Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 25/07/2016

Mùa tiêu thụ trì trệ của tấm mỏng tại thị trường Mỹ tiếp tục

Nhu cầu chậm đi theo mùa trong thị trường tấm mỏng Mỹ tiếp tục vào thứ Sáu với hoạt động mua hầu như không nghe nói đến. Các thành phần tham gia thị trường vẫn tiếp tục có ý kiến khác biệt chia rẽ về việc mở rộng nhập khẩu có thể gây áp lực lên thị trường vào cuối năm nay.

Platts duy trì định giá thép cuộn cán nóng và cán nguội hàng ngày ở 610-630usd/tấn ngắn và 820-840usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai giá đều được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).

Hầu hết thị trường đã đồng ý rằng HRC nói riêng đã dịu lại nhưng với giao dịch hạn chế, đã có sự không chắc về phạm vi giá này. Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cảnh báo rằng đồn đoán giá dưới 600usd/tấn ngắn cho HRC có thể là một người nào đó đang cố gắng để thị trường đi xuống trước khi thực sự đặt hàng.

Ông nghi ngờ nếu có người đã phải đặt hàng 2.000 tấn ngắn – lớn hơn mức tối đa 500 tấn ngắn được xem xét trong việc định giá hàng ngày - các nhà máy có khả năng sẽ lại mức giá ở 600usd/tấn ngắn.

Một nguồn tin nhà máy thứ hai cho biết giá HRC vẫn ổn định và không có bất kỳ dao động nào trong giá cuộn cán nguội hoặc cuộn nhúng nóng mạ kẽm.

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ hai nói rằng ông đã không nhìn thấy bất kỳ chuyển động nào của CRC hoặc HDG nhưng nhận thấy HRC ở mức 610-640usd/tấn ngắn. Ông tin rằng sẽ có một sự gia tăng nhỏ trong hàng tồn kho tháng Bảy, đi ngang trong tháng Tám và sau đó giảm xuống vào tháng Chín.

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ thứ ba cho biết thị trường vẫn nguyên hiện trạng nhưng ông tin rằng khi nhập khẩu CRC cập cảng vào tháng Mười Một từ Thổ Nhĩ Kỳ sẽ có một sự điều chỉnh giá cả trong nước.

 

Nguồn trung tâm dịch vụ đầu tiên cho biết sự chênh lệch hiện nay giữa giá trong nước và nhập khẩu đối với CRC và HDG là rất lớn nhưng không tin sẽ có đủ khối lượng nhập khẩu đến vào cuối năm nay để thực sự gây áp lực giá cả trong nước.

Thị trường thép tấm châu Âu ổn định do mùa tiêu thụ chậm trong hè

Thị trường thép tấm châu Âu hầu như không hoạt động trong tuần trước do mùa nghỉ hè đang diễn ra, các nguồn tin thị trường cho biết.

“Giá cả đã không di chuyển,” một nhà phân phối Hà Lan cho biết, nói thêm rằng ông đang chờ xem điều gì sẽ xảy ra sau khi mùa nghỉ hè cuối tháng Tám/ đầu tháng Chín. “Nhưng bây giờ chúng tôi đang cố gắng để đạt được lợi nhuận hợp lý. Nửa đầu năm nay đã thực sự được đền đáp,” ông nói thêm.

Một số nguồn tin khẳng định hoạt động chậm hơn so với những năm trước, mặc dù hoạt động luôn yên ắng hơn trong mùa hè. “Nhu cầu vẫn không tốt. Nó yên ắng hơn so với bình thường. Cả năm bắt đầu rất, rất chậm,” một thương nhân người Đức nói, gợi ý rằng sẽ chỉ mua “thỉnh thoảng” nhưng thị trường vẫn tốt hơn so với cuối năm ngoái/đầu năm nay.

Các nhà máy trong nước gần như đã rút khỏi thị trường do có đơn đặt hàng đầy đủ. Một nguồn tin thân cận với Salzgitter cho biết nhà máy tấm của công ty này đã là gần  đạt 70% đơn đặt hàng cho Q4. Bình luận về sự cạnh tranh từ các nhà máy ở Đông Âu, các nguồn tin cho biết các nhà máy của Đức không cần phải lo lắng về việc sử dụng công suất do các hợp đồng thép ống quy mô lớn, nhấn mạnh tình huống này là “khác biệt so với sáu tháng trước.” Các nhà máy cấp 1 trong nước nghen nói vẫn đang chào giá 550-560euro/tấn cho S235, mặc dù người tham gia thị trường hạ nguồn nói rằng giá này không phản ánh được giá giao dịch hiện tại.

Một nhà cán lại ITaly nghe nói chào giá tấm thương mại tại 410euro/tấn xuất xưởng, mặc dù mức này chưa thể được khẳng định bởi các nguồn tin khác. Các chào giá khác từ Italy đã được nghe nói khoảng 420-430euro/tấn xuất xưởng, cho thấy thị trường tiếp tục ổn định ở miền Nam châu Âu, mà trước đó cho thấy mức giảm giá đáng kể hơn so với khu vực Bắc Âu.

Không có chào giá nhập khẩu đã được nghe nói tuần trước. Chào giá nhập khẩu thép tấm dày mới nhất nghe nói từ Hàn Quốc ở mức 500euro/tấn CIF Antwerp, được coi là kém hấp dẫn do thời gian giao hàng kéo dài và là tương tự các mức giá của các nhà máy ở Đông Âu, trong đó có thời gian giao hàng nhanh hơn.

Platts giữ ổn định định giá hàng ngày ở mức 490-505euro/tấn xuất xưởng Ruhr cho tấm dày S235. Định giá nhập khẩu hàng ngày cũng vẫn ổn định ở 420-430euro/tấn CIF Antwerp.

Giá cuộn trơn Mỹ bắt đầu đi theo đà giảm của phế

Thị trường thép cuộn trơn của Mỹ đang bắt đầu cho thấy sự suy yếu khi giá giảm phù hợp với phế có giá thấp hơn,các nguồn tin thị trường cho biết hôm thứ Sáu.

Platts hôm thứ Sáu giảm định giá tuần của cuộn trơn dạng lưới của Mỹ còn 510-540usd/tấn ngắn xuất xưởng, giảm từ 520-550usd/tấn ngắn.

“Giá cuộn trơn đang di chuyển cùng phía với phế,” một nhà nhà kéo thép dây ở khu vực  đông nam dây Mỹ cho biết.

Giá cho của các loại phế cũ đã  giảm tối thiểu là 10usd/tấn dài, và nhiều nhất là 25-30usd/tấn dài trong một số trường hợp, trong  suốt tuần muan tháng Bảy của nhà máy.

Mặc dù áp lực giảm của phế đã gây sức ép lên giá cuộn trơn, mức giảm tháng Bảy trong phế có thể là không đủ để khiến các nhà máy để chính thức giảm giá cơ bản của cuộn trơn, một nhà kéo thép dây thứ hai cho biết.

“Tôi không chắc chúng ta sẽ thấy [một thông báo giảm giá chính thức] vì tôi chắc rằng các nhà sản xuất đang hy vọng phế sẽ duy trì ổn định,” một nguồn tin bên mua cho biết.

Tuy nhiên, còn hơn một tuần nữa là đến tuần đàm phán mua phế tháng Tám, thị trường phế Mỹ vẫn tiếp tục mờ mịt trong tuần trước do người tham gia tiếp tục tìm kiếm các tín hiệu tại các thị trường xuất khẩu. Sự không chắc chắnnày được tạo ra bởi một cuộc đảo chính thất bại ở Thổ Nhĩ Kỳ, người mua ở nước ngoài lớn nhất của phế Mỹ, đã tiếp tục che mờ triển vọng.

Nhu cầu thấp hơn cũng gây áp lực lên giá thép, do các nhà sản xuất dường đang chật vật để lấp đầy các vào đơn đặt hàng của mình, một nhà kéo thép dây ở Đông Nam nói.

“Tôi không tin rằng có rất nhiều sức mạnh trên thị trường, nhưng tôi không nghĩ rằng nhu cầu tiêu thụ đã giảm đủ để giảm giá cơ sở,”  ông nói.

Một yếu tố cũng có thể giữ giá thép trong nước Mỹ không rơi quá xa là khối lượng nhập khẩu ít ỏi, theo nhà kéo thép dây thứ hai.

“[Các nhà máy Mỹ] có thể nhìn thấy một cơ hội cho một số thị phần hơn nữa, nhưng điều đó phụ thuộc, đến một mức độ lớn, về hàng tồn kho và mức độ kinh doanh,” ông nói.

Sự phục hồi dần được dự kiến diễn ra trong thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ

Thị trường tấm mỏng trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ đã rơi vào yên ắng trong tuần qua sau cuộc đảo chính quân sự thất bại, nhưng đang kỳ vọng một sự hồi phục dần dần trong nhu cầu tiêu thụ trong những ngày sắp tới, do biến động tỷ giá hối đoái ổn định. Mức giá tồn kho thép ở mức thấp trong thị trường cũng sẽ hỗ trợ đà phục hồi này, nguồn tin thị trường quan sát.

“Thị trường tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ đã sốc với những sự kiện kịch tính mới nhất, tuy nhiên, chúng tôi cần phải quay lại ngay lập tức. Chính phủ đang thực hiện biện pháp phòng ngừa cần thiết và những ảnh hưởng tích cực đầu tiên của nó đã bắt đầu nhìn thấy hôm nay. Mức giảm mạnh trong thị trường cổ phiếu đã chựng lại và sự suy yếu của đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm bớt hôm thứ Sáu. Chúng ta có thể thấy tác dụng tích cực của nó trong thị trường tuần tới,” một giám.

“Mức tồn kho thấp trên thị trường và giá cả đã chạm đáy. Các yêu cầu hỏi giá đã tăng lên trước khi diễn ra cuộc đảo chính. Sau đợt nghỉ lễ kéo dài một tuần, chúng ta có thể thấy một sự hồi phục dần dần nhu cầu tiêu thụ trong tuần tới. Một xu hướng tăng giá cũng có thể phụ thuộc vào các động lực của giá thế giới,” ông lưu ý.

Để thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ chào giá HRC ở thị trường trong nước đã giảm xuống trong phạm vi 410-430usd/tấn xuất xưởng với giảm giá mới nhất, trong khi một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng cắt giảm chào giá xuất khẩu cung cấp còn 400-420usd/tấn FOB, nguồn tin cho biết.

Giá HRC suy yếu cũng được phản ánh trong giá CRC tuần trước. Một số nhà cung cấp trong nước đã bắt đầu chào giá ở mức 500usd/tấn xuất xưởng cho CRC vào cuối tuần trước cho thanh toán tiền mặt và mức này đã kéo giá chào xuống mức 500-530usd/tấn thứ Sáu, tùy thuộc vào khối lượng và điều khoản thanh toán.

Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ tiếp tục ở mức thấp và giá HRC suy yếu hơn cũng kéo giá thép cuộn mạ của Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong tuần trước. Như vậy, chào giá HDG 0.5mm đã giảm còn khoảng 550-580usd/tấn xuất xưởng, trong khi chào giá trong nước cho PPGI 9002 dày 0.5mm ở mức 650-680usd/tấn xuất xưởng, tùy thuộc vào điều khoản thanh toán, số lượng, theo các nguồn tin thị trường.

Định giá HRC EU

Platts định giá HRC Bắc Âu không đổi ở mức 415-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Sáu.

Thị trường tiếp tục trầm lắng hôm thứ Sáu sau kỳ nghỉ tại Benelux hôm thứ Năm, và sự bắt đầu hoạt động đóng cửa nhà máy trong mùa hè. Một nguồn tin thị trường cho biết giá có khả năng ổn định trong thời gian tới, nhờ sự cắt giảm hàng nhập khẩu. Các nhà máy châu Âu thậm chí có thể tăng chào giá trong những tuần tới, ông nói thêm.

Giá nhập khẩu HRC được định giá không thay đổi ngày thứ Sáu tại 395-400usd/ tấn CIF Antwerp.

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 370-380usd/tấn FOB thứ Sáu, với mức trung điểm là 375usd/tấn ổn định trong ngày.

Các người tham gia cho biết giá không tăng hơn nữa trong thị trường, khẳng định mức giá được thiết lập trong những ngày trước đó. Một thương nhân châu Âu đưa ra mức giá khả thi cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 375-380usd/tấn FOB, mà ông coi là giá “tốt” do sự mất giá đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ.

Một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ cho biết thị trường đã ổn định hôm thứ Sáu, đứng ở mức 365usd/ tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương với mức 378usd/tấn FOB trọng lượng thực tế. Một nguồn thị trường ở Bắc Phi cho biết giá thép cây từ một nhà sản xuất cấp một củaThổ Nhĩ Kỳ đã có giá 365euro/tấn (402usd) giao đến Ma-rốc. Mức này tương đương với 370usd/tấn FOB Izmir trọng lượng thực tế.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở 320usd/tấn FOB Biển Đen thứ Sáu, ổn định trong ngày.

Các nguồn tin đã có một triển vọng trái chiều về tình hình giá cả. Các nhà sản xuất phần lớn vẫn chịu đựng được áp lực giảm. Một thương nhân cho biết giá trong khoảng 315-320usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov và ông mong đợi thị trường để củng cố xung quanh mức thấp nhất của phạm vi này trong những ngày tới. Đồng thời, một thương nhân cho biết ông lấy một vị trí mua và đặt 10.000 tấn nguyên liệu Ucraina tại mức 318usd/tấn FOB Mariupol. Ông cho biết mức giá này là duy nhất khả thi cho thị trường như Ai Cập và Morocco. Đối với thị trường Thổ Nhĩ Kỳ mức độ chấp nhận được là 325usd/tấn CIF (310-315usd/tấn FOB), hiện không có nguồn cung có sẵn từ các nhà máy CIS, các thương nhân cho biết.

Platts duy trì định giá không thay đổi là 320usd/tấn FOB, cho thấy được mức giá chào thấp hơn từ các nhà cung cấp CIS và giá chào mua được đưa ra bởi người mua.

Giá thép cây Nga giảm do thị trường thừa cung

Giá thép cây nội địa Nga đã giảm đáng kể trong bối cảnh dư thừa nguồn cung trên thị trường. Kể từ đầu tháng Năm, giá thép cây CPT Moscow đã tăng vọt trên cả giá FOB Biển Đen của phôi thanh và thép cây; trong giai đoạn sau đó đến giữa tháng Bảy, mức chênh lệch giá tăng đạt trung 150usd/tấn và 62usd/tấn so với phôi xuất khẩu và giá thép cây CIS tương ứng. Kết quả là, một vài nhà máy chuyển hướng nguồn cung đi từ xuất khẩu vào thị trường trong nước; dẫn đến dư cung.

Các nhà máy đang điều chỉnh giá chốt sơ bộ cho sản lương thép cây tháng Bảy còn 31.500 rúp (488usd)/tấn cho thép cây 12mm và 31.000 rúp (480usd)/tấn cho thép cây 14mm, đã giao Moscow. Nếu không bao gồm 18% thuế VAT mức này tương ứng 26.695 rúp (413usd)/tấn và 26.270 rúp (407usd)/tấn.

Giá chốt mới cho thấy mức giảm 2.540 rúp (39usd)/tấn từ mức giá ban đầu của tháng Bảy và giảm 4.650 rúp (72usd)/tấn so với tháng Sáu. Vào ngày 22/07, Platts giảm định giá của thép thanh cây 12-14mm của Nga 2.540 rúp (39usd)/tấn so với tuần trước còn 26.270-26.690 rúp (407-413usd)/tấn CPT Moscow.

 

Giá tính bằng dollar Mỹ tương ứng của mức giá mới đã giảm 43usd/tấn từ đầu tháng. Bất chấp mức giảm mạnh trong tháng của giá thép cây trong nước của Nga, giá nội địa  vẫn tiếp tục chênh lệch tăng tối thiểu 50usd/tấn so với giá FOB Biển Đen. Giá FOB Biển Đen ngày 10/7 được định giá ở mức 357usd/tấn.

Giá quặng sụt giảm do nhu cầu trầm lắng hơn

Giá quặng sắt giao ngay hầu như giảm trong cả tuần trước, do sức ép từ giá giao sau suy yếu và một thị trường thép trầm lắng hơn.

S&P Global Platts 62% Fe IODEX kết thúc tuần trước ở mức 56,65 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 2,3 USD/dmt so với tuần trước. Giá tham khảo 62% Fe của The Steel Index bắt đầu tuần trước là 56,2 USD/dmt CFR Thiên Tân và cuối tuần thấp hơn một chút còn 55,7 USD/dmt.

Giá thép đang ngăn cản người mua cam kết mua giao ngay. Giá giao ngay cho phôi vuông ở Đường Sơn tính đến ngày thứ Ba tuần trước đã chạm mức thấp 1.980 NDT/tấn, trước khi chốt tại 2.000 NDT/tấn vào thứ Sáu. Do đó, người mua đã rút lui ra ngoài lề vì họ đợi xu hướng giá quặng.

 “Có một số nhu cầu  cơ bản cho quặng sắt nhưng người mua đang đợi giá suy yếu hơn trước khi có động thái mua vào”, một thương nhân ở Thượng Hải nói.

Nhu cầu bị dồn nén đã thổi bùng lên trong phút chốc ngắn ngủi hôm thứ Năm khi các nhà máy quay sang tích trữ hàng nhưng nhu cầu nhanh chóng bị dập tắt chỉ ngày sau đó trong bối cảnh giá giao sau giảm.

Nguồn cung dư thừa tại cảng cũng làm hạn chế sự gia tăng của giá quặng sắt.

Tuy nhiên, nhu cầu cho quặng cục tiếp tục mạnh lên, nhất là khi lợi nhuận tương đối cao và các nhà máy tăng sản lượng. sự hạn chế trong việc thiêu kết ở Đường Sơn để cắt giảm sản lượng từ các lò thiêu kết xuống 50% từ ngày 12/7 và ngưng hoàn toàn từ ngày 25-31/7- cũng đã hỗ trợ cho quặng cục. Platts định giá quặng cục chất lượng cao tăng 0,0015 USD/dmtu so với tuần trước đó lên 0,1745 USD/dmtu hôm thứ Tư.

Việt Nam: Các nhà kinh doanh tìm nguồn cung ứng mới cho phôi thép

Các thương nhân đang rà soát danh sách các nước không bị áp thuế tự vệ cho phôi thép vào Việt Nam sau khi có quyết định cuối cùng được thông báo hôm thứ Hai, nhằm tìm kiếm cơ hội giao dịch xuất khẩu mới.

Mức thuế tự vệ hiện nay cho phôi thép là 23.3% và sẽ được áp dụng cho tới ngày 21/3/2017- sau ngày này, mức thuế sẽ giảm 2 điểm phần trăm hàng năm xuống 21,3% từ ngày 22/3/2017-21/3/2018, và sau đó là 19.3% và 17.3% cho tới ngày 21/3/2020. 

Các nhà máy trong nước nói rằng giá bán cho phôi thép đã tăng nhẹ lên khoảng 8,4 triệu đồng/tấn (377 USD/tấn) giao hàng hay xuất xưởng còn tùy vào từng nhà máy. “Không ai để ý nhiều đến các biện pháp tự vệ cuối cùng”, một thương nhân ở TP.HCM nói. Nguyên nhân là do biện pháp sơ bộ cũng đã được áp dụng kể từ tháng 3.

 “Giá phôi thép đã tăng một chút chứ không nhiều”, giám đốc nhà máy cho biết. Ông nói rằng giá ở miền bắc cũng tầm  8,4 triệu đồng/tấn và tiêu thụ phôi thép tạm thời bị trì trệ bởi mùa mưa.

Trong số các nước không bị áp thuế tự vệ là khối  Asean gồm có Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan- cộng thêm Ấn Độ, Iran, Brazil, Kazakhstan, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine.

Các thương nhân đã bàn luận khả năng về việc thay thế phôi thanh xuất xứ Trung Quốc sang nguồn gốc Asean bởi vì thuế nhập khẩu cho phôi từ các nước Asean là 3% và 5% tùy vào hàm lượng cacbon. Ngược lại, thuế nhập khẩu cho các nước như Ấn Độ là 10%, khiến cho phôi từ những nước này mất tính cạnh tranh.

Một thương nhân người Thái cho biết hai đơn hàng phôi thép được thực hiện tới Việt Nam trong năm nay khoảng  50.000-60.000 tấn giao tháng 6 và 7. Ông ước tính giá phôi Thái Lan hiện đang phổ biến khoảng 335-340 USD/tấn FOB.

“Vấn đề chủ chốt hiện nay là xưởng phế trong nước chỉ đang phục vụ cho các nhà máy dựa theo nhu cầu cơ bản, đáp ứng yêu cầu tối thiểu của họ. Nếu họ cần khối lượng lớn hơn thì cần phải trả với giá cao hơn cho các xưởng nguyên liệu hoặc là nhập khẩu phế.

Tại Việt Nam, một thương nhân nghe nói phôi 5sp/PS của Malaysia được chào giá 365 USD/tấn CFR, nhưng một người khác nghĩ phôi của Malaysia cao hơn 10 USD/tấn.

Một thương nhân Manila cho biết Philippines không thể xuất khẩu phôi thép sang Việt Nam bởi vì đây là một nhà nhập khẩu ròng.

Phôi thép Trung Quốc chiếm khoảng 70% tổng phôi thép nhập khẩu của Việt Nam với tầm 1,8 triệu tấn trong năm ngoái, trong khi phôi thép Nhật Bản chiếm 29%.

Giá CRC không gỉ Châu Á phục hồi do niken tăng liên tục

Giá thép không gỉ Đông Á phục hồi trong tuần trước khi thị trường niken vẫn có xu hướng cao hơn. Giá CRC không gỉ loại  304 2mm 2B từ Đài Loan và Hàn Quốc tuần trước đã tăng 45 USD/tấn lên 1.850-1.880 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á.

Giá niken tiếp tục tăng trong tuần trước lên hơn 10.000  USD/tấn, điều này đã khiến cho người mua thép không gỉ do dự hơn để giảm chào giá vì triển vọng tiêu cực của giá niken. Do đó, chỉ có chiết khấu hạn chế từ các nhà máy Đài Loan với chào giá 1.900  USD/tấn CFR.

Trong khi đó, chào giá từ Hàn Quốc vẫn ở mức 1.930 USD/tấn CFR, mức giá cao này đã thu hút ít sự quan tâm từ phía người mua. Nhưng khách hàng vẫn có thể mua được thép giao ngay từ các khu vực ngoại quan nằm ở tỉnh Quảng Đông với khoảng 1.850 USD/tấn, vì thị trường Trung Quốc chỉ tăng nhẹ trong suốt tuần trước.

Tại thị trường Trung Quốc, thị trường được quan sát chặt chẽ bởi các nhà sản xuất trong khu vực- chào giá xuất khẩu cũng tăng nhẹ do giá niken cao hơn mặc dù thị trường nước ngoài trầm lắng.

Do đó, các thương nhân chào giá trên 1.750 USD/tấn FOB cho 304 2mm 2B CRC được sản xuất từ các nhà máy hàng đầu trong nước. Giá có thể sẽ tăng cao hơn nữa trong ngắn hạn cùng với xu hướng trên thị trường nội địa, nơi giá đang được hỗ trợ bởi việc giao hàng chậm hơn từ các nhà sản xuất vì mưa lớn.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt tại 10.660-10.665 USD/tấn hôm 21/7, tăng 298 USD/tấn so với tuần trước đó và hơn 1.000 USD/tấn kể từ đầu tháng này.

Hegang giảm giá niêm yết 10 ngày cuối tháng 7

Nhà sản xuất thép lớn nhất miền bắc Trung Quốc, Hebei Iron & Steel (Hegang), thông báo cuối ngày thứ Năm rằng sẽ giảm hầu hết giá niêm yết trong nước cho thép cây tới 75 NDT/tấn (11 USD/tấn).

Đối với thép cây loại Platts định giá, mức giảm nằm trong khoảng 40-60 NDT/tấn (6-9 USD/tấn). Nhưng Hegang cũng đã nâng giá niêm yết cho một vài loại thép cây lên 15 NDT/tấn (2 USD/tấn).

Giá cho các sản phẩm được sản xuất bởi  Tangshan Iron & Steel, Xuanhua Iron & Steel (Xuangang) và Chengde Iron & Steel (Chenggang) để bán ra ở khu vực Bắc Kinh và Thiên Tân là xuất xưởng trọng lượng lý thuyết, gồm VAT.

Các thương nhân đã nâng chào giá hôm thứ Năm vì tin đồn thị trường làm cảnh báo họ rằng mức giá sàn tháng 7 mà Hegang đang xem xét. Thế nhưng, giao dịch chậm chạp cùng với giá giao sau suy yếu một lần nữa đã kéo giá thị trường giao ngay đi xuống hôm thứ Sáu.  

Hôm 22/7, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 2.435-2.445 NDT/tấn (365-367 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, giảm 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) so với ngày trước đó.

Trong khi đó, tồn kho thép cây ở Bắc Kinh tăng trong suốt giữa tháng 7, vì giữa tháng thường là thời gian giao hàng nhiều nhất từ các nhà máy.

Theo Mysteel, thép cây tồn kho tại Bắc Kinh tính tới ngày 22/7 đã tăng 26.700 tấn tức 14% so với tuần trước đó lên 218.100 tấn. Trong khi đó, tồn kho thép cây trên cả nước đã tăng 4,8% so với tuần trước đó còn 3,8 triệu tấn, nhưng giảm 35% so với 2015.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn Shanghai Futures Exchange đã giảm 86 NDT/tấn tức 3,6% chốt tại 2.310 NDT/tấn.

Giá thép hình ở Nhật Bản hiện nay vẫn còn suy yếu

Nhu cầu yếu ớt đã khiến cho giá thép hình ở Nhật Bản suy yếu trong những tuần gần đây, nhưng theo nguồn tin ở  Tokyo và Osaka cho biết hôm thứ Sáu thì đà giảm này lẽ ra đã kết thúc vì các nhà phân phối không thể hạ giá được nữa.  

Giá thị trường hiện nay cho thép hình  SS400 6x50 mm là khoảng 69.000-70.000 Yên/tấn (653-662 USD/tấn), trong khi giá ở Osaka là 66.000-67.000 Yên/tấn. Mức giá này giảm 2.000 Yên/tấn và 1.000 Yên/tấn so với 1 tuần trước đó và giảm lần lượt tới 3.000 Yên/tấn và 2.000 Yên/tấn so với cuối tháng 6.

Một nhà phân phối ở Tokyo cho biết tồn kho tại hầu hết các nhà phân phối thường bao gồm các mặt hàng được mua khi giá cao hơn nhiều và vì vậy việc chấp nhận mức giá thấp hơn mà các khách hàng hiện nay đang yêu cầu là rất khó.

Nhà sản xuất thép hình lớn nhất nước,  Osaka Steel, đã tăng 7.000 Yên/tấn cho thép hình trong tháng 5, trong khi Tokyo Steel Manufacturing tăng 5.000 Yên/tấn. “Chúng tôi đã cố gắng nâng giá của mình để phù hợp với yêu cầu cao hơn từ phía nhà máy và chúng tôi đã xoay sở để có được mức tăng nhẹ trong tháng 4”, một nhà phân phối ở thủ đô giải thích. “Nhưng kể từ đó, giá đã giảm với mức tương tự hoặc thậm chí nhiều hơn và vì vậy tình hình tài chính của chúng tôi ngày càng trở nên xấu hơn. Bây giờ chúng tôi cần phải ưu tiên cho giá chứ không phải doanh số”.

Nhu cầu thực tế vẫn còn trì trệ nhưng yêu cầu đã bắt đầu tăng từ giữa tháng 7, một nhà phân phối ở  Osaka cho hay. “Dường như khách hàng đã bắt đầu chuẩn bị cho sức mua cải thiện vào mùa thu, thêm vào đó tâm lý này đã khuyến khích các nhà phân phối không còn chấp nhận giá thấp hơn nữa. Giá thép hình bây giờ gần chạm đáy”.

Bộ Đất đai, Giao thông vận tải và Du lịch đã dự báo rằng nhu cầu thép hình dùng cho xây dựng trong tháng 8 sẽ đạt 320.000 tấn, giảm 4,2% so với năm ngoái và giảm 13,5% so với tháng 7.

Thép cây Châu Á phục hồi trong lúc triển vọng không chắc chắn

Giá thép cây giao ngay ở Châu Á một lần nữa lại tăng trong ngày thứ Sáu khi nghe nói người mua đã đặt một số đơn hàng bất chấp triển vọng thị trường bất ổn. Các nhà xuất khẩu và cả người mua ở nước ngoài đã hoàn toàn bị lỗ do biến động khó lường trên thị trường Trung Quốc trong tuần qua, và nhiều người muốn đợi bên lề để xu hướng rõ ràng hơn.

Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 316-324 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, tăng 2,5 USD/tấn so với thứ năm.

Một số nhà xuất khẩu Trung Quốc vẫn giữ chào giá không đổi hôm thứ Sáu do họ không chắc thị trường sẽ có xu hướng như thế nào trong tuần này. Một nhà máy ở miền đông giữ chào giá ổn định ở mức 325 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 335 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế dung sai khối lượng 3%.

Nghe nói một nhà máy ở miền đông có thể sẽ chấp nhận đơn đặt hàng với giá 330-335 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế trong khi một nhà máy ở miền nam duy trì chào giá ở mức 345 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Tại Singapore, một giao dịch được nghe nói chốt với giá 320-328 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 8, tương đương 318-326 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Nhưng không có thêm chi tiết nào được tiết lộ.

Các nhà tích trữ lớn hơn sẽ không đặt mua bất cứ đơn hàng nào với tình hình hiện nay bởi vì họ vẫn còn hàng dự trữ trong tay.

Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm là 2.435-2.445 NDT/tấn (365-367 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, giảm 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) so với ngày trước đó.

Người mua Đông Á né phôi thép Trung Quốc trong lúc giá biến động

Giá phôi thép Trung Quốc không thể dự đoán đang ngăn cản việc thực hiện các giao dịch ở Đông Á. Người mua trong khu vực muốn đợi cho giá rõ ràng, nhất là kể từ khi thị trường thép cây suy yếu vào mùa này.

Platts đã hạ định giá phôi thép 120mm/130mm nhập khẩu xuống 315-325 USD/tấn CFR, so với 320-330 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá bình quân 320 USD/tấn CFR, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước.

Chào giá tới khu vực này cho phôi  130mm Q235 đang phổ biến ở mức 305-310 USD/tấn FOB trong tuần trước, thấp hơn khoảng 10 USD/tấn so với tuần trước đó.

Thật khó để giao dịch khi giá đang biến động theo tâm lý thị trường từ những chính sách của chính phủ, một thương nhân nói. Giá quặng sắt và chỉ số giá thép cây bất ổn cũng gây ảnh hưởng đến giá phôi thép và ông không biết đưa ra chào giá như thế nào trong một thị trường vô phương hướng như vậy. “Về cơ bản, nhu cầu xuất khẩu vẫn yếu ớt”.

Chào giá cho phôi 120mm Q275 giao tháng 9 đang phổ biến ở mức 325 USD/tấn CFR Manila. Các giao dịch được thực hiện với giá 335 USD/tấn CFR Manila trong tuần kết thúc ngày 15/7 nhưng ông không nghe nói giao dịch nào được ký kết hồi tuần trước.

Người mua Philippines đang mua với số lượng nhỏ hơn 5.000 tấn so với mức mà họ đã đặt mua từ 10.000-15.000 tấn như trước đó, chỉ bởi vì thị trường bất ổn.

Tại Thái Lan, chào giá được rút lại sau khi giá tăng ở Trung Quốc. một thương nhân ở đây cho biết chào giá cho phôi loại 150mm, Q235 và Q255 đầu tuần trước phổ biến ở mức 315-320 USD/tấn CFR nhưng không có ai mua.

Trong khi đó, giá phôi Trung Quốc đã biến động trong tuần trước cùng với thị trường thép cây giao sau ở Thượng Hải. Giá niêm yết ở Đường Sơn đã giảm 50 NDT/tấn (7,5 USD/tấn) trong 3 ngày đầu tuần trước, nhưng sang đến thứ Năm thì tăng 50 NDT/tấn.

Nhưng lần tăng này cũng không kéo dài bởi vì giá đã rớt 10-20 NDT/tấn xuống còn 2.000 NDT/tấn (300 USD/tấn) vào cuối thứ Sáu. Mức giá này bằng với giá cuối ngày thứ Hai.

Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc tiếp tục tăng

Giá xuất khẩu của HDG Trung Quốc tăng từ đầu đến giữa tháng 7. Tuy nhiên, các nhà sản xuất đã và đang nâng chào giá xuất khẩu phần lớn là để phản ánh thị trường trong nước mạnh hơn vì nhu cầu ở nước ngoài cho thấy ít có sự cải thiện.

Hôm 22/7, chào giá cho DX51D HDG 1.0mm 120 grams kẽm trên một mét vuông từ các nhà máy lớn là 470-475 USD/tấn FOB hay thậm chí cao hơn. Thế nhưng một vài nhà xuất khẩu trao đổi với Platts rằng mức giá này không thể chốt được bất cứ đơn hàng nào, và một người mua thực sự vẫn có thể thương lượng giá xuống 470 USD/tấn FOB và thậm chí là 460 USD/tấn FOB. Mức giá này vẫn cao hơn so với 439-450 USD/tấn FOB được nhìn thấy hôm 1/7.

Một số thương nhân cho biết họ vẫn có thể mua được thép với giá khoảng 460  USD/tấn FOB, nhưng rất hạn chế vì các nhà máy đang ngày càng do dự để đưa ra giá thấp như vậy. “Các nhà máy đã và đang nâng giá xuất khẩu lên bất chấp giao dịch thưa thớt”. Các nhà máy đang tích cực nâng giá xuất khẩu, phần lớn là do niềm tin của họ rằng giá thép dẹt Trung Quốc, trong đó bao gồm HRC, CRC và HDG sẽ tiếp tục đi lên cho tới tháng 8.

Tại thị trường Thượng Hải,  1.0mm thick DX51D HDG được giao dịch phổ biến với mức giá 3.530-3.620 NDT/tấn (529-542 USD/tấn) gồm 17% VAT, tăng 80 NDT/tấn so với đầu tháng này.

Một thương nhân trong nước cho biết tháng 7 và 8 thường là mùa suy yếu cho thép dẹt nhưng thị trường giao sau gần đây đã đóng một vai trò lớn trong việc quyết định xu hướng thị trường giao ngay. Nhiều người đang quan sát một cách thận trọng thị trường giao sau sẽ như thế nào trong tháng 8.

 Sự thận trọng của người mua kiềm hãm thị trường HRC

Giá HRC giao ngay ở Châu Á ổn định hôm thứ Sáu do giá Trung Quốc suy yếu dẫn đến người mua trở nên thận trọng. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 362-367
USD/tấn, bằng với ngày trước đó.

Thép cuộn cùng loại được định giá 370-375 USD/tấn CFR Đông Á, giảm 6 USD/tấn so với tuần trước đó. Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.580-2.590 NDT/tấn (387-388 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, thấp hơn ngày trước đó 65 NDT/tấn.

Mặc dù chào giá Trung Quốc không đổi ở mức từ 370 USD/tấn FOB trở lên cho SS400 HRC, nhưng không có nhiều người mua quan tâm. Hai thương nhân khác không nhận được giá hỏi mua nào cả vào ngày thứ Sáu, và nói rằng niềm tin của người mua đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi giá trong nước có thể thay đổi  qua hai ngày trước.

Một nhà cán lại người Việt cùng cùng chung quan điểm và nói rằng công ty bà không đưa ra bất cứ giá hỏi mua nào vì không thể có một sự đánh giá rõ ràng về xu hướng giá tuần này.

Tại Hàn Quốc, thị trường cũng im ắng và không có giao dịch nào được ký kết. Không ai biết giá mua lý tưởng từ  những khách hàng ở nước ngoài vì họ từ chối đưa ra giá hỏi mua.

Đối với thép cuộn SAE, chào giá Trung Quốc vẫn duy trì mức 385-390 USD/tấn CFR Việt Nam. Các thương nhân muốn bán với giá 380 USD/tấn CFR Việt Nam.

Một nhà máy Nhật Bản và Ấn Độ chào giá lần lượt là 430 USD/tấn và 395 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn cùng loại. Nhà máy Ấn Độ sẵn sàng bán với giá 392 USD/tấn tấn CFR Việt Nam.