. Giá mua H2 của nó ở xưởng Utsunomiya phía bắc Tokyo, ở mức 20.000 Yên/tấn.
Platts định giá xuất khẩu phế liệu H2 tại mức 18.700 Yên/tấn FOB Tokyo Bay thứ Tư, không đổi so với định giá cuối tuần trước.
Trong tuần qua, thị trường nói chuyện xoay quanh Tokyo Steel đã đặt một hoặc hai lô hàng bulk Bờ Tây Mỹ. Những lô này bao gồm một lô hàng 38.000 tấn cập cảng tháng 11/12 ở mức 215usd/tấn HMS 80:20. Công ty này đã từ chối bình luận về đặt mua hàng này, nhưng nhiều thương nhân ở Tokyo và khu vực Đông Nam Á cho biết mức giá này thấp hơn họ dự đoán.
Tokyo Steel đã đặt mua vào cuối tháng Chín sau khi Hyundai Steel đã đặt 48.000 tấn phế Bờ Tây Mỹ tại mức 221usd/tấn CFR Hàn Quốc HMS I một nhà kinh doanh trong khu vực cho biết. Ông cho biết chào giá vào tuần trước ở mức 230usd/tấn CFR Hàn Quốc HMS I và ông dự đoán cháo giá sẽ trên 230usd/tấn CFR HMS I trong tuần này.
Hai tuần trước, Hyundai Steel đã đặt mộtlô hàng phế A3 Nga tại mức 210usd/tấn CFR Hàn Quốc.
Hôm thứ Tư, Platts duy trì định giá phế HMS I/II bulk Đông Á ở mức 220-225usd/tấn CFR. 

Giá HRC Châu Á kết thúc đà tăng do giá Trung Quốc suy yếu

Giá HRC Trung Quốc suy yếu đã khiến thị trường giao ngay không thay đổi giá hôm thứ Sáu, kết thúc đà phục hồi 4 ngày. Platts định giá SS400 HRC 3mm ở mức 395-400 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó.
Thép cuộn cùng loại được định giá ở mức 405-410 USD/tấn CFR Đông Á, tăng 16 USD/tấn so với tuần trước đó. Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.900-2.910 NDT/tấn (429-431 USD/tấn) xuất xưởng và gồm 17% VAT, giảm 20 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Hầu hết các nhà máy Trung Quốc đã ngưng chào giá vào cuối tuần trước do thị trường trong nước ảm đạm. Một nhà máy ở miền bắc đã ngưng chào giá sau khi bán một số SS400 HRC ở mức 395 USD/tấn FOB.
Hai nhà máy khác ở miền đông và đông bắc Trug Quốc duy trì chào giá không đổi lần lượt ở mức 395 USD/tấn FOB và 405 USD/tấn FOB cho SS400 HRC, nhưng không có giao dịch nào được ký kết.
Về phía người mua, một thương nhân ở đông bắc Trung Quốc thừa nhận khách hàng của ông đang nán lại sau khi có chào giá cao của các nhà máy và nói ông phải đợi.
Tuy nhiên, hãy còn quá sớm để nói liệu giá xuất khẩu Trung Quốc cho HRC có xuống trong suốt tuần này hay không do giá trong nước giảm. “Chi phí sản xuất của các nhà máy Trung Quốc gần đây cũng đã tăng đáng kể và nguồn cung HRC rất hạn chế”, một thương nhân ở Thượng Hải lý giải tại sao ít có khả năng giá HRC xuất khẩu của Trung Quốc giảm.
Tại Việt Nam, một thương nhân than phiền không nghe nói có bất cứ chào giá nào. Nhưng một số thương nhân đã tiếp tục chào bán thép cuộn SAE được sản xuất bởi Benxi Iron & Steel và Wuhan Iron & Steel với giá 442 USD/tấn CFR Việt Nam. 

Thép cây Châu Á sụt giảm trong bối cảnh niềm tin thị trường suy yếu hơn

Thị trường thép cây Châu Á đã mất đà tăng đáng kể trong ngày thứ Sáu tuần qua, vì niềm tin thị trường bị phai nhạt do thị trường giao sau suy yếu.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 340-342 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, giảm 2 USD/tấn so với ngày trước đó.
Một giao dịch tới Singapore được nghe nói chốt ở mức 345 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết để giao giữa tháng 12, tương đương 340 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, phí vận chuyển 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Nhưng không có thêm chi tiết nào được tiết lộ.
Một thương nhân khác cho biết ông nghe nói một giao dịch cao hơn một chút so với giá đó, và nhận được chào giá 362 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết (358 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế). Chi phí nguyên liệu tiếp tục tăng đã hỗ trợ một phần cho các nhà máy trong nỗ lực nâng giá, và người mua có thể thương lượng với các nhà máy chỉ khi nào có giá mua cao.
Thị trường Hong Kong phải đóng cửa hôm thứ Sáu do bão. Nhưng, một nhà tích ở đó cho biết khách hàng sẽ đặt đơn hàng với giá 350 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (tương đương 341 USD/tấn FOB phí vận chuyển 9 USD/tấn) cho khối lượng nhỏ.
Một nhà máy ở miền đông chào giá 340 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 351 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, dung sai khối lượng 3%. Hai nhà máy ở khu vực này đã chào giá khoảng 360 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế trong khi một nhà máy ở miền bắc chào giá 370 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
 

 Phôi thanh Trung Quốc cao hơn làm tăng sự quan ngại, hoài nghi ở Đông Nam Á

Người mua Đông Nam Á dần chấp nhận chào giá tăng cho phôi thanh Trung Quốc trong suốt tuần trước, với các nhà đầu tư gia tăng quan ngại về những lô hàng được đặt mua ở mức giá thấp hơn có lẽ sẽ đối mặt với sự trì hoãn.
Platts đã nâng định giá nhập khẩu cho phôi thép 120/130mm ở mức 345-350 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu, tăng từ 340-345 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá này cao hơn 5 USD/tấn so với tuần trước.
Chào giá phôi thép 120/130mm Q275 từ Trung Quốc đã lên khoảng 370 USD/tấn CFR Manila, tăng 15-20 USD/tấn so với tuần trước đó. Các thương nhân ở Manila cho biết họ nghe nói một vài đơn hàng phôi thép Q275 được đặt mua với giá 345-350 USD/tấn CFR vào đầu tuần đó hoặc tuần trước đó.
Một số thương nhân Manila cũng bày tỏ quan ngại về các hợp đồng hiện tại được đặt mua với giá 350 USD/tấn CFR và dưới mức này sẽ gặp rắc rối nếu như giá phôi thép Trung Quốc tiếp tục cao. Một đợt trì hoãn nữa và hủy bỏ hợp đồng đối với những đơn hàng đã được đặt mua với giá thấp hơn có thể xảy ra, đây sẽ là lần thứ ba trong năm nay.
Tại Thái Lan, các thương nhân nghe nói ít nhất 10.000 tấn phôi thép 120mm Q235 được bán với giá 336 USD/tấn CFR vào đầu tuần ngày 10/10, nhưng chào giá cho phôi thép 120/130mm Q235 kể từ đó đã tăng lên 355-360 USD/tấn CFR.
“Tôi không nghĩ giá phôi Trung Quốc sẽ tiếp tục đi lên. Giá cao hơn sẽ thu hút các nguồn khác trong đó có CIS, Iran và Ấn Độ”, thương nhân ở Manila nói.
Hôm 18/10, RINL (Ấn Độ) đã giành được hợp đồng 20.000 tấn phôi thép 150mm (tương đương loại 4sp) để giao tháng 11 với giá khoảng 335 USD/tấn FOB Vizakhapatnam. Lô hàng này sẽ được giao tới Bangladesh nhưng các thương nhân cho rằng mức giá được đấu thầu này có thể cạnh tranh ở Đông Nam Á, với phí vận chuyển hiện hành từ 15-20 USD/tấn.
Trong khi đó, tại thị trường Trung Quốc, phôi thép Đường Sơn đã tăng 40 NDT/tấn (6 USD/tấn) so với tuần trước đó, chốt tại 2.200 NDT/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu. Trong bối cảnh giá than cốc nhập khẩu và trong nước cao hơn đáng kể thì các nhà máy Trung Quốc đã tìm cách nâng chào giá lên. Tuy nhiên, sự thành công đã bị hạn chế trên thị trường nội địa vì nhu cầu không theo kịp.
“Với giá than cốc cao, chi phí của chúng tôi tự nhiên sẽ tăng lên”, một nhà máy ở miền bắc cho biết. Các nhà máy không thể có được bất cứ nguồn cung than đá nào.
Hôm 19/10, 20.000 tấn thép thanh vuông 130mm Q275 của Trung Quốc giao ngày 30/11 được đặt mua từ Lingyuan Steel với giá 340 USD/tấn FOB Jinzhou.