Giá NPI Trung Quốc giảm cùng với giá niken trên sàn LME
Giá giao ngay của gang thỏi niken chất lượng cao (10-15% Ni) ở Trung Quốc giảm còn 1.230-1.250 NDT/nickel unit (200-203 USD/tấn) trong ngày thứ Tư, gồm phí vận chuyển và VAT 17%, từ mức 1.260-1.300 NDT/nickel unit của hai tuần trước sau khi giá niken trên sàn London Metal Exchange sụt giảm.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt ở mức 17.130-17.135 USD/tấn trong ngày 23/9, giảm khoảng 2.300 USD/tấn trong hai tuần qua.
Nhu cầu bị ảnh hưởng bởi các nhà máy không vội thu mua sau khi giá kim loại niken đi xuống.
Ngoài ra còn do nguồn cung dồi dào. “Thật dễ dàng để mua ngay bây giờ. Nhu cầu thị trường không lớn do các nhà máy đang kiểm soát việc sản xuất loại thép 300-series của họ”.
Thị trường giao ngay NPI được cho là sẽ tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi những biến động giá niken trên sàn LME trong thời gian tới, ngoài ra còn bị tác động từ giá mua tháng 10 của các nhà sản xuất thép không gỉ lớn trong nước, dự báo giá mua sẽ được thông báo vào cuối tháng.
Giá mua tháng 10 của Shanxi Taigang Stainless Steel có thể sẽ giảm so với giá hồi tháng 09 nhưng hiện giờ thật khó để dự đoán là giá sẽ giảm bao nhiêu.
Giá mua hồi tháng 09 của Taigang là 1.275 NDT/unit, giảm 5 NDT/unit so với tháng 08, gồm vận chuyển và VAt 17%, thanh toán hoàn toàn bằng tiền mặt.
Giá giao ngay FeCr đi ngang ở Trung Quốc trong khi chờ giá mua
Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao của Trung Quốc (50% Cr) không đổi so với tuần trước và dừng ở mức 6.250-6.400 NDT/tấn (tương đương 77-79 cents/lb) trong ngày thứ Tư do thị trường đang đợi giá đặt mua tháng 10 của các nhà sản xuất thép không gỉ lớn trong nước.
Các nhà sản xuất thép không gỉ hàng đầu như Shanxi Taigang Stainless Steel, Baosteel và Jiuquan Iron & Steel đều được dự đoán là sẽ quyết định giá mua tháng 10 vào cuối tháng này. Có tin đồn trên thị trường vào chiều ngày thứ Tư rằng Jiuquan Steel đã bắt đầu tìm kiếm chào giá từ các nhà cung cấp ferrochrome.
Đa số đều dự đoán giá mua tháng 10 sẽ giảm 50 NDT/tấn so với tháng 09 do giá quặng chrome thấp hơn, nguồn cung dồi dào và nhu cầu từ các nhà sản xuất thép suy yếu.
“Sự sụt giảm gần đây trong giá niken là không tốt cho thị trường thép không gỉ. Các nhà máy chủ chốt sẽ tiếp tục tạo sức ép khiến giá ferrochrome thấp hơn”, đại diện một nhà máy thép không gỉ ở miền đông nói. Giá thép không gỉ Trung Quốc ở trong nước bị sức ép trong 1 hay 2 tuần qua khi giá niken và gang thỏi niken suy yếu.
Tuy nhiên, đại diện một nhà máy ở miền trung cho biết công ty vẫn đang theo dõi xem liệu các nhà sản xuất thép có giảm giá đặt mua của họ không. “Chúng tôi muốn giá không đổi. Nếu các nhà máy gây sức ép khiến giá ferrochrome thấp hơn, nguồn cung sẽ bị ảnh hưởng. Điều này sẽ không tốt cho mọi người”.
Các nhà quan sát thị trường cho biết hồi đầu tháng này rằng công suất hoạt động sản xuất tại các tỉnh như Sơn Tây, Tứ Xuyên, Quý Châu và Hồ Nam hoặc là giảm hoặc vẫn giữ ở mức thấp do giá ferrochrome suy yếu nhưng công suất ở Nội Mông Cổ vẫn còn cao.
Thị trường thép cuộn Mỹ chững lại chờ đón thông tin các vụ kiện thương mại
Thị trường thép cuộn Mỹ trong ngày hôm qua vẫn bình ổn do người mua chờ đợi tin tức từ các vụ kiện thương mại .
Một người mua cho biết thị trường HRC dường như giữ ở giá 660 USD/tấn xuất xưởng và các nhà máy mini ở trong hoàn cảnh rủi ro hơn so với các nhà máy khác. Phần lớn người mua chỉ thu mua đủ sản lượng cần dùng, nhưng trớ trêu thay, họ vẫn tiếp tục nhập khẩu.
Các nhà nhập khẩu số lượng lớn HRC thường là các nhà máy ống thép và ống dẫn và các chuỗi trung tâm dịch vụ, đã dần thắt chặt quản lý chuỗi nguồn cung hơn, giảm nhập khẩu đầu cơ khổng lồ và giữ giá mua thép trong nước ở mức cao hơn so với giá thế giới. Các công ty này thương mại thường mua khoảng 2 triệu tấn HRC mỗi năm trong những năm 1990 hiện tại đã giảm khối lượng thu mua xuống vài trăm ngàn tấn mỗi năm.
Thêm vào đó, những ai mua thép với khối lượng lớn có thể đạt được giá tốt hơn 50-70 USD/tấn so với giá thị trường, gây bất lợi cho hàng nhập khẩu.
Người mua vẫn đang gặp khó khăn trong việc nhập hàng do các vụ kiện thương mại . Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC tại mức lần lượt 780-790 USD/tấn xuất xưởng Midwest.
Gía phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống mức thấp 361 USD/tấn
Giá mua phế tàu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ theo đồng dolla đã giảm thêm 5-10 USD/tấn trong tuần này, trong bối cảnh gía phế nhập khẩu suy yếu và đồng Lira mất giá so với đồng dolla trong mấy tuần gần đây.
Giá phế HMS từ xác tàu vỡ hiện được chào bán tới các nhà máy phía Tây gồm IDC và Habas tại mức 370 USD/tấn trong khi giá mua của Ege Celik hiện tại là 365 USD/tấn giao tới nhà máy, cùng giảm 5 -10 USD/tấn so với tuần trước.
Nhà máy thép lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, Erdemir đã giảm giá thu mua phế DKP trong tuần qua xuống còn 870 TRY/tấn (389 USD/tấn), giảm 20 TRY/tấn.
Giá thu mua phế DKP của nhà máy Kardemir vẫn không đổi tại mức 875 TRY/tấn (390 USD/tấn) kể từ ngày 20/8 trong khi nhà máy Colakolgu và Asil Celik cũng vẫn giữ giá thu mua ổn định kể từ ngày 19/8,đạt mức 810 TRY/tấn (361 USD/taans0 và 830 TRY/tấn (370 USD/tấn).
Tuy nhiên, dựa vào sự suy yếu của đồng Lira so với dolla, giá phế DKP theo đồng Lira đã giảm 2-3 USD/tấn so với tuần trước và 15 USD/tấn so với đầu tháng 9.
Dự báo giá thép cây ở Nhật Bản sẽ tăng
Các nhà sản xuất thép cây Nhật Bản đang chuẩn bị gây thêm sức ép lên các khách hàng để họ chấp nhận mức giá cao hơn vì mùa xây dựng cao điểm truyền thống đã bắt đầu. Giá trên thị trường hiện nay của thép cây cỡ thường (16-25mm) tại Tokyo ở khoảng 65.000-66.000 Yên/tấn (597-607 USD/tấn), giảm 5.000 Yên/tấn so với đầu năm nay, còn giá ở Osaka thì cỡ 62.000-63.000 Yên/tấn, thấp hơn khoảng 3.000 Yên/tấn.
Ngoại trừ các nhà sản xuất cung ứng cho khu vực Kanto, xung quanh Tokyo, còn các nhà máy ở những nơi khác trong nước đều đang cố gắng đẩy giá lên vì giá trên thị trường của họ thấp hơn, một nhà phân phối thép xây dựng ở miền tây Nhật Bản nói. Giá ở Kanto cũng cao hơn một chút.
“Các nhà sản xuất thép cây ở nơi khác thậm chí không thể bảo đảm mức lợi nhuận nhỏ nhất sau khi chi phí đầu vào gần đây gia tăng như giá điện và các khoản khác. Họ muốn giá đạt được mức thấp nhất là 65.000 Yên/tấn càng sớm càng tốt”.
Thứ Năm tuần trước, Kyoei Steel, nhà sản xuất thép cây lớn nhất Nhật Bản, thông báo sẽ tăng 3.000 Yên/tấn trên giá thép cây cho những hợp đồng tháng 10, khuyến khích các nhà máy khác làm theo. JFE Bars & Shapes đã quyết định sẽ tăng thêm 6.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 10 tại nhà xưởng Toyohira ở Hokkaido, trong khi hai nhà máy Kishiwada Steel và Nakayama Steel Products nằm gần Osaka thì lại tăng thêm lần lượt 2.000 Yên/tấn và 2.000-3.000 Yên/tấn (tùy theo từng loại và kích thước).
“Giá thép cây ở Hokkaido phải cao hơn bởi vì công ty điện lực Hokkaido đang dự định sẽ tăng giá điện. Vì vậy chúng tôi phải yêu cầu các khách hàng của mình chấp nhận giá tăng mạnh hơn”, quản lý bán hàng của JFE B&S ở Hokkaido nói. HEPCO đang có ý định tăng giá điện lên trung bình 22,61% kể từ tháng 10 đối với các khách hàng tiêu thụ điện năng lớn.
“Việc vận chuyển thép cây sôi động hơn trong tháng này và giá bán ra cũng cao hơn. Giá thị trường sẽ sớm tăng”, một nhà phân phối ở miền tây cho biết.
Kardemir tăng giá thép cây do đồng Lira mất gía
Nhà máy Kardemir đã tăng giá thép cây trong nước do đồng Lira suy yếu mạnh trong mấy tuần gần đây.
Gía chào bán thép thanh tròn đặc từ nhà máy này hiện tại la 1.305 TRY/tấn (584 USD/tấn) xuất xưởng, tăng 21 TRY/tấn (9.4 USD/tấn( so với giá niêm yết ngày 26/8. Thép cây cũng tăng cùng mức tương tự lên 1.288 TRY/tấn (577 USD/tấn) xuất xưởng. Tuy nhiên, do sự suy yếu của đồng Lira, giá chào bán thép cây mới của Kardemir vẫn giảm 7 USD/tấn so với giá niêm yết trước.
Trong khi đó, giá phôi lai và phôi thanh giao dịch bằng đồng dolla của Kardemir vẫn không đổi mặc dù thị trường dự báo giá sẽ giảm do giá chào nhập khẩu giảm và đồng dolla tăng. Gía chào phôi thanh hiện tại là 530-535 USD/tấn xuất xưởng trong khi phôi lai bloom vẫn ở mức 638 USD/tấn xuất xưởng. Gía của các Kardemir chưa tính VAT 18%.
Nhà máy Icdas cũng tăng giá thép cây và cuộn trơn ngày 16/9 thêm 20 USD/tấn do sự suy yếu của đồng Lira. Gía bán thép cây đường kính 12-32mm của nhà máy Icdas đạt mức 1.530 TRY/tấn (685 USD/tấn) xuất xưởng. Trong khi đó, giá thép cây 10mm tăng lên mức 1.540 TRY/tấn xuất xưởng (689 USD/tấn) trong khi thép cây 8mm là 1.550 TRY/tấn xuất xưởng (693 USD/tấn).
Công ty naỳ cũng tăng giá cuộn trơn với mức tương tự lên 1.620-1.685 TRY/tấn xuất xưởng (734-763 USD/tấn). Gía của Icdas đã tính VAT 18%.
Chào giá xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc không đổi trước tuần nghỉ lễ
Chào giá xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc không đổi trong tuần trước. Do sức mua ở nước ngoài vẫn còn yếu ớt nên người bán không có ý định thực hiện bất cứ sự điều chỉnh giá quan trọng nào trước tuần nghỉ lễ Quốc khánh vào đầu tháng 10 tới.
Một vài nguồn tin dự đoán giá sẽ giảm sâu hơn sau lễ, trong khi số khác thì nghĩ rằng đà giảm sẽ hạn chế vì giá đã rớt mạnh xuống khoảng 30 USD/tấn so với cuối tháng 08. Hôm thứ năm, Platts giữ giá niêm yết cho cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm xuất xứ Trung Quốc duy trì ở mức của tuần trước tại 415-420 USD/tấn FOB.
Một thương nhân ở miền đông Trung Quốc đang chào bán cuộn trơn từ nhà máy lower-tier với giá khoảng 415 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, một người khác cho biết chào giá này không còn trong ngày thứ Tư vì nhà máy vừa tăng giá bán trong nước vào chiều cùng ngày, khi phôi thanh tăng nhẹ.
Chào giá phổ biến được niêm yết bởi các thương nhân ở khoảng 420-425 USD/tấn FOB, chủ yếu là dành cho cuộn trơn từ nhà máy Jiujiang Wire Rod và các nhà máy quy mô tương tự. Hôm thứ Tư, Jiujiang Wire Rod một lần nữa duy trì giá bán hàng tuần của mình ở trong nước với mức 2.580 NDT/tấn, mức giá mà theo một vài người cho là thấp.
Nhưng mối quan tâm từ phía người mua vẫn còn thưa thớt, vì các nhà nhập khẩu vẫn giữ triển vọng bi quan về giá thép Trung Quốc. Người mua gần như đã hoàn tất việc đặt mua của tháng này và được cho là sẽ chỉ quay trở lại sau lễ Quốc khánh. “Không có ai sẽ mua trong ngày hôm nay. Họ đang đợi giá thấp hơn nữa”, một thương nhân Manila nói. Tuần trước, một hợp đồng cuộn trơn Trung Quốc được chốt với giá 441 USD/tấn CFR Cebu. Một người khác cho biết cuộn trơn Trung Quốc đang phổ biến ở mức 435-440 USD/tấn CFR Philippines.
Tại thị trường trong nước, cuộn trơn Q195 đường kính 6.5m ở Thượng Hải tiếp tục rớt giá trong tuần này xuống 2.680-2.700 NDT/tấn (437-440 USD/tấn) gồm VAT 17%, so với mức 2.770-2.780 NDT/tấn của thứ Tư tuần trước.
Giá HRC tăng nhẹ ở Trung Quốc nhờ giá giao kỳ hạn cao hơn
Giá HRC Trung Quốc ở trong nước đã nhích nhẹ lên trong ngày thứ Tư nhờ giá giao kỳ hạn tăng; tuy nhiên, doanh số bán ra vẫn còn khiêm tốn và các đại lý cho biết sự phục hồi của giá có thể sẽ rất mong manh nếu không có sự cải thiện từ sức mua thực tế.
Hôm thứ Tư, Platts đã tăng giá niêm yết cho HRC Q235 5.5mm lên 2.910-2.940 NDT/tấn (473-478 USD/tấn) bao gồm VAT 17%, tăng 10 NDT/tấn so với thứ Ba. Giá hợp đồng tháng 01 của HRC trên sàn Shanghai Futures Exchange được chốt ở mức 2.834 NDT/tấn trong ngày thứ Tư, cao hơn 0,43% so với thứ Ba.
“Không có sự cải thiện nào trong doanh số bán ra hôm nay do người mua trực tiếp vẫn đang đợi đặt mua ở giá thấp hơn. Nền kinh tế suy yếu là yếu tố quan trọng khiến sức tiêu thụ thép bị hạn chế trong năm nay, và với nhu cầu gia tăng không đáng kể được dự báo sau lễ, giá thép có lẽ sẽ tiếp tục đi xuống do nguồn cung nhiều hơn”, một đại lý lớn ở Thượng Hải nói.
Một nhà phân tích tại Bright Futures ở Thượng Hải cho rằng nhu cầu tiêu thụ thép “nhỏ giọt” là hệ quả của những cải cách kinh tế. Chính phủ Trung Quốc đang nỗ lực phấn đấu để thúc đẩy các ngành công nghiệp thứ ba (hay còn gọi lĩnh vực dịch vụ) thay vì các ngành công nghiệp sản xuất. Điều này đồng nghĩa với mức tiêu thụ thép giảm.
Các thương nhân và nhà phân tích ở Thượng Hải nói sự phục hồi giá nhẹ là hợp lý sau khi giảm mạnh hôm thứ Hai, và giá HRC có khả năng sẽ biến động trong phạm vi hẹp quanh mức 2.900 NDT/tấn trong vài ngày tới.
Các nhà máy thép đã phải đối mặt với áp lực lớn để giữ được đơn đặt hàng trong tháng này, được minh chứng qua tỷ lệ tồn kho tăng 5,1% tại các nhà máy thành viên thuộc Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA) trong thời gian từ ngày 11-20/9 được công bố hôm thứ Tư.
Giá chào thép mạ xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm trong tuần này do sức mua yếu ớt
Giá chào thép mạ xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm trong tuần này do nhu cầu tiêu thụ tại các thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trong khi tỷ giá hối đoái biến động.
Giá chào HDG 0.5mm xuất khẩu Thổ nhĩ Kỳ đã giảm thêm 5 USD/tấn còn 765-790 USD/tấn FOB trong tuần này trong khi giá chào xuất khẩu PPGI 9002 0.5mm đạt mức 865-890 USD/tấn FOB, giảm cùng mức tương tự.
Tuy nhiên, giá chào HDG 0.5mm trong nước vẫn tương đối ổn định tại mức 780-810 USD/tấn xuất xưởng trong khi chào giá PPGI 9002 0.5mm cũng không đổi, đạt mức 880-910 USD/tấn xuất xưởng. Tuy nhiên, các nhà máy vẫn đang chiết khấu cho các đơn hàng lớn.
Nhu cầu tiêu thụ suy yếu vơí giá chào xuất khẩu rẻ hơn từ Trung Quốc tiếp tục gây áp lực tới giá chào bán. Gía HRC mạnh vẫn chưa thể tạo nên được hiệu ứng tích cực nào cho thị trường thép nội địa. Nhu cầu tiêu thụ trong nước tốt hơn xuất khẩu nhưng các nhà máy vẫn phải dùng chiết khấu để cạnh tranh nhau.
Trong khi đó, giá chào HRC sản xuất tháng 11 vẫn đạt mức 590-605 USD/tấn xuất xưởng, không đổi so với tuần qua trong khi giá chào xuất khẩu là 580-585 USD/tấn FOB.
Giá HRC Ấn Độ ổn định, bị bó buộc bởi thép nhập khẩu Trung Quốc
Giá HRC Ấn Độ tại thị trường nội địa ổn định trong tháng này. Giá nhập khẩu Trung Quốc suy yếu rất có thể đã làm cản trở việc nâng chào giá của các nhà máy trong nước cho những hợp đồng tháng 10.
Giá giao dịch HRC IS2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên tiếp tục duy trì mức trung bình 34.500-35.500 rupees/tấn (566-583 USD/tấn) xuất xưởng. Mức giá này tương đương 527-542 USD/tấn CFR Mumbai (trong đó thuế suất nhập khẩu 7.5%).
Các chào giá HRC SS400 loại thương phẩm dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc trong khoảng 480-485 USD/tấn FOB (tương đương 510-515 USD/tấn CFR Mumbai). Có 25.000-30.000 tấn HRC Trung Quốc được đặt mua với giá 510 USD/tấn CFR Mumbai suốt tuần qua. Mức giá này giảm so với chào giá 530-535 USD/tấn CFR Mumbai trong suốt tuần đầu tiên của tháng 09.
“Các nhà máy trong nước đã không điều chỉnh giá đi lên bởi vì tâm lý bi quan khi giá nhập khẩu từ Trung Quốc sụt giảm”, một thương nhân ở Mumbai nói. Các nhà máy Ấn Độ sẽ không bị sức ép để giảm giá vào tháng tới vì HRC Trung Quốc đặt mua tuần này được dự kiến giao tháng 12.
Một thương nhân từ Andhra Pradesh cho biết nhu cầu trong nước từ các nhà máy cán lại đang chậm lại. Hầu hết các thương nhân đã bổ sung thêm hàng tích trữ trước lễ Diwali diễn ra từ ngày 22-23/10.
Tuy nhiên, một nhà tích trữ ở Mumbai tin rằng người mua sẽ tiếp tục thu mua trong 2-3 tháng tới.
Giá phôi phiến CIS vẫn chưa xác định, thị trường chờ đợi sự trở lại của Ukraina
Giá xuất khẩu phôi phiến Nga vẫn chưa xác định do các nhà máy nhất quyết giữ giá bán là 495-505 USD/tấn trong khi người mua chỉ chấp nhận trả ở mức 480-485 USD/tấn.
Dưới ánh sáng phục hồi của ngành dịch vụ đường sắt giữa Lugansk và Kiev, vài thương nhân cho rằng đây là tín hiệu tốt để nối lại hoạt động vận chuyển hàng hóa. Điều này có nghĩa là nhà máy Alchevsk Iron & Steel Works ở Lugansk đông Ukraina có thể sản xuất phôi phiến và thép tấm trở lại do có thể nhận được nguyên liệu thô.
Nhà máy Alchevsk Iron & Steel Works đã treo sản xuất gần 2 tháng nay nên rất nôn nóng sản xuất. Một khi tái sản xuất, nó sẽ hoạt động hết công suất. Các đồn đoán về việc Ukraina cắt giảm giá đã khiến các thương nhân và các nhà cán lại do dự mua phôi phiến Nga.
Tuy nhiên, một nguồn tin tại Alchevsk cho biết vận chuyển hành khách bằng đường sắt đã hoạt động trở lại nhưng vận chuyển hàng hóa đã bị cấm. Các nhà quản lý đường sắt ở Donesk cho rằng Alchevsk chưa thể tái sản xuất sớm. Hai tuyến đường sắt chính nối Alechevsk tới các nhà cung cấp nguyên liệu thô bên ngoài và các khách hàng- Krasniy Liman–Nikitovka–Debaltsevo–Kommunarsk và Krasnoarmeysk–Yasinovataya–Debaltsevo–Kommunarsk đã bị thiệt hại nghiêm trọng bao gồm 2 cầu bị phá hủy do các vụ nổ bom. Các nhà máy vẫn chưa thể sản xuất trở lại do chiến tranh vẫn còn tiếp diễn xoay quanh Donetsk.
Giá thép tấm trong nước và xuất khẩu Trung Quốc lún sâu hơn
Giá xuất khẩu của thép tấm dày Trung Quốc tiếp tục đi xuống trong tháng này giữa bối cảnh nhu cầu nước ngoài trì trệ và giá trong nước suy yếu. Các nhà xuất khẩu mà Platts khảo sát cho biết thị trường Trung Quốc ảm đạm và giá xuất khẩu giảm đã làm chậm sức mua ở nước ngoài do khách hàng nấn ná chờ cho giá rớt thêm nữa.
Platts định giá xuất khẩu cho thép tấm SS400 12-30mm là 475-480 USD/tấn FOB hôm 24/9, giảm 15 USD/tấn so với cuối tháng trước, mạnh hơn so với 10 USD/tấn của đà giảm trong tháng 08 so với tháng 07.
Một vài nhà xuất khẩu cho biết giá quặng sắt và giá thép trong trong nước gần đây cùng chiều đi xuống đã gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý thị trường xuất khẩu. Một người nói rằng thật khó để nói giá thép tấm đã chạm đáy hay chưa vì giá quặng sắt cũng như giá HRC xuất khẩu và cả trong nước vẫn đang tiếp tục suy yếu. Ông cho biết chào giá phổ biến từ các nhà máy vẫn ở quanh mức 480 USD/tấn FOB, nhưng mức giá này hiện nay có thể thương lượng xuống vài đôla do các nhà máy đang nỗ lực để thu hút đơn đặt hàng.
Một nhà xuất khẩu khác cho biết các giao dịch có giá 480 USD/tấn FOB là rất ít và cơ bản chỉ dành cho hoạt động thu mua theo thường lệ của một vài người mua. Nhưng hầu hết các nhà máy vẫn tiếp tục giữ mức giá này vì họ tin cần có thêm thời gian để thấy những phản ứng của người mua.
Về phía thị trường nội địa, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch chủ yếu với giá 2.950-2.980 NDT/tấn (481-486 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải hôm 24/9, giảm 270 NDT/tấn so với cuối tháng trước.
Một thương nhân trong nước cho biết đà giảm đã dần chậm lại do các giao dịch cải thiện ở mức giá sàn. Tuy nhiên, ông không tin là giá sẽ trở nên ổn định ngay lập tức bởi vì tuy nhu cầu không xuất hiện trong tháng 08 nhưng sản lượng thép vẫn còn ở mức cao trong tháng 09.