Giá quặng sụt giảm do nhu cầu trầm lắng hơn
Giá quặng sắt giao ngay hầu như giảm trong cả tuần trước, do sức ép từ giá giao sau suy yếu và một thị trường thép trầm lắng hơn.
S&P Global Platts 62% Fe IODEX kết thúc tuần trước ở mức 56,65 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 2,3 USD/dmt so với tuần trước. Giá tham khảo 62% Fe của The Steel Index bắt đầu tuần trước là 56,2 USD/dmt CFR Thiên Tân và cuối tuần thấp hơn một chút còn 55,7 USD/dmt.
Giá thép đang ngăn cản người mua cam kết mua giao ngay. Giá giao ngay cho phôi vuông ở Đường Sơn tính đến ngày thứ Ba tuần trước đã chạm mức thấp 1.980 NDT/tấn, trước khi chốt tại 2.000 NDT/tấn vào thứ Sáu. Do đó, người mua đã rút lui ra ngoài lề vì họ đợi xu hướng giá quặng.
“Có một số nhu cầu cơ bản cho quặng sắt nhưng người mua đang đợi giá suy yếu hơn trước khi có động thái mua vào”, một thương nhân ở Thượng Hải nói.
Nhu cầu bị dồn nén đã thổi bùng lên trong phút chốc ngắn ngủi hôm thứ Năm khi các nhà máy quay sang tích trữ hàng nhưng nhu cầu nhanh chóng bị dập tắt chỉ ngày sau đó trong bối cảnh giá giao sau giảm.
Nguồn cung dư thừa tại cảng cũng làm hạn chế sự gia tăng của giá quặng sắt.
Tuy nhiên, nhu cầu cho quặng cục tiếp tục mạnh lên, nhất là khi lợi nhuận tương đối cao và các nhà máy tăng sản lượng. sự hạn chế trong việc thiêu kết ở Đường Sơn để cắt giảm sản lượng từ các lò thiêu kết xuống 50% từ ngày 12/7 và ngưng hoàn toàn từ ngày 25-31/7- cũng đã hỗ trợ cho quặng cục. Platts định giá quặng cục chất lượng cao tăng 0,0015 USD/dmtu so với tuần trước đó lên 0,1745 USD/dmtu hôm thứ Tư.
Việt Nam: Các nhà kinh doanh tìm nguồn cung ứng mới cho phôi thép
Các thương nhân đang rà soát danh sách các nước không bị áp thuế tự vệ cho phôi thép vào Việt Nam sau khi có quyết định cuối cùng được thông báo hôm thứ Hai, nhằm tìm kiếm cơ hội giao dịch xuất khẩu mới.
Mức thuế tự vệ hiện nay cho phôi thép là 23.3% và sẽ được áp dụng cho tới ngày 21/3/2017- sau ngày này, mức thuế sẽ giảm 2 điểm phần trăm hàng năm xuống 21,3% từ ngày 22/3/2017-21/3/2018, và sau đó là 19.3% và 17.3% cho tới ngày 21/3/2020.
Các nhà máy trong nước nói rằng giá bán cho phôi thép đã tăng nhẹ lên khoảng 8,4 triệu đồng/tấn (377 USD/tấn) giao hàng hay xuất xưởng còn tùy vào từng nhà máy. “Không ai để ý nhiều đến các biện pháp tự vệ cuối cùng”, một thương nhân ở TP.HCM nói. Nguyên nhân là do biện pháp sơ bộ cũng đã được áp dụng kể từ tháng 3.
“Giá phôi thép đã tăng một chút chứ không nhiều”, giám đốc nhà máy cho biết. Ông nói rằng giá ở miền bắc cũng tầm 8,4 triệu đồng/tấn và tiêu thụ phôi thép tạm thời bị trì trệ bởi mùa mưa.
Trong số các nước không bị áp thuế tự vệ là khối Asean gồm có Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan- cộng thêm Ấn Độ, Iran, Brazil, Kazakhstan, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine.
Các thương nhân đã bàn luận khả năng về việc thay thế phôi thanh xuất xứ Trung Quốc sang nguồn gốc Asean bởi vì thuế nhập khẩu cho phôi từ các nước Asean là 3% và 5% tùy vào hàm lượng cacbon. Ngược lại, thuế nhập khẩu cho các nước như Ấn Độ là 10%, khiến cho phôi từ những nước này mất tính cạnh tranh.
Một thương nhân người Thái cho biết hai đơn hàng phôi thép được thực hiện tới Việt Nam trong năm nay khoảng 50.000-60.000 tấn giao tháng 6 và 7. Ông ước tính giá phôi Thái Lan hiện đang phổ biến khoảng 335-340 USD/tấn FOB.
“Vấn đề chủ chốt hiện nay là xưởng phế trong nước chỉ đang phục vụ cho các nhà máy dựa theo nhu cầu cơ bản, đáp ứng yêu cầu tối thiểu của họ. Nếu họ cần khối lượng lớn hơn thì cần phải trả với giá cao hơn cho các xưởng nguyên liệu hoặc là nhập khẩu phế.
Tại Việt Nam, một thương nhân nghe nói phôi 5sp/PS của Malaysia được chào giá 365 USD/tấn CFR, nhưng một người khác nghĩ phôi của Malaysia cao hơn 10 USD/tấn.
Một thương nhân Manila cho biết Philippines không thể xuất khẩu phôi thép sang Việt Nam bởi vì đây là một nhà nhập khẩu ròng.
Phôi thép Trung Quốc chiếm khoảng 70% tổng phôi thép nhập khẩu của Việt Nam với tầm 1,8 triệu tấn trong năm ngoái, trong khi phôi thép Nhật Bản chiếm 29%.
Giá CRC không gỉ Châu Á phục hồi do niken tăng liên tục
Giá thép không gỉ Đông Á phục hồi trong tuần trước khi thị trường niken vẫn có xu hướng cao hơn. Giá CRC không gỉ loại 304 2mm 2B từ Đài Loan và Hàn Quốc tuần trước đã tăng 45 USD/tấn lên 1.850-1.880 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á.
Giá niken tiếp tục tăng trong tuần trước lên hơn 10.000 USD/tấn, điều này đã khiến cho người mua thép không gỉ do dự hơn để giảm chào giá vì triển vọng tiêu cực của giá niken. Do đó, chỉ có chiết khấu hạn chế từ các nhà máy Đài Loan với chào giá 1.900 USD/tấn CFR.
Trong khi đó, chào giá từ Hàn Quốc vẫn ở mức 1.930 USD/tấn CFR, mức giá cao này đã thu hút ít sự quan tâm từ phía người mua. Nhưng khách hàng vẫn có thể mua được thép giao ngay từ các khu vực ngoại quan nằm ở tỉnh Quảng Đông với khoảng 1.850 USD/tấn, vì thị trường Trung Quốc chỉ tăng nhẹ trong suốt tuần trước.
Tại thị trường Trung Quốc, thị trường được quan sát chặt chẽ bởi các nhà sản xuất trong khu vực- chào giá xuất khẩu cũng tăng nhẹ do giá niken cao hơn mặc dù thị trường nước ngoài trầm lắng.
Do đó, các thương nhân chào giá trên 1.750 USD/tấn FOB cho 304 2mm 2B CRC được sản xuất từ các nhà máy hàng đầu trong nước. Giá có thể sẽ tăng cao hơn nữa trong ngắn hạn cùng với xu hướng trên thị trường nội địa, nơi giá đang được hỗ trợ bởi việc giao hàng chậm hơn từ các nhà sản xuất vì mưa lớn.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt tại 10.660-10.665 USD/tấn hôm 21/7, tăng 298 USD/tấn so với tuần trước đó và hơn 1.000 USD/tấn kể từ đầu tháng này.
Hegang giảm giá niêm yết 10 ngày cuối tháng 7
Nhà sản xuất thép lớn nhất miền bắc Trung Quốc, Hebei Iron & Steel (Hegang), thông báo cuối ngày thứ Năm rằng sẽ giảm hầu hết giá niêm yết trong nước cho thép cây tới 75 NDT/tấn (11 USD/tấn).
Đối với thép cây loại Platts định giá, mức giảm nằm trong khoảng 40-60 NDT/tấn (6-9 USD/tấn). Nhưng Hegang cũng đã nâng giá niêm yết cho một vài loại thép cây lên 15 NDT/tấn (2 USD/tấn).
Giá cho các sản phẩm được sản xuất bởi Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel (Xuangang) và Chengde Iron & Steel (Chenggang) để bán ra ở khu vực Bắc Kinh và Thiên Tân là xuất xưởng trọng lượng lý thuyết, gồm VAT.
Các thương nhân đã nâng chào giá hôm thứ Năm vì tin đồn thị trường làm cảnh báo họ rằng mức giá sàn tháng 7 mà Hegang đang xem xét. Thế nhưng, giao dịch chậm chạp cùng với giá giao sau suy yếu một lần nữa đã kéo giá thị trường giao ngay đi xuống hôm thứ Sáu.
Hôm 22/7, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 2.435-2.445 NDT/tấn (365-367 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, giảm 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) so với ngày trước đó.
Trong khi đó, tồn kho thép cây ở Bắc Kinh tăng trong suốt giữa tháng 7, vì giữa tháng thường là thời gian giao hàng nhiều nhất từ các nhà máy.
Theo Mysteel, thép cây tồn kho tại Bắc Kinh tính tới ngày 22/7 đã tăng 26.700 tấn tức 14% so với tuần trước đó lên 218.100 tấn. Trong khi đó, tồn kho thép cây trên cả nước đã tăng 4,8% so với tuần trước đó còn 3,8 triệu tấn, nhưng giảm 35% so với 2015.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn Shanghai Futures Exchange đã giảm 86 NDT/tấn tức 3,6% chốt tại 2.310 NDT/tấn.
Giá thép hình ở Nhật Bản hiện nay vẫn còn suy yếu
Nhu cầu yếu ớt đã khiến cho giá thép hình ở Nhật Bản suy yếu trong những tuần gần đây, nhưng theo nguồn tin ở Tokyo và Osaka cho biết hôm thứ Sáu thì đà giảm này lẽ ra đã kết thúc vì các nhà phân phối không thể hạ giá được nữa.
Giá thị trường hiện nay cho thép hình SS400 6x50 mm là khoảng 69.000-70.000 Yên/tấn (653-662 USD/tấn), trong khi giá ở Osaka là 66.000-67.000 Yên/tấn. Mức giá này giảm 2.000 Yên/tấn và 1.000 Yên/tấn so với 1 tuần trước đó và giảm lần lượt tới 3.000 Yên/tấn và 2.000 Yên/tấn so với cuối tháng 6.
Một nhà phân phối ở Tokyo cho biết tồn kho tại hầu hết các nhà phân phối thường bao gồm các mặt hàng được mua khi giá cao hơn nhiều và vì vậy việc chấp nhận mức giá thấp hơn mà các khách hàng hiện nay đang yêu cầu là rất khó.
Nhà sản xuất thép hình lớn nhất nước, Osaka Steel, đã tăng 7.000 Yên/tấn cho thép hình trong tháng 5, trong khi Tokyo Steel Manufacturing tăng 5.000 Yên/tấn. “Chúng tôi đã cố gắng nâng giá của mình để phù hợp với yêu cầu cao hơn từ phía nhà máy và chúng tôi đã xoay sở để có được mức tăng nhẹ trong tháng 4”, một nhà phân phối ở thủ đô giải thích. “Nhưng kể từ đó, giá đã giảm với mức tương tự hoặc thậm chí nhiều hơn và vì vậy tình hình tài chính của chúng tôi ngày càng trở nên xấu hơn. Bây giờ chúng tôi cần phải ưu tiên cho giá chứ không phải doanh số”.
Nhu cầu thực tế vẫn còn trì trệ nhưng yêu cầu đã bắt đầu tăng từ giữa tháng 7, một nhà phân phối ở Osaka cho hay. “Dường như khách hàng đã bắt đầu chuẩn bị cho sức mua cải thiện vào mùa thu, thêm vào đó tâm lý này đã khuyến khích các nhà phân phối không còn chấp nhận giá thấp hơn nữa. Giá thép hình bây giờ gần chạm đáy”.
Bộ Đất đai, Giao thông vận tải và Du lịch đã dự báo rằng nhu cầu thép hình dùng cho xây dựng trong tháng 8 sẽ đạt 320.000 tấn, giảm 4,2% so với năm ngoái và giảm 13,5% so với tháng 7.
Thép cây Châu Á phục hồi trong lúc triển vọng không chắc chắn
Giá thép cây giao ngay ở Châu Á một lần nữa lại tăng trong ngày thứ Sáu khi nghe nói người mua đã đặt một số đơn hàng bất chấp triển vọng thị trường bất ổn. Các nhà xuất khẩu và cả người mua ở nước ngoài đã hoàn toàn bị lỗ do biến động khó lường trên thị trường Trung Quốc trong tuần qua, và nhiều người muốn đợi bên lề để xu hướng rõ ràng hơn.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 316-324 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, tăng 2,5 USD/tấn so với thứ năm.
Một số nhà xuất khẩu Trung Quốc vẫn giữ chào giá không đổi hôm thứ Sáu do họ không chắc thị trường sẽ có xu hướng như thế nào trong tuần này. Một nhà máy ở miền đông giữ chào giá ổn định ở mức 325 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 335 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế dung sai khối lượng 3%.
Nghe nói một nhà máy ở miền đông có thể sẽ chấp nhận đơn đặt hàng với giá 330-335 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế trong khi một nhà máy ở miền nam duy trì chào giá ở mức 345 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Tại Singapore, một giao dịch được nghe nói chốt với giá 320-328 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 8, tương đương 318-326 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Nhưng không có thêm chi tiết nào được tiết lộ.
Các nhà tích trữ lớn hơn sẽ không đặt mua bất cứ đơn hàng nào với tình hình hiện nay bởi vì họ vẫn còn hàng dự trữ trong tay.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm là 2.435-2.445 NDT/tấn (365-367 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, giảm 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) so với ngày trước đó.
Người mua Đông Á né phôi thép Trung Quốc trong lúc giá biến động
Giá phôi thép Trung Quốc không thể dự đoán đang ngăn cản việc thực hiện các giao dịch ở Đông Á. Người mua trong khu vực muốn đợi cho giá rõ ràng, nhất là kể từ khi thị trường thép cây suy yếu vào mùa này.
Platts đã hạ định giá phôi thép 120mm/130mm nhập khẩu xuống 315-325 USD/tấn CFR, so với 320-330 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá bình quân 320 USD/tấn CFR, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước.
Chào giá tới khu vực này cho phôi 130mm Q235 đang phổ biến ở mức 305-310 USD/tấn FOB trong tuần trước, thấp hơn khoảng 10 USD/tấn so với tuần trước đó.
Thật khó để giao dịch khi giá đang biến động theo tâm lý thị trường từ những chính sách của chính phủ, một thương nhân nói. Giá quặng sắt và chỉ số giá thép cây bất ổn cũng gây ảnh hưởng đến giá phôi thép và ông không biết đưa ra chào giá như thế nào trong một thị trường vô phương hướng như vậy. “Về cơ bản, nhu cầu xuất khẩu vẫn yếu ớt”.
Chào giá cho phôi 120mm Q275 giao tháng 9 đang phổ biến ở mức 325 USD/tấn CFR Manila. Các giao dịch được thực hiện với giá 335 USD/tấn CFR Manila trong tuần kết thúc ngày 15/7 nhưng ông không nghe nói giao dịch nào được ký kết hồi tuần trước.
Người mua Philippines đang mua với số lượng nhỏ hơn 5.000 tấn so với mức mà họ đã đặt mua từ 10.000-15.000 tấn như trước đó, chỉ bởi vì thị trường bất ổn.
Tại Thái Lan, chào giá được rút lại sau khi giá tăng ở Trung Quốc. một thương nhân ở đây cho biết chào giá cho phôi loại 150mm, Q235 và Q255 đầu tuần trước phổ biến ở mức 315-320 USD/tấn CFR nhưng không có ai mua.
Trong khi đó, giá phôi Trung Quốc đã biến động trong tuần trước cùng với thị trường thép cây giao sau ở Thượng Hải. Giá niêm yết ở Đường Sơn đã giảm 50 NDT/tấn (7,5 USD/tấn) trong 3 ngày đầu tuần trước, nhưng sang đến thứ Năm thì tăng 50 NDT/tấn.
Nhưng lần tăng này cũng không kéo dài bởi vì giá đã rớt 10-20 NDT/tấn xuống còn 2.000 NDT/tấn (300 USD/tấn) vào cuối thứ Sáu. Mức giá này bằng với giá cuối ngày thứ Hai.
Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc tiếp tục tăng
Giá xuất khẩu của HDG Trung Quốc tăng từ đầu đến giữa tháng 7. Tuy nhiên, các nhà sản xuất đã và đang nâng chào giá xuất khẩu phần lớn là để phản ánh thị trường trong nước mạnh hơn vì nhu cầu ở nước ngoài cho thấy ít có sự cải thiện.
Hôm 22/7, chào giá cho DX51D HDG 1.0mm 120 grams kẽm trên một mét vuông từ các nhà máy lớn là 470-475 USD/tấn FOB hay thậm chí cao hơn. Thế nhưng một vài nhà xuất khẩu trao đổi với Platts rằng mức giá này không thể chốt được bất cứ đơn hàng nào, và một người mua thực sự vẫn có thể thương lượng giá xuống 470 USD/tấn FOB và thậm chí là 460 USD/tấn FOB. Mức giá này vẫn cao hơn so với 439-450 USD/tấn FOB được nhìn thấy hôm 1/7.
Một số thương nhân cho biết họ vẫn có thể mua được thép với giá khoảng 460 USD/tấn FOB, nhưng rất hạn chế vì các nhà máy đang ngày càng do dự để đưa ra giá thấp như vậy. “Các nhà máy đã và đang nâng giá xuất khẩu lên bất chấp giao dịch thưa thớt”. Các nhà máy đang tích cực nâng giá xuất khẩu, phần lớn là do niềm tin của họ rằng giá thép dẹt Trung Quốc, trong đó bao gồm HRC, CRC và HDG sẽ tiếp tục đi lên cho tới tháng 8.
Tại thị trường Thượng Hải, 1.0mm thick DX51D HDG được giao dịch phổ biến với mức giá 3.530-3.620 NDT/tấn (529-542 USD/tấn) gồm 17% VAT, tăng 80 NDT/tấn so với đầu tháng này.
Một thương nhân trong nước cho biết tháng 7 và 8 thường là mùa suy yếu cho thép dẹt nhưng thị trường giao sau gần đây đã đóng một vai trò lớn trong việc quyết định xu hướng thị trường giao ngay. Nhiều người đang quan sát một cách thận trọng thị trường giao sau sẽ như thế nào trong tháng 8.
Sự thận trọng của người mua kiềm hãm thị trường HRC
Giá HRC giao ngay ở Châu Á ổn định hôm thứ Sáu do giá Trung Quốc suy yếu dẫn đến người mua trở nên thận trọng. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 362-367
USD/tấn, bằng với ngày trước đó.
Thép cuộn cùng loại được định giá 370-375 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 6 USD/tấn so với tuần trước đó. Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.580-2.590 NDT/tấn (387-388 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, thấp hơn ngày trước đó 65 NDT/tấn.
Mặc dù chào giá Trung Quốc không đổi ở mức từ 370 USD/tấn FOB trở lên cho SS400 HRC, nhưng không có nhiều người mua quan tâm. Hai thương nhân khác không nhận được giá hỏi mua nào cả vào ngày thứ Sáu, và nói rằng niềm tin của người mua đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi giá trong nước có thể thay đổi qua hai ngày trước.
Một nhà cán lại người Việt cùng cùng chung quan điểm và nói rằng công ty bà không đưa ra bất cứ giá hỏi mua nào vì không thể có một sự đánh giá rõ ràng về xu hướng giá tuần này.
Tại Hàn Quốc, thị trường cũng im ắng và không có giao dịch nào được ký kết. Không ai biết giá mua lý tưởng từ những khách hàng ở nước ngoài vì họ từ chối đưa ra giá hỏi mua.
Đối với thép cuộn SAE, chào giá Trung Quốc vẫn duy trì mức 385-390 USD/tấn CFR Việt Nam. Các thương nhân muốn bán với giá 380 USD/tấn CFR Việt Nam.
Một nhà máy Nhật Bản và Ấn Độ chào giá lần lượt là 430 USD/tấn và 395 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn cùng loại. Nhà máy Ấn Độ sẵn sàng bán với giá 392 USD/tấn tấn CFR Việt Nam.