Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc giảm theo giá trong nước
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc giảm do giá nội địa Trung Quốc giảm mạnh trong bối cảnh tâm lý yếu.
Tại thị trường giao ngay Bắc Kinh, thép cây HRB400 có đường kính 18-25 mm giảm 50 NDT/tấn xuống 3.970 NDT/tấn (623 USD/tấn) bao gồm 16% VAT.
Tại Singapore, một thương nhân Thượng Hải chào 545 USD/tấn CFR cho thép cây có xuất xứ Trung Quốc 10-32 mm, giao tháng 8/tháng 9/tháng 10, giảm 10 USD/tấn so với thứ hai. Người mua tìm kiếm giá 530 USD/tấn CFR, tầm 551/tấn FOB trọng lượng thực tế của Trung Quốc.
Sau khi giảm khoảng 100 NDT/tấn ở miền đông Trung Quốc hôm thứ tư, giá nội địa tương đương 550-555 USD tấn CFR Singapore, thêm vào đó giá có khả năng tiếp tục giảm trong ngắn hạn.
Giá nội địa Trung Quốc có khả năng giảm xuống còn 545 USD/tấn, một nhà chế tạo thép tại Singapore cho biết.
Giá chào mua của Singapore ở mức 550-555 USD/tấn CFR, giảm từ 3-5 USD/tấn so với tuần trước.
Một nhà môi giới Hồng Kông cho biết giá chào mua trong nước giảm còn 550 USD/tấn CFR Hong Kong, giảm 5 USD/ tấn so với tuần trước, tương đương với 537 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế của Trung Quốc.
Các thành viên thị trường đang chờ đợi dữ liệu tồn kho thép cây Trung Quốc công bố hôm nay. Một số người nói rằng đà giám sẽ chậm lại do tiêu thụ suy yếu.
Hợp đồng thép cây tháng 10 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 42 NDT/tấn (1.2%) xuống 4.351 NDT/tấn.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm do áp lực suy yếu từ thị trường nội địa.
Một thỏa thuận cho 3.000 tấn HRC thương phẩm được nghe hôm qua tại mức 605 USD/tấn CFR Pakistan cho lô hàng tháng 7, tầm 582 USD/tấn FOB Trung Quốc. Các nguồn tin thị trường cho biết, có thể là một nhà thương nhân đang bán khống vì không phải từ nhà máy.
Giá thép cuộn HRC thương phẩm vẫn được các nhà máy Trung Quốc chào bán 590- 595 USD/tấn FOB Trung Quốc trong tháng 7, trong khi tấm cùng loại ở mức 599 USD/tấn CFR Việt Nam cho lô hàng cuối tháng 7.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay cho HRC Q235 5.5 mm giảm 45 NDT/tấn so với ngày trước xuống 4.170-4.190 NDT/ tấn (653-656 USD / tấn) bao gồm VAT.
Trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, hợp đồng HRC tháng 10 chốt mức 3.709 NDT/tấn, giảm 53 NDT/tấn so với ngày trước.
Đối với thép cuộn loại SAE, giá chào SAE1006 dày 2.8mm là 600 USD/tấn FOB Trung Quốc cho lô hàng tháng 7, trong khi giá chào mua dưới 590 USD/tấn FOB. Trên cơ sở CFR Việt Nam, mức chào thấp nhất là 610 USD/tấn, thấp hơn 2 USD/tấn so với hôm thứ Ba.
Một chào giá SAE1006 dày 2.0 mm Nhật ở mức 638 USD/tấn CFR Việt Nam cho lô hàng tháng 7, trong khi giá giao dịch ước tính 628 USD/tấn CFR.
Tại Philippines, một thỏa thuận đã được ký kết cho 1.000-2.000 tấn SAE1006 dày 1.95 mm của Đài Loan ở mức 630 USD/tấn CFR Philippines.
Một thỏa thuận khác đối với 600 tấn sản phẩm tấm Q345 đã được thực hiện hôm thứ 4 với giá 618 USD/ tấn CFR Việt Nam tháng 7. Tuy nhiên, vào cuối ngày, thị trường suy yếu, với giá chào bán trong khoảng 615- 617 USD/tấn CFR Việt Nam
Giá tấm mỏng Mỹ ổn định
Giá và thời gian sản xuất tấm mỏng Mỹ ổn định trong ngày hôm qua với cả bên mua và bán đều chỉ ra rằng thị trường HRC đang tăng trưởng.
Người mua vẫn cố gắng trì hoãn đơn hàng giao ngay lâu nhất có thể nhưng giá chào vẫn ổn định. Một nhà máy đã bán 2.500 tấn HRC tại mức 886 USD/tấn tuần trước giao tháng 6 song vẫn đặt mục tiêu 900 USD/tấn cho bất cứ sản lượng tháng 6 nào gia tăng.
Một trung tâm dịch vụ dự báo một nhà máy mini chào HRC tại mức 880 USD/tấn cho tháng 6 nhưng các nhà máy khác vẫn chào 900 USD/tấn. Một nhà máy mini nghe nói chào tới 940 USD/tấn cho tháng 7.
Một thương nhân trong nước cho rằng có thể mua HRC mức 890 USD/tấn tuần này nhưng dự báo giá sẽ lên 900 USD/tấn tuần tới.
Lý do lo lắng lúc này của người mua là ở thời gian sản xuất khác nhau tùy vào nhà máy. Một nhà máy đã cập nhật thời gian sản xuất mình trong tuần này, cho cả HRC.
Thời gain sản xuất HRC trung bình các nhà máy là 6.5 tuần, giảm nhẹ so với mức 6.9 tuần ngày 16/5. Thời gian sản xuất CRC ổn định mức 8 tuần còn HDG giảm từ 9.4 tuần xuống 9 tuần.
Nhu cầu tiêu thụ từ ngành xe hơi có sụt giảm nhưng theo dự báo chỉ ngắn hạn. Tiêu thụ HRC nhận được lực hỗ trợ từ tiêu thụ ngành liên quan tới năng lượng.
Giá thép cuộn CIS suy yếu
Giá thép cuộn cán nguội CIS đã giảm trong tuần này, do các nhà máy phải vật lộn để chuyển chào bán ra khỏi thị trường Địa Trung Hải vì nhu cầu tiêu thụ yếu ớt và giá thép thấp hơn.
Triển vọng thị trường thép cuộn tiêu cực trong 2-3 tuần tới cũng do sản xuất quá mức ở Trung Quốc và mùa mưa sẽ làm giảm nhu cầu, một số nguồn tin cho biết.
Một nhà máy của Nga đã bán 30.000-60.000 tấn thép cuộn cán nóng loại lớn cho Việt Nam với giá 575-580 USD/tấn FOB Vladivostok, tương đương với 555 USD/tấn FOB Biển Đen.
Đơn hàng xuất khẩu thép cuộn CIS giảm vì giá thấp, sức mua nghèo nàn ở Thổ Nhĩ Kỳ và trên khắp khu vực Địa Trung Hải, nơi mà nhu cầu và giá cả đều ở mức đáy.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã chào mua HRC CIS ở mức 550 USD/tấn CIF, tương đương với 535-540 USD/tấn Biển Đen một thương nhân ở Thụy Sĩ cho biết. "Với những cấp độ này, các nhà máy CIS sẽ tốt hơn trong việc chuyển hướng bán hàng cho Pakistan và Việt Nam", ông nói.
Một nguồn tin tại một nhà máy CIS khẳng định họ đã ngừng xuất khẩu HRC sang Thổ Nhĩ Kỳ, vì giá chào mua từ người mua thấp tới 535 USD/tấn CIF. Giá Ai Cập cũng tương tự Thổ Nhĩ Kỳ
Các nhà sản xuất thép Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá và sẽ dẫn đến giá cả giảm ở cả Châu Âu và châu Phi", một nguồn tin cho biết thêm là khôn ngoan không nên bán cho Thổ Nhĩ Kỳ vào thời điểm này. Những nhà máy này có thể chuyển hướng xuất khẩu sang các khu vực người dùng cuối xa hơn, bao gồm Đông Nam Á.
Một nguồn tin tại một nhà máy cho biết sẽ có rất ít phân bổ xuất khẩu cho thép tháng 7 vì là giai đoạn bảo trì.
Doanh thu gần đây nhất của HRC có nguồn gốc từ Nga được báo cáo ở mức 555 USD/tấn FOB Biển Đen. Chỉ có một lượng nhỏ HRC loại nhỏ vẫn được bán cho tháng 6. Khối lượng tháng 7 có thể sẽ được cung cấp trong vòng 7- 10 ngày tới.
Đối với CRC, không có giá dưới 625- 630 USD/tấn tấn FOB Biển Đen. Giá Ukraina tối đa là 620 USD / tấn FOB, theo một nguồn gần một nhà máy.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ổn định nhưng tâm lý bi quan
Giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ổn định vào thứ tư với giá chào ở mức 550- 555 USD tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳtrọng lượng thực tế song tâm lý thị trường bi quan.
Mặc dù giá đang ổn định song giá vẫn được dự báo sẽ thấp hơn trong những ngày tới. Đồng Lira đánh dấu mức thấp kỷ lục so với đồng đô la vào thứ tư làm đóng băng thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trong nước và kéo giá nhập khẩu phế giảm. Trong bối cảnh này, giá xuất khẩu thép cây không thể tiếp tục ổn định với các thành viên tham gia thị trường cho rằng xu hướng giảm đã bắt đầu hồi tháng Ba, dừng lại tháng Năm rồi sau đó tiếp tục giảm.
Một giao dịch 3.000 tấn đến châu Phi được báo cáo bởi một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 550 USD/tấn FOB Izmir trong tuần này. Ông nói thêm rằng các nhà máy đã từ chối giá thầu của mình dưới 550 USD/tấn FOB. Một vài thương nhân khác cho biết đó là một giao dịch cao và không được lặp lại.
Một vài nhà giao dịch cho rằng giá có thể chốt là 540-545 USD/tấn FOB.
Thị trường xuất khẩu thép dây Trung Quốc suy yếu
Giá xuất khẩu thép dây Trung Quốc giảm tuần này do các nhà máy đã giảm giá chào bán vừa vào triển vọng thị trường thép Trung Quốc bi quan vào tháng 6.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay của thép dây Q195 6.5 mm giảm 25 NDT/tấn so với tuần trước xuống 3.865 NDT/tấn (605 USD/tấn) có VAT. Giá giảm do ảnh hưởng từ sự sụt giảm của giá giao kỳ hạn.
Hôm thứ tư, hợp đồng thép cây giao tháng 10 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 42 NDT/tấn (1.2%) so với thứ ba xuống 3.531 NDT/tấn. Giá giảm trong bốn ngày giao dịch liên tiếp, với tổng là 148 NDT/tấn.
Các nhà máy xuất khẩu lớn ở Trung Quốc chủ yếu giữ giá ổn định trong bối cảnh biến động mạnh tuần này, nguồn tin cho biết. Người mua không mua khi giá giảm và do đó các nhà máy sẽ phải điều chỉnh giá cho tới khi thị trường bắt đầu ổn định.
Chào giá cho thép dây hợp kim SAE1008 6.5 mm ở mức 580- 590 USD/ tấnFOB giao tháng 7-8, so với mức 585- 590 USD/tấn vào tuần trước, theo các nhà máy và thương nhân.
Trong khi đó, các nhà giao dịch kỳ vọng giá sẽ có xu hướng giảm trong thời gian còn lại của tháng này và đã bán ra vào thứ Sáu tuần trước. Nhu cầu tiêu thụ và giá cả có khả năng giảm trong tháng Sáu, mùa mưa ở miền đông và miền nam Trung Quốc, do nhu cầu hạ nguồn có thể giảm xuống.
Giá chào bán cho Philippines vào khoảng 575 USD/tấn CFR Manila (560 USD/tấn FOB), người mua trong nước và thương nhân Trung Quốc cho biết. Một số thương nhân Trung Quốc cho biết giá chào mua tầm 570 USD/tấn CFR Manila (555 USD/ tấn FOB), nhưng một nguồn tin địa phương nghi ngờ rằng không có giá chào mua nào khi giá đang giảm.
Trong khi đó tại Việt Nam, các thương nhân đã chào bán 565-580 USD/ tấn CFR Hồ Chí Minh (553- 568 USD/ tấn FOB). Một thương nhân đã nghe chào mua ở mức 567 USD/tấn CFR trong ngày, nhưng một số thương nhân khác cho biết giá đã giảm xuống còn khoảng 560 USD/tấn CFR. Không có giao dịch nào trong ngày.
Công ty Jiujiang Wire của Hà Bắc cắt giảm giá niêm yết thép dây hàng tuần trong nước xuống 30 NDT/tấn còn 3.800 NDT/tấn có thuế.
Giá HRC Ấn Độ tiếp tục tăng
Giá thép cuộn cán nóng nội địa Ấn Độ tăng trong tuần thứ 8 do các giao dịch tiếp tục diễn ra ở mức mà các nhà sản xuất đang chào bán, trong bối cảnh nguồn cung đầy đủ, đơn hàng tốt và nhu cầu ổn định.
Giá HRC IS2062 dày 2.5-10 mm giao tới Mumbai tăng 100 Rupees/tấn so với tuần trước lên 46.000 Rupees/tấn (672.75 USD tấn), chưa bao gồm thuế GST 18%.
Với nhu cầu hạ nguồn từ các lĩnh vực như ô tô, xây dựng và cơ sở hạ tầng vẫn còn mạnh, các nhà sản xuất lớn của Ấn Độ đã có thể đạt được giá bán ở mức mà họ chào bán vào tháng 5, 46.000 Rupees/tấn giao tới Mumbai.
Một trong những nhà máy cho biết đồng rupee giảm giá nhanh có khả năng dẫn đến tăng giá tháng 6 thêm 700-1.000 Rupees/tấn, với chi phí nguyên liệu nhập khẩu tăng như than luyện kim.
Một thương nhân đồng ý rằng các nhà máy sẽ tăng giá vào tuần đầu tiên của tháng 6mặc dù thực tế họ chỉ đạt được mức tăng khoảng 500 Rupees/tấn do khả năng chấp nhận mức giá thấp hơn của người tiêu dùng.
Những áp lực về chi phí vẫn tồn tại nhưng các nhà máy vẫn có lợi nhuận đáng kể trong vài tháng qua. Các nhà máy sẽ tiếp tục tìm cách tăng giá nhưng không phải dễ.
Trong khi đó, mùa mưa sẽ bắt đầu vào tháng Sáu và dự kiến sẽ làm giảm nhu cầu. Một nhà sản xuất lớn thứ hai ở Bờ Tây Ấn Độ cho rằng giá sẽ chỉ có thể tăng vừa phải mặc dù ông lưu ý rằng việc tăng giá sẽ là chính đáng trong tháng 6 nếu đồng rupee giảm giá.
Ông nói rằng chi phí phát sinh của chính phủ do sự suy yếu của đồng tiền và chi phí cao hơn cho các dự án của chính phủ là một vấn đề tiềm ẩn có thể kìm hãm đà tăng 8 tuần của giá HRC.
Còn quá sớm để cho rằng đà tăng giá sẽ bị trì hoãn nhưng đã đến lúc phải thận trọng với giá thép nội địa Trung Quốc đang suy yếu. Do đó, việc tăng giá không thực tế.
Giá tấm dày xuất khẩu Trung Quốc sụt giảm sau khi giá các mặt hàng khác giảm
Với sự sụt giảm nhanh của giá thép giao kỳ hạn Trung Quốc, giá tấm dày cán nóng cũng đối mặt với áp lực suy yếu.
Phần lớn các nhà máy Trung Quốc giữ giá chào ở mức 615-620 USD/tấn FOB cho SS400. Tuy nhiên, một nhà máy phía đông thừa nhận rằng thị trường đang suy yếu và không có nhiều nhu cầu trên thị trường.
Giá nội địa cho tấm dày SS400 Trung Quốc tại Hàn Quốc từ các thương nhân tới khách hàng nội địa ở mức 700.000 Won/tấn (647 USD/tấn), không đổi so với tuần trước. Tuy nhiên, không có giao dịch tấm dày được chốt tới Hàn Quốc tuần này.
Tại Việt Nam, các thương nhân chào bán tấm dày tại mức 630-635 USD/tấn CFR Việt Nam và 655 USD/tấn CFR Việt Nam cho SS400 và Q345/A572. Tuy nhiên, các nhà môi giới Việt Nam cho biết mức giảm 5 USD/tấn rất ít vì giá chào hiện tại cao.
Một nhà máy đông bắc Trung Quốc cho hay chưa bán được gì tới Việt nam kể từ tháng trước do giá chào mua vẫn thấp 605 USD/tấn CFR Việt Nam cho tấm dày SS400/A36.
Giá tấm dày Mỹ tăng
Giá tấm dày Mỹ tăng lại tuần này sau khi giảm nhẹ tuần trước do các chào giá cao hơn cho tháng 8 bắt đầu được duy trì.
Phần lớn người mua cho biết các nhà máy giữ giá tháng 8 ở mức 940-960 USD/tấn. Tuy nhiên, vài nhà máy tăng giá ở Midwest lên mức cao 990 USD/tấn.
Một nhà máy tìm cách bán tầm 950 USD/tấn nhưng cho rằng nếu được giá 960-980 USD/tấn sẽ rất tuyệt. Họ đang được người mua chú ý cho đơn hàng than 8 do giá dường như sẽ tăng nhẹ.
Do thời gian sản xuất kéo dài tới tháng 8 và không có áp lực từ hàng nhập khẩu nên không có áp lực , phía nhà máy cho hay, thêm rằng môi trường giá hầu như ổn định cho các tháng tới.
Thời gian sản xuất trung bình tấm dày các nhà máy Mỹ là 10.1 tuần, giảm nhẹ so với mức 10.5 tuần trước nhưng vẫn ở mức cao thứ hai kể từ đầu tháng 4.
Một nhà máy chào bán 960 USD/tấn giao cho thép sản xuất tháng 7 và hiện tại đã tăng giá chào bán. Giá giao ngay cho tháng 7 nhìn chung 940-960 USD/tấn do vài nhà máy đã đóng cửa trong khi số khác tìm cách đặt tháng 8.
Các trung tâm dịch vụ Ý gặp áp lực lợi nhuận sụt giảm
Các trung tâm dịch vụ thép Ý (SSC) vẫn gặp áp lực do 5 tháng đầu năm nay nhu cầu tiêu thụ rất ít, đặc biệt là từ các nhà tiêu thụ cuối.
Khối lượng đơn hàng năm nay thấp hơn năm ngoái, các nguồn tin cho biết. Thêm vào đó, lợi nhuận giảm. Giá các nhà máy giảm liên tục khoảng 20-25 Euro/tấn trong 2 tháng qua, nhưng các SSCs phải giảm giá còn hơn thế nữa, từ 40-45 Euro/tấn. Điều này cho thấy các SSCs đang bị áp lực lợi nhuận.
Mặc dù với tiêu thụ thấp, tồn kho SSC vẫn giảm tỏng 3 tháng qua nên họ từng bước trở lại thị trường, và sẽ mua nhiều vào các tuần tới.
Lợi nhuận giảm vì các SSCs phải bán thấp hơn 30-35 Euro/tấn so với mức dự định trong khi các nhà máy bắt đầu giảm giá để kích cầu và trước áp lực hàng nhập khẩu sẽ còn gây sức ép cho các trung tâm dịch vụ hơn nữa.
Giá nội địa giảm do các nhà tiêu thụ cuối tiếp tục kháng cự bất cứ mức tăng nào từ các nhà phân phối, với các SSC không chấp nhận hết mức tăng các nhà máy thông báo trong Q1.
Giá tấm nhúng nóng từ các nhà máy Ý giảm nhiều nhất, tầm 10 Euro/tấn trên tuần xuống 620 Euro/tấn xuất xưởng do nguồn cung quá mức.
Giá CRC giảm 5 Euro/tấn xuống 615 Euro/tấn xuất xưởng do áp lực từ hàng nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ, với một số giá ở mức 620 Euro/tấn CIF cảng Ý, dựa vào tỷ giá Euro/USD là 1.18.
Giá HRC nội địa Ý ở mức 520-530 Euro/tấn xuất xưởng, giảm từ mức 550-560 Euro/tấn cách đây 4 tuần. Giá HRC giảm nhưng ít hơn HDG do nguồn cung thấp. Người mua tuần trước chào mua 520 Euro/tấn xuất xưởng và vài nhà máy giảm dưới mức này.
NSSMC tăng giá thép dẹt giao ngay thêm 45 USD/tấn từ tháng tới
Nhà máy tích hợp lớn nhất Nhật Bản, Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp. sẽ tăng giá thép dẹt nội địa thêm 5.000 Yên/tấn (45 USD/tấn) cho các lô hàng giao từ tháng 6 tới.
Phát ngôn viên nhà máy cho biết, giá tăng được áp dụng cho các mặt hàng cuộn và tấm mỏng gồm tấm và cuộn cán nóng và cán nguội đối với đơn hàng giao ngay và đơn hàng tới các nhà chế biến thứ cấp như thép ống.
NSSMC không công bố giá niêm yết nhưng giá thị trường hiện tại cho tấm cắt cán nóng 1,219 x 2,438 1.6mm ở Tokyo là 83.000-85.000 Yên/tấn (751-769 USD/tấn), không thay đổi so với tháng trước nhưng tăng 3.000 Yên/tấn so với tháng 1.
Phát ngôn viên nhà máy cho hay giá tăng do chi phí đầu vào và phí vận chuyển tăng.
Trong tháng 1, phía nhà máy tăng giá tấm mỏng thêm 3.000 Yên/tấn. Vài khách hàng vẫn chưa chấp nhận mức tăng trước đó nên phải tăng giá trở lại để có mức vừa phải, phát ngôn viên nhà máy cho hay.
Một thương nhân Tokyo cho biết, nguồn cung thép dẹt thắt chặt, hạn chế khả năng cung cấp đủ cho đơn hàng giao ngay khi mà tiêu thụ cũng mạnh từ các khách hàng hợp đồng dài hạn.
Phát ngôn viên nhà máy xác nhận phía công ty đã không chấp nhận 50% lượng đơn hàng giao ngay và sẽ tiếp tục ở Qúy tới.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng điều khoản thanh toán để kích cầu
Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng điều khoản thanh toán lên 90 ngày từ mức 45 ngày trước đó để kích cầu trong bối cảnh đồng Lira tiếp tục suy yếu và tiêu thụ trì trệ trong nước.
Sự mất giá của đồng Lira tiếp tục trong ngày hôm qua, giảm 4.5% so với USD so với ngày trước và giao dịch ở mức 4.87-4.88 Lira/USD. Đồng Lira đã giảm tổng cộng 20% so với USD kể từ thông báo cuộc bầu cử chóng vánh vào ngày 17/4 của Chính phủ nước này.
Đầu ngày, các nguồn tin dự báo sẽ có sự can thiệp mạnh từ phía ngân hàng trung ương nhằm ngăn chặn sự sụt giảm đồng tiền. Đến cuối ngày, phía ngân hàng tổ chức cuộc họp khác thường và tăng tỷ lệ thanh khoản thêm 300 điểm lên 16.50% từ mức 13.50%. Quyết định này được dự báo sẽ cản trở sự sụt giảm đồng Lira.
Cùng thời điểm, vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ mở rộng thời hạn thanh toán để kích cầu do thị trường bất động.
Fuat Tosyali, CEO của nhà máy hàng đầu Tosyali Holding xác nhận rằng việc mở rộng thời hạn thanh toán đầu tiên lên 60 ngày và sau đó lên 90 ngày sẽ giúp giảm áp lực bán hàng. Ông cho biết Nga và Ukraina đang tập trung nhiều hơn vào thị trường Thổ Nhĩ Kỳ sau các chống bán phá giá từ Mỹ và EU.
Trong khi đó, giá thép cây nội địa tiếp tục giảm thêm theo giá trị đồng dolla. Chào giá xuất khẩu ổn định mức 550-555 USD/tấn tùy vào khối lượng và nơi đến do các nhà máy cố gắng giữ lợi nhuận 200 USD/tấn so với giá phế.
Tuy nhiên, họ có thể phải chấp nhận giá chào mua 540 USD/tấn FOB từ khách hàng trong vài ngày tới. Trong khi đó, giá phôi thanh xuất khẩu và nội địa giảm thêm 5 USD/tấn xuống 525 USD/tấn trong khi giá nhập khẩu từ CIS cũng suy yếu mấy ngày qua.