Giá tấm mỏng Mỹ ổn định
Giá tấm mỏng Mỹ ổn định trong ngày hôm qua do các nhà máy cố gắng đẩy các thông báo tăng giá trước đó vào thị trường. Platts duy trì giá HRC và CRC Mỹ tại mức 610-625 USD/tấn và 790-800 USD/tấn.
Thị trường tương đối ổn định trong ngày thứ sáu do đã một tuần nữa trôi qua mà chưa có kết luận điều tra 232 của Chính phủ.
Có ít nhất 4 nhà máy thông báo tăng giá trong tuần trước và vài nhà máy khác vẫn chưa thông báo giá chính thức. Các nhà máy California Steel Industries, Nucor và ArcelorMittal USA thông báo tăng giá thêm 25 USD/tấn còn NLMK tăng giá thêm 40 USD/tấn.
Các nhà máy sẽ sẵn sang đàm phán giá cho các mặt hàng thông thường những sẽ giữ giá xuất xưởng cho các mặt hàng đặc biệt.
Giá gang thỏi Biển Đen cho thấy sự tiến triển chậm
Giá gang thỏi Biển Đen tiếp tục cho thấy xu hướng cải thiện dựa theo thị trường phôi thanh CIS và phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ. Song, mức tăng còn hạn chế.
Các nhà máy CIS tăng chào giá lô hàng giao tháng 9 thêm 10-15 USD/tấn tùy thuộc vào nhà máy. Một nhà máy Nga cho biết đã cố gắng thậm chí 30 USD/tấn cho thép tháng 8. Giá chào mới của nhà máy này là 400 USD/tấn CIF Ý, tương đương 380 USD/tấn FOB Biển Đen.
Giá chào từ Ukraina ở mức 365-370 USD/tấn CIF Ý/Thổ Nhĩ Kỳ, tăng 10 USD/tấn, tương đương 343-350 USD/tấn FOB Mariupol. Các lô hàng tới Ý giao dịch ở mức 355 USD/tấn CIF Marghera (330-335 USD/tấn FOB Mariupol/Biển Đen). Giá chào bán đã tăng lên 360 USD/tấn CIF Ý, tương đương 340 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov nhưng chưa có giao dịch. Thị trường Mỹ im ắng.
Platts tăng giá gang thỏi CIS hàng tuần thêm 2.5 USD/tấn lên 335 USD/tấn FOB Biển Đen. Giá nhập khẩu phế HMS tăng lên trên 305 USD/tấn CFR trong khi giá xuất khẩu phôi thanh CIS vẫn ổn định ở mức 432 USD/tấn FOB sau khi tăng gần đây.
Định giá phôi thanh CIS
Platts duy trì giá xuất khẩu phôi thanh CIS ở mức 432 USD/tấn FOB trong ngày thứ sáu tuần trước.
Chào giá cho lô hàng giao tháng 9 vượt mức 440 USD/tấn FOB Biển Đen. giá chào cao nhất là 450 USD/tấn FOB. Một thương nhân Trung Đông cho biết các khách hàng ở thị trường MENA chưa sẵn sàng trả hơn 430-435 USD/tấn FOB Biển Đen. Một thương nhân Ukraina nghe có đơn hàng từ CIS tới Indonesia ở mức 460 USD/tấn CIF, tương đương 430 USD/tấn FOB Biển Đen. Gía có thể cao hơn tùy vào chi phí vận chuyển. Gía có thể giao dịch tầm 445-450 USD/tấn CIF, tương đương 425-433 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, một nhà cán lại cho biết giá phôi thanh đang tăng do thiếu cung.
Platts vẫn duy trì giá bình ổn tại mức 432 USD/tấn FOB Biển Đen.
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Platts duy trì giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn tại mức 455 USD/tấn FOB (450-460 USD/tấn) trong ngày thứ sáu.
Các nguồn tin tiếp tục thảo luận về giá chào 470-475 USD/tấn FOB Mariupol/Izmir trọng lượng thực tế. Một nhà máy cho rằng thị trường đang mạnh hơn và người mua sẽ trả thêm.
Chưa có giao dịch tại mức này. Có đồn đoán cho rằng giá sẽ tăng nữa nhưng chưa được xác nhận.
Thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng trở lại do giá phế và phôi thanh tiếp tục tăng
Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thép cây và thép dây trong ngày thứ sáu tuần trước, dựa vào giá nhập khẩu phế tăng cũng như phôi thanh trong nước và nhập khẩu tăng mạnh.
Nhà máy Icdas tăng giá thép cây 12-32mm thêm 30 TRY/tấn (8.5 USD/tấn) lên 2.070 TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul và 2.040 TRY/tấn xuất xưởng cho Biga đã tính thuế.
Icdas cũng tăng giá thép cây 10mm lên 2.080 TRY/tấn xuất xưởng trong khi loại 8mm tăng lên 2.090 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul. Giá cho thép dây 7-8.5mm tăng cùng mức lên 2.150-2.180 TRY/tấn xuất xưởng đã tính thuế.
Giá niêm yết các nhà máy khác ở cùng mức trong khi họ tập trung vào các thị trường xuất khẩu thay thế trong mấy tháng gần đây để bù lại tiêu thụ suy yếu ở các thị trường xuất khẩu chính. Giá chào bán ổn định ở mức 470-480 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, một lô hàng 50.000 tấn đã được bán sang Đông Nam Á tại mức 445 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế tuần này từ một nhà máy lớn.
Các nhà máy cũng tăng giá chào phôi thanh theo thép cây dựa trên giá phế nhập khẩu tăng, đạt mức 310-315 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu và tiêu thụ thép dài cải thiện. Giá chốt gần nhất trong nước là 460 USD/tấn xuất xưởng.
Giá chào phôi thanh CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng lên 450 USD/tấn CFR trong mấy ngày gần dây. Tiêu thụ tại Ai Cập hỗ trợ giá chào phôi thanh CIS tăng.
Trong khi đó, giá chào thép cây từ các nhà môi giới tăng thêm trong ngày thứ sáu. Giá cho thép cây chào tại Iskenderun là 2.080-2.100 TRY/tấn đã tính thuế còn tại Istanbul giá ở mức cao hơn, 2.120-2.140 TRY/tấn.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây bắc Âu ở mức 490-495 Euro/tấn (570.95-576.77 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ sáu.
Hoạt động thị trường im ắng và phần lớn nghỉ lễ trong khi số còn lại chờ đợi trước khi chào bán cao hơn.
Các nhà máy Ý hiện chào bán HRC ở mức 480 Euro/tấn xuất xưởng và nhắm tới giá 500 Euro/tấn xuất xưởng trong tháng 9.
Các nhà máy Tây Âu đã tăng giá chào thêm 20-30 Euro/tấn nhưng một khách hàng Benelux cho rằng chưa ai chịu trả giá 500-520 Euro/tấn Ruhr.
Giá nhập khẩu tăng mạnh với sự trở lại mạnh mẽ của thị trường Châu Á. Giá chào từ Ấn Độ tăng lên mức cao 485 Euro/tấn CIF.
Thị trường tấm dày Châu Âu bước vào mùa trì trệ nhưng giá chào bán tăng
Thị trường tấm dày Châu Âu đón nhận vài chào giá từ các nhà máy do đã bước vào thời điểm trì trệ trong hè.
Trong khi sức mua hạn chế, tồn kho cao và tiêu thụ không có gì cải thiện thì một nhà cán lại Ý tăng chào giá thêm 50 Euro/tấn kể từ hôm nay (24/7) do phôi phiến tăng. Giá chào bán cho tấm S275 hoặc S235 tầm 560 Euro/tấn xuất xưởng.
Tại Tây bắc Âu, các nhà máy Đức vẫn chào bán ở mức 590 Euro/tấn xuất xưởng cho tấm S235 mặc dù người mua không chấp nhận. Hầu hết các nhà máy đang chuẩn bị cho mức tăng nhỏ để hướng ứng theo thị trường thép cuộn. Giá chào cho tấm S355 là 580-590 Euro/tấn tới Đức trong khi giá chào trong nước trên 600 Euro/tấn xuất xưởng.
Một nhà phân phối cho rằng tình hình có vẻ thuận lợi cho phía nhà máy hơn là các nhà phân phối vì tồn kho của họ vẫn cao còn sức mua trì trệ.
Platts tăng giá tấm S235 hàng tuần (15-40mm) thêm 5 Euro/tấn lên 572.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ sáu, đạt mức 565-580 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong khi giá nhập khẩu tăng 5 Euro/tấn lên 505-515 Euro/tấn CIF Antwerp.
Các nhà máy ống thép Hàn Quốc tăng giá thép tháng 7 và 8
Các nhà máy ống thép lớn Hàn Quốc gồm SeAH Steel and Husteel thông báo sẽ tăng giá ống thép dẫn nước mạ màu và mạ đen ERW từ tháng tới. Một nhà máy khác là Hyundai Steel cũng tăng giá kể từ 21/7.
Hyundai Steel dã đi trước hai nhà máy một bước trong ngày 14/7 khi thông báo tăng giá bằng cách đơn giản là giảm chiết khấu xuống 8% cho các đơn hàng từ 21/7. Đối với ống thép đen SPP100A thì sau khi giảm chiết khấu, giá sẽ tăng tương đương 110.000 Won/tấn (98.4 USD/tấn).
Hưởng ứng theo Hyundai, cả Husteel và SeAH Steel cũng thông báo tăng giá cho đơn hàng từ ngày 01/8.
Husteel tăng giá niêm yết thêm 7-10%, tương đương 50.000-60.000 Won/tấn (45-54 USD/tấn) cho ống đen SPP100A.
SeAH cũng tăng giá theo cách của Hyundai vằng cách giảm chiết khấu xuống 5%. Đối với ống thép đen SPP 100A, giá sẽ tăng tầm 70.000 Won/tấn (63 USD/tấn).
Nói về lý do tăng giá, các nhà máy cho rằng do chi phí đầu vào tăng, nhất là HRC. Các nhà máy cần bù lại chi phí sản xuất tăng nên phải tăng giá thép.
Giá từ các nhà phân phối cho ống thép đen SPP 100A hiện tại là 1./092.000 Won/tấn, cơ bản không đổi so với đầu tháng 6.
Theo dữ liệu công bố từ Hiệp hội thép Hàn, tổng sản lượng ống thép dẫn nước ERW trong 4 tháng đầu năm giảm 12.6% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 301.375 tấn.
Hesteel tăng giá thép cây trong nước
Tập đoàn Hesteel Group sẽ tăng giá thép cây thêm 110 NDT/tấn (16 USD/tấn) lên 3.810 NDT/tấn (565 USD/tấn) cho đơn hàng 10 ngày cuối tháng.
Giá áp dụng cho các sản phẩm thép cây sản xuất bởi các công ty con Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel và Chengde Iron & Steel bán tại Thiên Tân và Bắc Kinh đã tính thuế trọng lượng lý thuyết (xuất xưởng).
Giá niêm yết của nhà máy tương đương 3.928 NDT/tấn trọng lượng thực tế sau khi tiêu chuẩn hóa kỹ thuật theo định giá Platts.
Shagang tăng giá thép cây và thép dây
Tập đoàn Jiangsu Shagang Group thông báo sẽ tăng giá thép cây bán ra ngày 21-31/7 thêm 220 NDT/tấn (30 USD/tấn). Đây là lần tăng đầu tiên của nhà máy sau 3 lần giữ giá liên tục kể từ cuối tháng 6.
Shagang tăng giá thép cây HRB400 16-25mm lên 3.950 NDT/tấn (584 USD/tấn) đã tính thuế. Shagang cũng tăng giá thép dây HPB300 6.5mm thêm 250 NDT/tấn lên 3.840 NDT/tấn đã tính thuế.
Giá niêm yết thép cây mới của Shagang chạm mức cao nhất kể từ tháng 3/2013, cho thấy nỗ lực hỗ trợ thị trường giao ngay của nhà máy do thị trường thép cây giao ngay đã suy yếu trở lại từ thứ năm tuần trước sau khi giá giao kỳ hạn sụt giảm.
Thêm vào đó, động thái của Shagang cũng phản ánh sự tăng trưởng của thị trường giao ngay nửa cuối tháng 7.
Trong ngày thứ sáu, hợp đồng thép cây tháng 10 trên sàn SHFE chốt tăng 29 NDT/tấn, tầm 0.8% lên 3.525 NDT/tấn sau khi giảm mạnh 183 NDT/tấn, 5% so với thứ năm, mức giảm trên ngày mạnh nhất kể từ ngày 4/5.
Kyoei Steel tăng giá thép cây tháng 8
Kyoei Steel tăng giá thép cây tháng 8 thêm 2.000 Yên/tấn (18 USD/tấn). Mục đích tăng giá là để nâng giá thị trường lên mức trung bình và cải thiện lợi nhuận công ty, theo quan chức nhà máy cho hay.
Kyoei trước đó đã tăng giá tháng 4 thêm 3.000 Yên/tấn nhưng giữ giá kể từ sau đó. Một nhà phân phối cho hay giá thị trường thực tế vẫn không đổi kể từ tháng 4. Do đó, lần này không phải là tăng thêm mà chỉ là nỗ lực tăng giá để bù lại chi phí đầu vào tăng.
Một quan chức nhà máy cho biết giá phế dự báo sẽ neo đậu ở mức cao và các chi phí đầu vào như giá nguyên liệu phụ và phí vận chuyển tăng. Người mua đang hỏi giá nhiều hơn nên nhà máy sẽ ưu tiên giá cả và chấp nhận đơn hàng giá tốt nhất.
Kyoei không tiết lộ giá niêm yết nhưng giá thị trường hiện tại cho thép cây cỡ cơ bản là 56.000-57.000 Yên/tấn (496-509 USD/tấn), giảm 1.000 Yên/tấn so với tháng trước trong khi giá ở Osaka là 53.000-54.000 Yên/tấn, ổn định.
Tiêu thụ thép cây dường như sẽ tăng sau hè nhưng do kế hoạch bảo dưỡng nhà xưởng nên cán cân cung-cầu thắt chặt. Điều kiện thị trường sẽ hậu thuẫn giá.
Kyoei dự định ngưng sản xuất 10-12 ngày trong tháng 7, 8 và 9 tại xưởng Nagoya ở trung Nhật và tại các xưởng ở Yamaguchi và Hirakata plants Tây Nhật. Thời gian bảo dưỡng tương tự các năm trước. Sản lượng sụt giảm tầm 20% so với trung bình sản lượng các tháng trước.
Thị trường phôi thanh Đông Á tăng trưởng dù giá thép giao kỳ hạn Trung Quốc suy yếu
Giá phôi thanh nhập khẩu Đông Á tiếp tục tăng dựa trên tâm lý thị trường cải thiện trong tuần qua. Trong ngày thứ sáu, thị trường quan sát thận trọng để xem xu hướng suy yếu của giá thép giao kỳ hạn Trung Quốc có ảnh hưởng tới giá phôi thanh không.
Các giao dịch phôi thanh Việt Nam chốt ở mức 465 USD/tấn CFR Manila. Giá chào phôi thanh đã tăng lên 470-475 USD/tấn CFR. Các thương nhân cho biết người mua chưa chấp nhận giá mới. Mức 465 USD/tấn CFR là giá vừa phải và chưa ai trả thêm sau kh giá giao kỳ hạn suy yếu 2 ngày trước.
Giá chào phôi thanh Q275 Trung Đông giao tháng 8 ở mức 467 USD/tấn CFR Manila, cạnh tranh so với giá cao từ Việt Nam.
Các thị trường khác khá im ắng. Tại Indonesia, giá chào phôi thanh 150mm Trung Quốc ở mức 470 USD/tấn CFR Jakartta. Thị trường Indonesia im ắng do giá thép thành phẩm thấp. Một nguồn tin khác nghe về đơn hàng ở mức 460 USD/tấn CFR và tin rằng do người mua đang rất cần nguyên liệu.
Các thương nhân không đồng nhất quan điểm khi bàn về ảnh hưởng của giá thép giao kỳ hạn sụt giảm tới hoạt động giao dịch phôi thanh. Một thương nhân Thái Lan lưu ý rằng giá đã không giảm nhiều. Ông cho biết mức giảm nhỏ này là hợp lý sau khi giá tăng tới 5 tháng nên không cần phải lo. Nguồn cung cũng chặt sau khi đóng cửa các lò cảm ứng và tâm lý thị trường tốt.
Platts tăng giá phôi thanh 120/1330mm nhập khẩu vào Đông Á lên 465 USD/tấn CFR Đông Á từ mức 455-460 USD/tấn CFR tuần trước đó.
Trong khi đó, giá phôi thanh Đường Sơn giảm 20 NDT/tấn (3 USD/tấn) còn 3.440 NDT/tấn (509 USD/tấn) trong ngày thứ sáu. Giá giảm nhẹ 10 NDT/tấn vào thứ năm nhưng vẫn tăng 40 NDT/tấn trên tuần.
Các nhà máy trước đó đã tăng giá niêm yết phôi thanh lên 3.470 NDT/tấn vào thứ hai tuần trước đó (17/7), mức cao nhất 5 năm. Giá giảm lại vào thứ năm và thứ sáu do giá thép giao kỳ hạn suy yếu.
Giá HRC Trung Quốc suy yếu do tiêu thụ trì trệ
Giá HRC Trung Quốc sụt giảm vào thứ sáu tuần trước do thiếu đơn hàng. Giá giao kỳ hạn biến động trong ngày khiến người mua hoang mang, chờ đợi xu hướng giá rõ ràng hơn.
Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm Thượng Hải xuống 20 NDT/tấn so với thứ năm, còn 3.720-3.740 NDT/tấn (550-553 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế.
Các thương nhân Thượng Hải nghĩ rằng giá thép cuộn thương phẩm đã tăng quá nhanh và quá cao trong tháng qua nên sự điều chỉnh giảm này là xu hướng tự nhiên. Các nhà tiêu thụ cuối phần lớn đang chờ đợi tình hình thị trường rõ ràng hơn.
HRC Châu Á ổn định do tâm lý thị trường thận trọng
Giá HRC Châu Á ổn định ngày thứ hai liên tiếp tính tới thứ sáu tuần qua do cả hai bên đều thận trọng và chưa sẵn sàng giao dịch trong bối cảnh giá kỳ hạn tăng không rõ ràng.
Platts giữ nguyên giá chào xuất khẩu HRC SS400 3mm Trung Quốc tại mức 500-505 USD/tấn FOB Trung Quốc. Gía nhập khẩu vào Đông Á nhích 11 USD/tấn so với tuần trước đó lên 510-515 USD/tấn CFR Đông Á.
Các nhà máy Trung Quốc giữ giá chào ở mức 515-530 USD/tấn FOB dù giá trong nước giảm. Họ không cần giảm giá chào vì người mua cũng sẽ không đặt hàng khi chưa chắc xu hướng giá.
Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giảm 20 NDT/tấn còn 3.720-3.740 NDT/tấn (550-553 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế.
Một nhà máy Trung Quốc cho biết sẽ không giảm giá chào xuất khẩu vì giá trong nước vẫn cao hơn 510 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, vài thương nhân có sẵn hàng trong tay muốn bán hàng sớm nên chỉ chào 515-520 USD/tấn CFR Việt Nam (phí giao hàng 10 USD/tấn cho thép cuộn SAE). Dù vậy, giá dự thầu cao nhất chỉ 510 USD/tấn CFR.
Hầu hết người bán đều im lắng và từ chối chào giá do muốn xem xét xu hướng thị trường. Giá chào từ Đài Loan và Nhật Bản là 525-530 USD/tấn CFR Việt Nam và 565-570 USD/tấn CFR Tây Nam Á cho thép SAE.
Bản tin than đá tuần: Thị trường Châu Á tăng trưởng nhờ lợi nhuận sản xuất thép cao tại Trung Quốc
Giá than đá Châu Á-Thái Bình Dương tăng nhanh nhờ lợi nhuận sản xuất thép cao tại Trung Quốc trong tuần qua. Platts tăng giá than đá chất lượng cao xuất khẩu Úc thêm 9 USD/tấn, đạt mức 175 USD/tấn hôm thứ sáu trong khi giá giao tới Trung Quốc tăng tới 10.5 USD/tấn lên 178.50 USD/tấn CFR.
Tiêu thụ từ Trung Quốc được dẫn dắt bởi các yếu tố: lợi nhuận thép ròng tốt, giá than đá nội địa tăng và người mua tích trữ hàng trở lại. Nguồn cung than đá chất lượng cao thắt chặt và khả năng gián đoạn nguồn cung ở các mỏ khoáng sản ở Queensland sẽ giúp đẩy giá than cấp 1 tăng nữa.
Trong khi tâm lý thị trường lạc quan ở Trung Quốc, tiêu thụ ngoài nước lại suy yếu do các khách hàng Ấn Độ và thị trường Nhật Bản-Hàn Quốc-Đài Loan đã mua quá nhiều than trước đó do bão Debbie.
Ấn Độ do đang trả qua thời kỳ thanh khoản thắt chặt và mùa mưa nên thu mua ít than đá. Chênh lệch giữa than cấp 1 và cấp 2 mở rộng, với tiêu thụ than cấp 2 tăng.
Trong khi đó, thị trường phun than bột lò cao PCI tăng trưởng do vài người mua có thể sử dụng than PCI để trộn than thay vì phun bột than.
Tại phân khúc mềm, các nguồn tin cho biết nguồn cung có phần hạn chế do người bán chào bán than đá như thannhiệt lượng cao dựa vào giá đang tăng.
Bản tin quặng tuần: Giá giao ngay tăng, hậu thuẫn bởi giá thép
Giá quặng nhập khẩu vào Trung Quốc đã vượt mức 70 USD/tấn tuần qua nhờ tâm lý thị trường thép cải thiện trước khi giảm trở lại vào ngày thứ sáu. Giá quặng cám IODEX chứa 62% sắt theo Platts ở mức 67.95 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc trong ngày thứ sáu, giảm 0.20 USD/tấn so với thứ năm nhưng tăng 2.6 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá thép tăng và thị trường phái sinh hỗ trợ giá giao dịch tăng, dẫn tới giá tăng 3 ngày liên tục từ thứ hai tới thứ 4 trong tuần qua. Tuy nhiên, do giá tăng mạnh nên người mua thận trọng và hoài nghi về tính bền vững của giá.
Quan điểm thị trường chia tách về triển vọng giá quặng. Trong khi vài người tin rằng có lực hỗ trợ giá lúc này từ lợi nhuận thép cao thì số khác cho rằng giá giảm do nguồn cung quá mức từ hàng chưa cập bến và tại cảng Trung Quốc.
Giá phôi thanh Đường Sơn giảm 20 NDT/tấn so với ngày trước đó, còn 3.440 NDT/tấn (510.27 USD/tấn) xuất xưởng Đường Sơn hôm thứ năm.
Trong khi đó, lợi nhuận sản xuất thép tốt và các quy định môi trường nghiêm khắc tiếp tục hỗ trợ giá quặng cục dù tốc độ tăng chậm.
Vài nhà tiêu thụ cuối hiện đang xem xét quặng cục là nguồn nguyên liệu đắt đỏ và giá than đá và than cốc tăng dẫn tới vài nhà máy quyết định giảm gánh nặng sử dụng quặng cục trong các lò cao của họ.
Plats tăng chênh lệch giá quặng cục giao ngay với quặng cám thêm 0.0025 USD/tấn trong ngày thứ tư tuần trước, đạt mức 0.221 USD/tấn.
Thép cuộn CIS chạm ngưỡng trần mới nhờ tiêu thụ cải thiện
Giá chào HRC CIS ở mức 515 USD/tấn còn CRC tăng lên mức cao 560 USD/tấn FOB Biển Đen. Chào giá phôi phiến cũng tăng vừa phải lên 410 USD/tấn nhưng mức tối đa các nhà máy có thể bán là 410-415 USD/tấn FOB Biển Đen.
Thị trường chưa sẵn sàng chấp nhận giá mới. Người mua thừa nhận có thể có lý do tốt đằng sau mức tăng này nhưng họ chưa thể trả cao như vậy. Vài khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ được nghe đã chấp nhận giá 500-505 USD/tấn CFR cho HRC CIS (tương đương 480-490 USD/tấn FOB Biển Đen) cho thép sản xuất tháng 9 giao tháng 10. Đây là giá giao dịch cao nhất.
Nhiều người mua đã nghỉ lễ và rút khỏi thị trường. Chỉ khi họ cần hàng thật sự thì mới trả tối đa 520 USD/tấn CFR, tương đương 490 USD/tấn FOB Biển Đen.
Nhiều nguồn tin cho biết giá vẫn tăng là do 2 yếu tố: tiêu thụ tăng tại Trung Quốc và Nga, cộng với xu hướng cải thiện của thị trường toàn cầu, nên dự báo giá tiếp tục tăng. Tuy nhiên, một nguồn tin cho rằng những thị trường khác không đủ mạnh để duy trì xu hướng tăng này cho tới cuối năm.
Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố dẫn dắt giá từ giờ cho tới tháng 9 như điều tra 232 của mỹ, các chống bán phá giá cho HRC nhập khẩu từ EU, và Ấn Độ có thể mở rộng xuất khẩu.
Platts tăng giá HRC CIS lên 480-490 USD/tấn FOB Biển Đen vào cuối tuần qua, tăng 10 USD/tấn so với ngày trước đó còn CRC nhích 5 USD/tấn lên 525-530 USD/tấn FOB. Giá phôi phiến CIS tăng 5 USD/tấn so với tuần trước đó lên 410-415 USD/tấn FOB Biển Đen.
Ấn Độ xuất khẩu lô hàng thép cây đầu tiên sang Hồng Kông, giá Châu Á bình ổn
Thị trường thép cây Châu Á ổn định cuối tuần qua. Giá chào bán vẫn cao với vài nhà máy duy trì giá chào không đổi trong khi số khác tăng giá. Các khách hàng Hồng Kông đã chuyển sang mua thép cây Ấn Độ vì giá chào rẻ nhất trên thị trường. Platts duy trì giá thép cây xuất khẩu BS500 16-20mm Trung Quốc tại mức 483-485 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Tại Hồng Kông, một đơn hàng 20.000 tấn thép cây Ấn Độ được chốt tuần qua ở mức 80-485 USD/tấn CFR giao tháng 9 từ một nhà máy lớn. Đây là lô hàng thép cây Ấn Độ đầu tiên được bán sang Hồng Kông. Chào giá cho thép cây Ấn tăng lên 490-495 USD/tấn CFR cho các kích cỡ tiêu chuẩn khác nhau trong ngày thứ sáu. Một nhà môi giới cho biết sẽ xem xét thép cây Ấn Độ sau khi lô hàng đầu tiên cập bến và có được phản hồi từ các nhà tiêu thụ cuối.
Giá chào thấp nhất từ một nhà máy Trung Quốc là 495-500 USD/tấn CFR, tương đương 486-490 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 10 USD/tấn. Một nhà máy cho biết thị tường có thể chấm dứt đà tăng giá sau các đơn hàng chốt giá thấp gần đây.
Cùng thời điểm, một thương nhân phía đông nghe có giá chào tăng 10 USD/tấn trong ngày thứ 6, ở mức 510 USD/tấn cho lô hàng giao tháng 9. Điều này cho thấy giá niêm yết của các nhà máy tăng thêm 220 NDT/tấn (33 USD/tấn) còn giá giao ngay ổn định ở miền đông Trung Quốc.
Tuy nhiên, người mua dừng lại để quan sát xem giá giao kỳ hạn và giao ngay có ổn định hay không trước khi quyết định thu mua tiếp.
Tại Singapore, giá chào bán ổn định ở mức 490 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết từ một thương nhân Trung Quốc và 508-525 USD/tấn CFR từ các nhà máy.