Giá chào xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng dù thị trường chậm chạp
Các nhà xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá chào bán lên trên mức 540 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày thứ hai, một động thái khiến mọi người bất ngờ khi mà tiêu thụ đang suy yếu cả trong và ngoài nước.
Theo một người mua, vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nhận đơn hàng dưới 540 USD/tấn FOB tuần trước, cho phép họ có thời gian thử nghiệm giá mới.
Tâm lý thị trường bi quan trong khi giá phế giảm nên đà tăng giá thép cây chỉ ngắn hạn, một người mua nhận định. Tuy nhiên, một thương nhân cho hay giá tối thiểu là 540 USD/tấn FOB thực tế. Một thương nhân khác cho rằng giá có thể tăng lên ít nhất 545 USD/tấn FOB.
Chào giá được nghe vào hôm qua bắt đầu từ mức 540 USD/tấn FOB. Một nhà máy Marmara tìm kiếm giá 550 USD/tấn FOB. Các nhà máy tăng giá sau thông báo thuế tự vệ từ EU tuần trước, dường như để thúc đẩy giá tăng từ các nhà mội địa EU.
Tác động thực sự trên thị trường thép cây có thể bị trì hoãn do vào mùa tiêu thụ chậm chạp trong những tuần tới.
Một thương nhân Istanbul cho rằng các nhà máy tăng giá vì đã bán ít tuần qua, nhất là thép dây. Tuần trước, thép cây vẫn dưới mức 540 USD/tấn FOB do vài nhà máy nôn nóng bán hàng, chậm chí trước khi EU thông báo các biện pháp tự vệ.
Đồng Lira tăng nhẹ so với dolla giúp thị trường lạc quan hơn.
Thị trường HDG Thổ Nhĩ Kỳ bị chiếm lĩnh bởi các chào giá thấp
Với cắt giảm gần đây, giá chào bán HDG Thổ Nhĩ Kỳ giảm tới 60 USD/tấn kể từ tuần đầu tháng 7 trong bối cảnh các nhà máy tung ra chiến lược giá cạnh tranh trong bối cảnh tiêu thụ nội địa và xuất khẩu vẫn chậm chạp.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu chào bán DX51D phủ 70-100 g kẽm/m2 0.50mm ở mức 740-760 USD/tấn tới cả thị trường nội địa và xuất khẩu trong ngày thứ hai, trong khi giá chào cùng loại từ một nhà máy thép mạ mới chỉ ở mức 720-730 USD/tấn tùy khối lượng.
Tiêu thụ vẫn chậm cả trong nước và xuất khẩu. Giá cạnh tranh từ một nhà máy mới gây áp lực cho tâm lý thị trường và tăng áp lực lên giá.
Tiêu thụ tại EU sẽ dần phục hồi trong những tuần tới, có thể trợ giá trong ngắn hạn. Dù vài đối thủ như Ấn Độ và Việt Nam đang tích cực hoạt động ở thị trường EU thì các nhà máy Thổ Nhĩ kỳ có vài điều kiện thuận lợi.
Dù giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong mấy tuần gần đây, các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng giữ giá niêm yết trên mức 600 USD/tấn xuất xưởng dù vài đơn hàng HRC xuất khẩu chốt mức 580-590 USD/tấn FOB trong tuần trước. Các nhà máy HRC Thổ Nhĩ Kỳ dự báo tiêu thụ từ EU mạnh trong những tuần tới dù vài nguồn tin không nghĩ rằng tiêu thụ từ EU vẫn mạnh trong hè.
Cuộc họp của các nhà máy thép dẹt, các nhà nhập khẩu và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ được lên kế hoạch vào thứ năm tuần này. Các thành viên thị trường đang thảo luận về quyết định của EC trong việc áp dụng các biện pháp tự vệ cho 23 loại thép nhập khẩu, và sẽ quyết định chiến lược.
Xuất khẩu thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tới Mỹ giảm do thuế quan
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ chỉ xuất khẩu 2.000 tấn thép dây tới Mỹ trong tháng 1-tháng 5, giảm nhiều so với mức 68.000 tấn cùng kỳ năm ngoái do tác động của chính sách thuế 232.
Theo thống kê của Viện thống kê Thổ Nhĩ Kỳ, Israel là nhà nhập khẩu thép dây lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ trong 5 tháng đầu năm với 135.030 tấn, tăng 20.5% so với năm ngoái trong khi xuất khẩu thép dây tới Trung Đông vẫn thấp trong cùng giai đoạn.
Các lô hàng thép dây Thổ Nhĩ Kỳ tới các thị trường Châu Âu vẫn mạnh trong tháng 5. Bỉ trở thành nhà nhập khẩu lớn thứ hai trong giai đoạn này với 161.400 tấn còn sản lượng tới Hà Lan đạt 75.000 tấn. Ý đã mua 42.320 tấn trong 5 tháng đầu năm còn xuất khẩu tới Tây Ban Nha đạt tổng cộng 42.250 tấn.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ xuất khẩu 50.690 tấn thép dây tới Romania trong cùng giai đoạn trong khi Singapore trở thành nhà nhập khẩu lớn nhất, với 20.000 tấn thép dây Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong khi đó, giá chào thép dây xuất khẩu và nội địa của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tương đối ổn định mấy ngày nay, sau khi giảm các tuần trước trong bối cảnh giá phế nhập khẩu giảm và tiêu thụ thấp.
Giá niêm yết thép dây nội địa ở mức 590-600 USD/tấn xuất xưởng tùy vào khu vực, trong khi giá chốt các giao dịch xuất khẩu mới nhất ở mức 585 USD/tấn FOB.
Hoạt động thị trường HRC Mỹ khan hiếm do các nhà máy bình ổn giá chào bán
Hoạt động thị trường HRC Mỹ hạn chế do các nhà máy giữ ổn định giá chào bán dù giá giao dịch giảm 10 ngày qua.
Một nhà máy cho hay thị trường đang u ám. Giá HRC tầm 900-910 USD/tấn nhưng CRC và HDG thì biên độ giá rộng hơn. Tùy vào nhà máy đang cạnh tranh đơn hàng, giá dao động từ 990-1.030 USD/tấn.
Thị trường khá ổn định ngoại trừ vài giao dịch không lặp lại đối với các khách hàng mua đơn hàng lớn. Các nhà máy vẫn chào bán mức 920 USD/tấn cho HRC và 1.010-1.030 USD/tấn cho CRC và HDG.
Giá chào nhập khẩu HRC chênh lệch lớn với giá nội địa, nhưng giá chào CRC và HDG không khác nhiều so với giá nội địa.
Một nhà máy mini Midwest giảm nhẹ giá chào bán HRC. Họ sẵn sàng chào bán 905 US/tấn. Tuy nhiên, một nhà máy mini Midwest tiếp tục giữ giá chào ở mức 920-930 USD/tấn.
Không có giá chào thép mạ nào dưới 1.000 USD/tấn. Một trung tâm dịch vụ đặt hàng tại mức 1.020 USD/tấn.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc bình ổn trong bối cảnh giá nội địa tăng trưởng
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định trong ngày thứ hai do cả người bán và mua đều giữ ổn định giá chào trong bối cảnh giá nội địa tăng trưởng.
Một nhà máy ở miền đông giữ giá chào ở mức 545 USD/tấn FOB Trung Quốc lý thuyết, không đổi so với thứ sáu. Một nhà máy thứ hai vẫn giữ giá chào ở mức 550 USD/tấn FOB, không đổi.
Tại Singapore, một nhà máy Trung Quốc cho hay sẵn sàng bán mức 560 USD/tấn CFR lý thuyết, tầm giá bán tuần trước nếu đơn hàng lớn. Giá này tương đương 557 USD/tấn thực tế với phí vận chuyển 20 USD/tấn và chênh lệch khối lượng 3%.
Một nhà chế tạo thép Singapore cho biết một nhà máy Trung Quốc sẵn sàng bán mức 555 USD/tân CFR Singapore, nhưng một thương nhân Hàng Châu và một nhà máy Trung Quốc không đồng tình, cho rằng giá này quá thấp. Một nhà máy cho hay các khách hàng nội địa có thể nhận được giá 555 USD/tấn CFR bằng việc mua một lô hàng giao ngay tại cảng từ một thương nhân.
Vài chào giá ở Hồng Kông. Các thương nhân có thể chờ tới thời điểm tốt hơn để chào bán do giá mua từ các khách hàng nội địa vẫn ở mức 550-555 USD/tấn CFR thực tế, thấp hơn mức người bán có thể chấp nhận.
Một nhà môi giới khác cho hay người bán không chấp nhận giá chào mua 550 USD/tấn CFR của ông cho thép cây Qatari, và giá chào mua tầm 560 USD/tấn CFR cho thép cây Trung Quốc, tương đương 547 USD/tấn FOB thực tế.
Một nhà máy phía đông bắc đang tìm kiếm giá chào mua ở Hồng Kông,và nhà máy này có thể đang tìm cách bán hàng.
Cùng thời điểm, giá giao ngay thép cây HRB400 18-25mm Bắc Kinh tăng 5 NDT/tấn lên 4.155 NDT/tấn (615 USD/tấn) xuất xưởng thực tế có thuế.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tăng 26 NDT/tấn (0.7%) lên 4.011 NDT/tấn, mức cao 4 tháng rưỡi.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định dù giá giao kỳ hạn tăng nhẹ
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc vẫn ổn định từ đầu tuần dù giá giao kỳ hạn tăng nhẹ.
Shagang, một nhà máy lớn đã giữ nguyên giá chào bán tuần cho thép cuộn thương phẩm ở mức 585 USD/tấn FOB giao cuối tháng 8 tới tháng 9. Chào giá cho nguyên liệu các nhà máy Trung Quốc ở mức 580-590 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Đối với giá CFR, giá chào thép cuộn thương phẩm ở mức 598 USD/tấn CFR Pakistan, giá tấm cùng loại được chào ở mức 592-595 USD/tấn CFR Việt Nam. Một chào mua được nghe ở mức 588 USD/tấn CFR Việt Nam cho tấm cán nóng trong ngày thứ hai.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ từ các thị trường tiêu thụ vẫn thấp trong ngày thứ hai. Một thương nhân ở Pakistan cho hay đây không phải là thời gian tốt để chấp nhận rủi ro do các khách hàng Pakistan không quan tâm thu mua. Mưa tại Việt Nam cũng làm chậm nhu cầu tiêu thụ nhập khẩu.
Hai giao dịch được chốt tuần trước cho thép cuộn SPHT ở mức 580 USD/tấn FOB giao tháng 9. Một giao dịch tấm cán nóng 10.000 tấn chốt trong ngày thứ sáu ở mức 595 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 9.
Đối với thép cuộn SAE, giá có thể giao dịch cho thép cuộn cán lại ước tính mức 590 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tăng 20 NDT/tấn lên 4.250-4.270 NDT/tấn (626-629 USD/tấn) xuất xưởng có thuế. Trên sàn kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt tăng 19 NDT/tấn lên 4.080 NDT/tấn.