Giá nhập khẩu ferrochrome vào Trung Quốc đi ngang trong bối cảnh giao dịch trì trệ
Thứ sáu tuần trước, Platts định giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) xuất xứ từ Ấn Độ tầm 83-85 cents/lb CIF Trung Quốc và quặng chrome Nam Phi (48-52% Cr) tại 83-84 cents/lb CIF Trung Quốc. Cả hai mức giá này đều không đổi so với tuần trước do chào giá và giao dịch trên thị trường đều hạn chế.
Không có giao dịch nào được xác nhận trong tuần trước. Các chào giá ferrochrome Ấn Độ và quặng chrome từ Nam Phi nghe nói lần lượt là 85-86 cents/lb CIF và 84-85 cents/lb CIF. Nhưng giá giao dịch thực tế lại thấp hơn lần lượt chỉ có 83-85 cents/lb CIF và 83-84 cents/lb CIF do cầu yếu.
Nhiều thương nhân Trung Quốc đã nhận được rất ít yêu cầu trong tuần qua. “Không có nhiều người yêu cầu hàng nhập khẩu do sự khác biệt giữa giá nguyên liệu trong nước và chào giá của các nhà cung cấp ở nước ngoài. Nhiều người đang mua hàng trong nước để thay thế”, một thương nhân ở Thượng Hải nói.
Một thương nhân khác cho biết các khách hàng của bà chỉ muốn mua với giá 82 cents/lb CIF hoặc thấp hơn nhưng nhà cung cấp từ Ấn Độ đang chào giá 85 cents/lb CIF. Giữa người bán và người mua đang có khoảng cách lớn về giá.
Bên cạnh lý do lực cầu yếu, người mua Trung Quốc cũng đang hạn chế hàng nhập khẩu do Nhân dân tệ mất giá so với đôla Mỹ và đang đợi kết quả của các cuộc đàm phán hợp đồng quý II giữa các nhà sản xuất thép Châu Âu và nhà cung cấp Nam Phi.
Giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) Trung Quốc tại thị trường nội địa hôm thứ Tư tuần trước dao động từ 6.700-6.900 NDT/tấn (82,5-85 cents/pound) gồm phí vận chuyển và VAT 17%. Giá không đổi trong tuần thứ hai liên tiếp.
Giá phế tại Châu Á có lẽ đã chạm đáy
Giá phế Nhật có lẽ đã chạm đáy bởi vì Tokyo Steel Manufacturing tiếp tục giữ giá mua không đổi kể từ ngày 15/3 đến này. Cụ thể, giá mua phế H2 của nhà máy này vẫn duy trì tại 33.000 Yên/tấn (322 USD/tấn) tại các xưởng ở Kyushu và 29.000 Yên/tấn tại Utsunomiya, phía bắc Kanto.
Các thương nhân và nhà phân phối Nhật Bản đã bắt đầu mua phế trong tuần trước để tích trữ thêm trước khi giá tăng. Nhiều thương nhân ở Vịnh Tokyo hôm thứ Năm đã mua phế H2 để xuất khẩu với giá quanh 28.500 Yên/tấn, tăng 500-1.000 Yên/tấn (5-10 USD/tấn) so với tuần trước. Giá xuất khẩu phế Nhật tới Hàn Quốc cũng tăng trong tuần trước. Nhà máy Daehan Steel nằm ở Busan đã đặt mua phế H2 của Nhật với giá 31.500 Yên/tấn FOB trong suốt tuần trước, tăng 500-1.000 Yên/tấn so với giá mua của Hyundai Steel trong tuần trước đó.
Nhưng tại Hàn Quốc, thị trường phế trong nước tiếp tục suy yếu với thông báo từ các nhà máy về việc giảm giá mua xuống từ 5.000-10.000 Won/tấn tùy vào từng loại phế và xưởng sản xuất. Điển hình như Dongkuk Steel, tuần trước đã đặt mua 25.000 tấn phế HMS No.1 từ một nhà cung cấp ở Mỹ với giá 359 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Mức giá này thấp hơn so với giá mua 362 USD/tấn hồi cuối tháng 02 của nhà máy và giảm so với chào giá 370 USD/tấn của các nhà xuất khẩu ở Mỹ.
Tại Đài Loan, các đơn đặt mua phế HMS 1&2 80:20 lô nhỏ được thực hiện với giá 340-342 USD/tấn CFR Đài Loan. Tuy nhiên, sức mua của các nhà máy trong nước thấp do thị trường thép cây suy yếu. Các nhà cung cấp ở Mỹ nhìn chung cũng đang đặt mục tiêu bán với giá cao hơn, trên 345 USD/tấn CFR.
Tại Platts hôm thứ Năm, phế 80:20 lô nhỏ giảm 2,5 USD/tấn còn 310-315 USD/tấn FAS cảng Los Angeles. Còn tại thị trường Mỹ, giá tham khảo của TSI cho phế vụn vẫn không đổi so với tuần trước và dừng tại 388 USD/tấn dài giao tới nhà máy ở vùng Midwest.
Các nhà cung cấp Thổ Nhĩ Kỹ tiếp tục đặt mua phế trong bối cảnh thị trường tăng dần một cách ổn định. Hôm thứ sáu, giá tham khảo bình quân theo ngày của TSI cho phế 80:20 tăng 4 USD/tấn so với tuần trước lên 371 USD/tấn CFR Iskenderun. Tại Platts, giá của loại phế này chốt tại 371,5 USD/tấn.
Giá phế tăng mặc dù các nhà máy Thổ Nhĩ Kỹ không thể tăng giá bán thép thành phẩm lên theo được. Chênh lệch giữa giá phế và thép cây theo đánh giá của Platts thu hẹp còn 192 USD/tấn.
Các cuộc bầu cử sắp tới tại Thổ Nhĩ Kỳ được cho là có thể cải thiện được niềm tin của người mua trong nước, qua đó đẩy giá lên. Nhưng theo một nguồn tin thì tất cả những yếu tố tâm lý này có thể thay đổi theo ngày, nên các nhà sản xuất trong nước dễ rơi vào tình thế nguy hiểm trước viễn cảnh phải sản xuất các loại thép thành phẩm có giá thấp từ nguồn nguyên liệu đầu vào đắt đỏ.
Các nhà máy Nga tham vọng mở rộng giá tăng
Các nhà máy thép cây Nga đang tìm cách mở rộng mức giá tăng mà họ đã dự tính cho thép cây sản xuất tháng 4 từ mức 700-800 Rub/tấn (19-22 USD/tấn) tuần trước lên mức 1.200-1.350 Rub/tấn (33-37 USD/tấn) trong ngày 21/3, tương đương mức tăng 6-6.5% so với tháng trước để bù lại phần tổn thất do tỷ giá biến động và lợi dụng nhu cầu tiêu thụ mạnh hơn từ các ngành xây dựng.
Nếu thành công, giá sẽ tăng lên mức 22.400-22.600 Rub/tấn (618-623 USD/tấn) đối với loại 14mm và 22.800-23.000 Rub/tấn (629-634 USD/tấn) đối với loại 12mm giao tại Maxcova đã tính 18% VAT.
Các nhà máy cũng duy trì mức xuất khẩu cao, phần lớn sang CIS và Trung Á. Từ tháng 4, một vài nhà máy có thể chuyên tâm hơn vào thị trường nội địa do thị trường xây dựng khởi sắc. Do đó, Nizhneserginsky Steel Plant của MLMK có thể giảm lượng hàng xuất khẩu xuống 6.000 tấn trong tháng 4. Cùng thời điểm, nhà máy này cũng tạm ngưng sản xuất tại nhà máy cuộn 150mm sản lượng 1 triệu tấn/năm trong 10 ngày để nâng cấp trong khi vẫn tiếp tục sản xuất tại nhà máy 150mm sản lượng 1.1 triệu tấn/năm.
Trong khi đó, nhà máy thép dài Kaluga của NLMK đặt mục tiêu sản lượng 40.000-45.000 tấn trong tháng 4, tăng từ mức 30.000 tấn tháng 3.
Thép cây Ukraina vẫn được bán sang Nga như thường. Tuy nhiên, do đồng Rub mất giá trong suốt 2 tháng qua nên Belarus đã tiên phong đã cắt giảm hàng bán sang Nga.
Trong khi đó, thép cây nhập khẩu tương đối cân bằng hỗ trợ thị trường nội địa hồi phục.
Cho tới nay, vẫn chưa có giao dịch nào được chốt tại mức giá mới, tuy nhiên, các nhà máy và người mua vẫn tiếp tục đàm phán. Định giá thép cây 12-14mm theo Platts đạt mức 18.000-18.300 Rub/tấn (496-504 USD/tấn) CPT Maxcova trong ngày 21/3.
Giá quặng sắt nhập vào Trung Quốc tăng nhờ lực mua trở lại
Giá quặng sắt nhập khẩu đã nhích nhẹ lên trong tuần trước nhờ lực mua hỗ trợ khi thị trường thép mạnh hơn.
Tại Platts hôm thứ Sáu, IODEX 62% Fe được chốt tại 110,75 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, tăng 0,45% tức 0,5 USD/dmt so với tuần trước đó. Giá tham khảo của TSI cho loại quặng này cũng cao hơn 0,6 USD/dmt chốt tại 110,7 USD/dmt CFR Thiên Tân nhưng vẫn thấp hơn gần 19% so với giá của tháng trước.
Nhu cầu tiêu thụ thép phục hồi là nhân tố chính lôi kéo nhiều người mua quay lại thị trường giao ngay. Các nguồn tin trong ngành cho biết thời tiết ấm dần lên đã hỗ trợ cho hoạt động xây dựng cải thiện từ đó làm gia tăng nhu cầu thép và nguyên vật liệu làm thép.
Sự kỳ vọng về việc tín dụng sẽ nới lỏng hơn cũng giúp người mua quay lại thị trường quặng sắt nhập khẩu nhiều hơn. Một thương nhân Bắc Kinh nói rằng các ngân hàng trong nước sẽ mở rộng cho vay nhiều hơn trong tháng 04 và điều này sẽ giúp kích thích mức tiêu thụ thép và làm tăng nhu cầu quặng sắt.
Nhiều nguồn tin nhấn mạnh rằng người mua dành nhiều sự quan tâm hơn cho các loại quặng chất lượng trung bình với hàm lượng từ 60-63%, ngược lại các loại gần 65% Fe và dưới 60% Fe thì không được sự chú ý của người mua.
Nghe nói những nhà tiêu dùng trực tiếp trong nước đang tránh mua quặng loại chất lượng kém vì chính phủ Trung Quốc đang giám sát chặt chẽ hơn nhằm nỗ lực giảm bớt lượng chất thải; vì quặng sắt chất lượng kém thường thải ra nhiều chất gây hại hơn trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, loại quặng chất lượng cao đã vượt quá khả năng chi trả của các nhà máy vì họ còn đang phải gánh chịu hậu quả từ việc lợi nhuận kinh doanh ít ỏi.
Baosteel tăng giá tháng 04 cho cuộn không gỉ, Taigang chờ diễn biến giá niken
Baosteel đã tăng giá bán tháng 04 ở trong nước cho cuộn không gỉ loại 300-series thêm 300 NDT/tấn (49 USD/tấn) do niken lên giá, trong khi đối thủ cạnh tranh Shanxi Taigang Stainless Steel lại thông báo hôm thứ sáu rằng họ vẫn đang theo dõi sự thay đổi của giá niken trước khi đưa ra quyết định về giá bán tháng 04.
Sau quyết định của Baosteel vào cuối tuần trước, theo đại diện nhà máy cho biết giá bán của HRC loại 304 và CRC 2B 2mm có giá lần lượt là 15.200 NDT/tấn (2.466 USD/tấn) và 16.300 NDT/tấn xuất xưởng Thượng Hải, gồm VAT 17%. Nhà máy sẽ giữ giá loại 403 không đổi và sẽ không thông báo giá CRC loại 430 2mm.
“Chi phí sản xuất của chúng tôi lên cao hơn do giá niken tăng, thêm vào đó sức mua trong tháng 03 đã cải thiện nhẹ so với tháng 02”, ông nói.
Trong khi đó, đại diện của Taigang thì lại cho biết không chắc thời gian nào công ty bà sẽ thông báo giá bán tháng 04 ở trong nước. “Chúng tôi vẫn đang quan sát thị trường. Giá niken đã trải qua những sự thay đổi lớn trong vài ngày qua”, bà nói.
Thật vậy, giá nikentrong tuần trước đã tăng đến mức cao trong 11 tháng qua. Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME đã từng đạt mức 16.000 USD/tấn trong tuần trước nhưng sau đó lại giảm và chốt tại 15.910 USD/tấn hôm 20/3.
Giá cuộn không gỉ Châu Á tăng cùng với niken
Giá CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm xuất xứ từ Hàn Quốc và Đài Loan hôm thứ Sáu đều tăng lên 2.400-2.450 USD/tấn CFR Đông Á từ mức 2.350-2.400 USD/tấn CFR của tuần trước đó sau khi các nhà cung cấp nâng chào giá theo đà mạnh lên của giá niken.
Các chào giá CRC Hàn Quốc và Đài Loan trong tuần trước nghe nói có giá lần lượt 2.480-2.500 USD/tấn CFR và 2.500 USD/tấn CFR. Cũng trong tuần trước, các nhà cung cấp Đài Loan đã bắt đầu tăng chào giá lên thêm 20-60 USD/tấn sau khi phần lớn đều giữ giá không đổi trong tuần trước đó.
Một số thương nhân cho hay sức mua đã cải thiện nhẹ trong tuần trước sau khi chào giá niken và kim loại không gỉ cao hơn. Nhưng đa số người mua đều không vội mua.
Một thương nhân Hong Kong cho hay các khách hàng của ông không chịu mua trong tuần trước. “Tôi nghĩ chúng tôi có thể thương lượng mức giá 2.450 USD/tấn CFR từ các nhà máy nhưng các khách hàng của chúng tôi thì lại không muốn mua ở mức giá này”, ông nói. Một thương nhân ở Đài Bắc nói rằng các khách hàng của bà đang trả giá thấp hơn mặc dù chào giá tăng. “Người mua chỉ có thể chấp nhận mức giá 2.450 USD/tấn CFR Châu Á mà thôi”, bà nói.
“Các nhà cung cấp cứ nhất định tăng chào giá nhưng khách hàng thì lại không hào hứng để mua”, một thương nhân ở Đài Loan nói. “Chúng ta sẽ nhìn thấy mức giá mà các nhà máy đưa ra vào cuối tháng này và điều đó sẽ quyết định liệu giá thép không gỉ có thực sự đi lên hay không”, ông nói. Nhiều nhà quan sát thị trường hy vọng các nhà sản xuất thép không gỉ ở Hàn Quốc và Đài Loan sẽ tăng giá khi họ đưa ra giá tháng 04 của mình trong tuần này.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME hôm 20/3 chốt tại 15.905/10 USD/tấn, tăng khoảng 200 USD/tấn so với tuần trước.
Shagang giữ giá thép cây ổn định đến cuối tháng 03
Shagang Group, nhà sản xuất thép tư nhân lớn ở tỉnh Giang Tô đã thông báo hôm 21/3 rằng sẽ giữ giá xuất xưởng của thép cây không đổi từ ngày 21-31/3, sau 3 lần hạ giá liên tiếp với mức giảm tổng cộng 140 NDT/tấn kể từ cuối tháng 02 đến nay.
Theo đó, thép cây HRB400 đường kính 16-25mm của Shagang vẫn ở mức 3.320 NDT/tấn (534 USD/tấn). Shagang cũng duy trì giá cuộn trơn HPB300 ổn định tại 3.310 NDT/tấn (532 USD/tấn), gồm VAT 17%.
Sau khi giá thép cây giao ngay chạm mức thấp kỷ lục, các nhà máy không muốn hạ giá thêm nữa. Ngoài ra, giá giao ngay tại miền đông cũng đã có một vài sự phục hồi trong tuần trước. Nhiều người vẫn kỳ vọng giá giao ngay sẽ được hỗ trợ bởi sự phục hồi của cầu trong quý II tới.
Tại thị trường bán lẻ ở miền bắc, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel tầm 3.130-3.140 NDT/tấn (503-504 USD/tấn) khối lượng thực tế gồm VAT, không đổi so với thứ Năm.
Một số công ty giao dịch đã giảm giá một vài loại thép xuống khoảng 10 NDT/tấn hôm thứ Sáu để thu hút người mua, mặc dù trước đó họ đưa ra chào giá ở mức cao nhất 3.140 NDT/tấn. Một thương nhân Bắc Kinh cho biết công ty của bà không điều chỉnh chào giá vì đã ở mức khá thấp.
Nhiều người đang chờ Hegang đưa ra giá hợp đồng tháng 03. Hegang đã thiết lập mức giá hợp đồng tháng 02 cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm tại 3.200 NDT/tấn khối lượng lý thuyết gồm VAT 17%, tức khoảng 3.300 NDT/tấn khối lượng thực, cao hơn giá giao ngay hiện nay tại Bắc Kinh.
Trung Quốc chính thức ra mắt hợp đồng HRC giao sau ; giá giao ngay suy yếu
Sàn giao dịch SHFE đã chính thức đưa ra hợp đồng giao dịch kỳ hạn cho HRC hôm thứ sáu với mức giá chuẩn 3.316 NDT/tấn (533 USD/tấn). Trong ngày giao dịch đầu tiên, hợp đồng giao kỳ hạn tháng 10 lúc mở cửa giảm 1,9% so với giá chuẩn nhưng giá đóng cửa lại tăng 0,24 so với giá chuẩn chốt tại 3.324 NDT/tấn.
Giá giao sau hôm thứ sáu bằng với giá giao ngay tại thị trường Thượng Hải cùng ngày. Nhiều thương nhân mà Platts đã liên hệ đều bày tỏ sự quan tâm đến thị trường giao sau này vì nó giúp họ tránh rủi ro trong bối cảnh thị trường giao ngay ảm đạm như hiện nay. Tuy nhiên, đa số họ vẫn còn đứng ngoài cuộc và chờ cho xu hướng thị trường giao sau trở nên rõ ràng hơn.
Hôm thứ Sáu, HRC Q235 5.5mm có giá giao ngay tầm 3.310-3.330 NDT/tấn tại Thượng Hải và 3.350-3.390 NDT/tấn tại Lecong (Quảng Đông), gồm VAT 17%, cả hai đều thấp hơn 5 NDT/tấn so với ngày thứ Năm.
Tồn kho tiếp tục giảm cùng với giá quặng sắt giao ngay ổn định đã dần thuyết phục được các thương nhân rằng giá HRC giao ngay khó mà rớt thêm nữa. Nhưng không có thương nhân nào mà Platts đã liên hệ có ý định tái bổ sung thêm hàng. HRC tồn kho tại Thượng Hải tiếp tục giảm 20.000 tấn từ ngày 14/3 còn 880.000 tấn hôm 21/3, theo nhà cung cấp thông tin MySteel.
Một thương nhân ở Lecong cho biết có lẽ ông sẽ nắm giữ hợp đồng HRC giao sau nhưng sẽ vẫn tiếp tục giữ lượng tồn kho thấp để tránh rủi ro trên thị trường giao ngay ảm đạm. Thị trường HRC giao kỳ hạn sẽ không chỉ giúp các thương nhân tránh được rủi ro trên thị trường giao ngay mà còn giúp cho dòng tiền mặt của họ nới lỏng một chút bởi vì họ có thể mua giao sau ở thời điểm hiện tại thay vì đặt mua thép giao ngay sớm hơn lúc cần.
Thị trường xuất khẩu thép cây EU bình ổn
Giá thép cây xuất khẩu từ EU bình ổn trong tuần qua, đạt mức 435-440 USD/tấn FOB Địa Trung Hải do những nỗ lực tăng giá chào bán của Thổ Nhĩ Kỳ đã giúp giảm nhẹ tính cạnh tranh trên các thị trường.
Một nhà máy lớn vẫn giữ giá chào ở mức 440 Euro/tấn FOB Nam Âu, tuy nhiên cũng có vài đơn hàng chốt mức thấp 435 Euro/tấn FOB.
Trong khi đó, thị trường Algeria tuần qua diễn ra khá im ắng và dự báo các đơn hàng sẽ được bắt đầu vào tuần này. Trong cuối tháng 2, các nhà máy Châu Âu có chút lo lắng về hàng cạnh tranh từ Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraina. Tuy nhiên cho tới tuần này, giá chào xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã lên mức 570 USD/tấn FOB nên sự cạnh tranh đã giảm đi rất nhiều.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa bán được đơn hàng nào với giá 570 USD/tấn FOB đối với thép cây và 530 USD/tấn FOB đối với phôi thanh, tuy nhiên, nếu họ giữ vững giá chào bán và thị trường phế bình ổn thì dường như họ sẽ đạt được giá này trong nay mai.
Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ không đổi trong bối cảnh nhu cầu trì trệ
Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ vẫn không đổi trong tuần trước do một số nhà cung cấp không muốn chốt các hợp đồng ở mức giá thấp hơn. Trong khi đó, người mua lại đặt giá thấp hơn, vì sợ giá ở thị trường Trung Quốc sẽ giảm hơn nữa nên có rất ít giao dịch và kể cả các lô nhỏ cũng rất hạn chế.
HDG dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông được giao dịch với giá bình quân từ 865-875 USD/tấn CFR bờ biển phía đông Hoa Kỳ trong tuần trước, trong đó phí vận chuyển là 50-60 USD/tấn, giao đầu tháng 05, bằng với giá niêm yết tại Platts hôm 12/3.
Các đơn đặt mua từ Mỹ vẫn còn nhưng khách hàng không muốn cam kết đặt mua từ Ấn Độ do giá tại Trung Quốc đang giảm. Chào giá Trung Quốc cho HDG DX51D 1.0mm phủ 80 gram kẽm trên một mét vuông trong tháng này được giao dịch khoảng 655-665 USD/tấn FOB Thượng Hải, giảm 5 USD/tấn so với giữa tháng 02.
Một nhà máy thép hợp nhất hàng đầu trong nước có trụ sở ở Mumbai cho biết họ sẵn sàng bán với giá 865 USD/tấn CFR Mỹ nhưng chỉ dành cho các lô lớn. “Hầu hết các nhà cung cấp cũng giống như chúng tôi, họ sẽ sẵn sàng đưa ra các khoản chiết khấu. Và mức chiết khấu sẽ phụ thuộc rất nhiều vào lượng thép được mua”, đại diện nhà máy nói.
Một thương nhân ở Mumbai cho biết sự cạnh tranh đã tăng lên từ khi các nhà cung cấp người Mexico tham gia vào thị trường. Họ tận dụng lợi thế của mình khi nằm gần kề với thị trường Mỹ nên thời gian giao hàng chậm nhất là từ 30-35 ngày trong khi HDG xuất khẩu từ Ấn Độ lại mất đến khoảng 60-70 ngày. “Các nhà cung cấp người Mexico đưa ra giá rẻ hơn so với chào giá của chúng tôi. Đa số họ đang chào bán khoảng 830-840 USD/tấn CFR Mỹ cho HDG cùng loại nêu trên”, ông nói.
HRC Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam rớt giá mạnh
Thị trường nhập khẩu HRC xuất xứ Trung Quốc tại Việt Nam đã để mất khoảng 10 USD/tấn kể từ cuối tháng 02. Giá quặng sắt giao ngay lao dốc, thép tồn kho tăng cùng với nhu cầu tiêu thụ trì trệ tại Việt Nam là những lý do khiến thị trường suy yếu.
Nhiều nhà nhập khẩu chọn cách trì hoãn việc mua hàng vì sợ giá có thể giảm thêm nữa nên thị trường hiện nay rất đìu hiu.
Chào giá HRC SS400B dày từ 3mm trở lên giảm còn 525-530 USD/tấn CFR từ mức 535-540 USD/tấn CFR hồi cuối tháng 02. HRC SAE 1006B dày 2mm nhập từ Trung Quốc hiện nay có chào giá phổ biến tầm 538-542 USD/tấn CFR, thấp hơn so với chào giá 550-555 USD/tấn CFR hồi cuối tháng 02.
Một giao dịch HRC SAE 1006B dày 2mm và 2.3mm với khối lượng 5.000 tấn nhập từ Trung Quốc được ký kết với giá 540 USD/tấn CFR Việt Nam vào tuần trước. Bởi vì HRC loại thông dụng SAE 1006B dày 2mm hiện được chào bán với giá 540 USD/tấn CFR nên những đơn đặt hàng có thể thực hiện ở mức giá từ 535-538 USD/tấn CFR, một thương nhân Việt Nam cho biết hôm thứ Sáu.
Các giao dịch HRC dày từ 3mm trở lên gần đây được giao dịch với giá 525 USD/tấn CFR. Một lô hàng ước tính khoảng 10.000-20.000 tấn đã được giao để vận chuyển đi trước ngày 15/5. Nhiều nhà máy Trung Quốc hiện không muốn hạ giá thấp hơn. Những nhà cung cấp này có lẽ đang kỳ vọng giá sẽ sớm giảm và sẽ không thực hiện hợp đồng nếu như thị trường tăng trở lại.