Giá chrome nhập khẩu vào Trung Quốc giảm do sức mua trì trệ
Hôm thứ Sáu tuần trước, giá giao ngay của quặng chrome (Cr 48-52%) xuất xứ Nam Phi được Platts chốt tại 83-84 cents/pound CIF Trung Quốc, giảm nhẹ so với mức 83-85 cents/lb CIF của tuần trước đó do sức mua chậm. Giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) xuất xứ Ấn Độ vẫn duy trì không đổi so với tuần trước đó tại 84-85 cents/lb CIF.
Tuần trước, một nhà sản xuất Nam Phi đã bán khoảng 1.000 tấn quặng chrome cho một thương nhân Trung Quốc với giá 84 cents/lb CIF Thượng Hải, dự tính sẽ giao vào đầu tháng 01. “Chúng tôi không mấy hài lòng với mức giá này nhưng không có nhiều người muốn mua quặng chrome vào thời điểm này. Lực mua hiện rất yếu”, theo một nguồn tin gần nhà sản xuất này.
Một nhà sản xuất thép không gỉ của Trung Quốc cũng đã mua 2.000-3.000 tấn ferrochrome từ Ấn Độ trong tuần trước với giá khoảng 84-85 cents/lb CIF miền đông Trung Quốc, giao vào đầu tháng 01.
Không có giao dịch nào khác được nghe nói nhưng những người trong ngành thép cho rằng mức giá có thể giao dịch đối với quặng chrome Nam Phi và ferrochrome hàm lượng cacbon cao của Ấn Độ có giá lần lượt tại 83-84 cents/lb CIF và 84-85 cents/lb CIF.
Đa số các nguồn tin đều đồng tình rằng nhu cầu nhập khẩu ferrochrome và quặng chrome vẫn còn yếu do nguồn cung trong nước dồi dào, chênh lệch cao giữa giá đặt mua và chào bán cũng như sự bất ổn về xu hướng giá trong ngắn hạn.
Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết nhà cung cấp người Ấn Độ của bà đã hạ giá chào bán xuống 1 cent/lb còn 85 cents/lb CIF vào tuần trước. “Nhưng khách hàng của chúng tôi chỉ muốn mua với giá 1 cent/lb to 85 cents/lb CIF mà thôi”, bà nói.
Giá quặng sắt giao ngay nhập khẩu vào Trung Quốc giảm nhẹ do nhu cầu suy yếu, giao dịch thưa thớt
Giá quặng sắt giao ngay trong tuần trước giảm nhẹ do tín dụng bị thắt chặt và sức mua suy yếu cùng với giao dịch trì trệ. Hôm thứ Sáu, giá quặng sắt 62% Fe được chốt tại 135,75 USD/tấn CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 1 USD/tấn so với tuần trước đó. Giá tại TSI của quặng sắt 62% Fe giao tới miền bắc Trung Quốc cũng giảm 30 cents so với tuần trước đó xuống còn 136,5 USD/tấn.
Tín dụng bị thắt chặt là một vấn đề trong suốt tuần qua, được biết một số nhà máy đã bán những lô hàng nhập khẩu tính bằng NDT để có tiền mặt do gần đến cuối năm các ngân hàng đang hạn chế cho vay và yêu cầu thanh toán các khoản vay trước đây đã làm cho các nhà máy hạn chế khả năng mua sắm nguyên liệu giao ngay.
Ngoài vấn đề tín dụng ra, thị trường thép suy yếu cũng làm hạn chế việc thu mua nguyên liệu. Giá của các sản phẩm thép chủ lực chẳng hạn như thép cây và thép cuộn cán nóng cũng chịu áp lực từ sức mua yếu ớt cộng thêm thời tiết lạnh làm chậm công suất hoạt động trong các ngành tiêu dùng trực tiếp như xây dựng.
Trong suốt tuần qua, các nhà máy có lợi nhuận rất khiêm tốn chỉ có khoảng 100-150 NDT trên mỗi tấn thép thô sản xuất ra, và điều này khó mà làm cho sản lượng mạnh lên trong 10 ngày đầu tiên của tháng 11.
Mặc dù sức mua yếu và giao dịch tương đối thiếu tính thanh khoản, nhưng có một yếu tố hậu thuẫn cho giá quặng sắt, đó là nguồn cung của các loại quặng chất lượng và trung bình nhập vào Trung Quốc bị hạn chế. Nếu không nhờ điều này thì giá quặng sắt có thể đã rớt xuống mức 130 USD/tấn. Mùa mưa ở Brazil hay khả năng có lốc xoáy đến Australia có thể làm cho giá cao hơn trong tháng 12. Một nhà sản xuất thép thừa nhận các nhà máy Trung Quốc cần đảm bảo có đủ nguyên liệu để sản xuất trước khi kết thúc tháng 12.
Nhu cầu quặng sắt càng trở nên trì trệ vào mùa đông ở Trung Quốc chậm lại vào mùa đông, cùng với việc các nhà máy tập trung thu mua nguyên liệu sạch và hiệu quả hơn. Do đó, các loại nguyên liệu có chất lượng thấp không được ưa chuộng và nguồn cung dư thừa đang gây sức ép lên giá của các loại có hàm lượng sắt khoảng 57/58% Fe.
Thép không gỉ Châu Á giảm do nhà cung cấp hạ giá chào bán
Hôm thứ Sáu tuần trước, thép cuộn cán nóng không gỉ loại 304 2B dày 2mm xuất xứ Đông Á giảm từ mức 2.300-2.400 USD/tấn CFR của tuần trước đó xuống còn 2.280-2.350 USD/tấn CFR các cảng chính ở Đông Á, do người bán đã cắt giảm bớt chào giá để có được hợp đồng.
Tuần trước, một thương nhân Hong Kong nghe nói có một hợp đồng 200 tấn CRC của Hàn Quốc với giá 2.280 USD/tấn CIF Trung Quốc, giao hàng trong vòng 1-2 tháng. Ông này nghe nói rằng số lượng các đơn đặt hàng tại nhà máy Hàn Quốc này không nhiều do đó họ sẵn sàng hạ giá chào bán xuống.
Những người tham gia thị trường khác cho biết 2.280 USD/tấn CIF có thể mua được CRC của Hàn Quốc mặc dù một thương nhân người Đài Loan tin rằng mức giá này có thể bị hạn chế. “Thường thì các nhà cung cấp Hàn Quốc chỉ định rõ một lượng thép mà họ có thể bán với mức giá thấp. Khi số lượng này được bán hết thì họ sẽ tăng giá trở lại”, bà nhấn mạnh.
Tuần trước, các chào giá CRC Hàn Quốc ở khoảng 2.340-2.350 USD/tấn CFR, so với mức giá khoảng 2.350 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Các thương nhân tin chắc là họ sẽ mua được CRC Hàn Quốc với giá chỉ có 2.300 USD/tấn CFR. Giá đang dần đi xuống và hiện nay thị trường rất ư là trì trệ, một thương nhân Hong Kong nói.
Chào giá CRC Đài Loan tầm 2.320-2.400 USD/tấn CFR trong tuần trước, giảm từ mức 2.350-2.400 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Các thương nhân thấy giá có thể giao dịch của CRC Đài Loan là khoảng 2.300-2.350 USD/tấn CFR, nhưng nói rằng các hợp đồng khó mà chốt được do người bán ở đây ít sẵn lòng để giảm giá chào bán so với các nhà cung cấp Hàn Quốc.
“Giá thép không gỉ có thể sẽ tiếp tục giảm thêm nữa trong thời gian tới do giá niken vẫn còn suy yếu”, một thương nhân người Đài Loan nói. Vào tuần trước, khách hàng của ông này đã giảm giá đặt mua xuống 50 USD/tấn còn 2.300 USD/tấn CIF Đông Nam Á.
Thép cây miền bắc Trung Quốc quay đầu giảm nhẹ sau ngày tăng giá ngắn ngủi
Thị trường thép cây miền bắc Trung Quốc giảm nhẹ hôm thứ Sáu tuần trước sau một ngày tăng giá vào thứ năm. Các nguồn tin cho biết cầu không đủ lực để hỗ trợ cho giá, mặt khác còn phải chịu sức ép do một số đại lý cắt giảm giá chào bán để tăng cường thu hồi tiền mặt vào cuối tháng.
Hôm thứ Sáu tuần trước, tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm từ nhà máy Hebei Iron & Steel (Hegang) đã quay lại mốc 3.380-3.390 NDT/tấn (554-556 USD/tấn) gồm VAT 17%, giảm nhẹ so với mức 3.380-3.400 NDT/tấn của ngày thứ Năm.
Một thương nhân ở Bắc Kinh nghĩ rằng giá giảm là do một số đại lý lớn cắt giảm chào giá để có tiền mặt. Tuy nhiên, ông này dự đoán giá sẽ ngừng giảm vào tuần cuối cùng của tháng 11.
Một thương nhân khác cũng đồng tình với quan điểm rằng các đại lý đã nỗ lực giải phóng hàng tồn để thu hồi tiền mặt trước khi mùa đông kết thúc. Điều này đã làm cho giá giảm mặc dù lượng hàng tồn còn thấp.
Giá tăng ngắn ngủi hôm thứ Năm đã không khích lệ được sức mua, thị trường không có sự cải thiện nào để hỗ trợ cho một đợt phục hồi.
Hôm thứ Sáu tuần trước, giá thép cây giao kỳ hạn tháng 05/2014 trên sàn Shanghai Futures Exchange (SHFE) được chốt tại 3.614 NDT/tấn, tăng 0,06% so với ngày trước đó và cũng đánh dấu mức tăng nhỏ khoảng 0,6% trong tuần trước.
Thị trường thép ống đúc miền đông Trung Quốc nới lỏng hơn do cầu yếu
Đang vào mùa mùa tiêu thụ ế ẩm cùng với triển vọng thị trường bi quan đã kéo giá thép ống đúc trên thị trường giao ngay ở miền đông Trung Quốc giảm xuống trong tuần trước. Mặc dù một số nhà sản xuất thép tròn đặc ở tỉnh Sơn Đông và Giang Tô thuộc miền đông Trung Quốc đã thông báo là sẽ vẫn giữ nguyên giá xuất xưởng đối với hàng giao từ ngày 21-30/11 nhưng giá trên thị trường thì vẫn cứ lao dốc.
Hôm thứ sáu tuần trước, Platts đã định giá thép ống 20# 219x6mm (GB/T 8163) xuất xưởng từ các nhà máy ở phía đông Trung Quốc khoảng 4.200-4.250 NDT/tấn (689-697 USD/tấn) gồm VAT 17%, giảm đến 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) so với tuần trước đó.
Các thương nhân đã tăng cường việc thương lượng do họ muốn giải quyết cho xong đống hàng tồn do nhiệt độ ngày càng lạnh hơn đã làm cho sức mua từ các lĩnh vực bị thu hẹp hơn nữa chẳng hạn như ngành xây dựng và công nghiệp sản xuất.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại được minh chứng bởi chỉ số quản lý sức mua (PMI) từ báo cáo của HSBC, cụ thể trong tháng 11 chỉ số này đã giảm nhẹ từ 50,9 của tháng trước xuống còn 50,4.
Tuy nhiên, giá xuất xưởng 10 ngày gần đây của thép tròn đặc được thông báo hôm 21/11 đã hậu thuẫn cho giá thép ống đúc từ các nhà cán lại, ít nhất là trong ngắn hạn.
Zenith Steel Group ở tỉnh Giang Tô đã thông báo hôm 21/11 rằng nhà máy sẽ vẫn giữ giá thép tròn đặc loại 20# 50-130mm duy trì tại 3.650 NDT/tấn (599 USD/tấn) gồm VAT.
Hai nhà máy khác trong khu vực gồm Huaigang Special Steel và Changqiang Iron & Steel đã giữ giá tại mức lần lượt 3.660 NDT/tấn (601 USD/tấn) và 3.600 NDT/tấn xuất xưởng, có VAT 17% cho hàng giao cuối tháng 11.
Cùng ngày, nhà máy Weifang Special Steel ở tỉnh Sơn Đông cho biết cũng sẽ giữ giá thép tròn đặc loại 20# 50-130mm không đổi tại 3.310 NDT/tấn (544 USD/tấn) xuất xưởng đã có VAT 17%.
HRC tăng giá tại Việt Nam, các nhà sản xuất Thái Lan tìm kiếm giao dịch
HRC SAE 1006B dày 2mm xuất xứ Trung Quốc đã được các thương nhân Việt Nam đặt mua với giá 555 USD/tấn CFR Việt Nam trong tuần kết thúc ngày 15/11. Các thương nhân cho biết nhiều nhà cán lại ở Việt Nam đã thu mua tổng cộng 100.000-150.000 tấn HRC giao từ tháng 01 đến tháng 03.
Mức giá này cao hơn 10 USD/tấn so với các hợp đồng đã ký kết trong tuần đầu tiên của tháng 11. “Người mua hiện đang trả giá khoảng 550-555 USD/tấn CFR”, một nhà cán lại trong nước nói hôm thứ Sáu tuần trước. Trong khi đó, chào giá lại phổ biến tại 560-565 USD/tấn CFR.
Một lô HRC SAE 1006B dày 2mm của Trung Quốc có trọng lượng 10.000 tấn gần đây đã được chào bán với giá 545-550 USD/tấn CFR Việt Nam. Các nguồn tin không rõ là đã tìm được người mua hay chưa.
Trong hai tuần qua, nhiều nhà cán lại Việt Nam đã và đang thương lượng với các nhà cung cấp về loại thép trên và HRC dày từ Nhật Bản. Các nhà nhập khẩu Việt Nam đã đưa ra giá đặt mua tại 560-565 USD/tấn CFR trong khi HRC Nhật Bản có chào giá ban đầu là 590 USD/tấn CFR. HRC Đài Loan cũng được chào bán với giá 590 USD/tấn CFR Việt Nam.
Giá giao dịch của HRC SS400B dày 3-12mm được chốt tại 540 USD/tấn CFR Việt Nam, tăng 5 USD/tấn so với đầu tháng 11. Tuy nhiên, có rất ít giao dịch được thực hiện do một vài thương nhân cho biết họ đã liên lạc trực tiếp với các nhà cung cấp này.
Còn tại Thái Lan, HRC dày từ 1.9mm trở lên xuất xứ từ Brazil được chốt trong tuần trước với giá 580 USD/tấn CFR.
Đầu tháng này, Sahaviriya Steel Industries, cùng với các nhà sản xuất HRC khác ở Thái Lan, đã cùng nhau đưa một đơn kiện để bảo vệ quyền lợi của họ đối với HRC rộng từ 1.550 mm trở lên. Bộ Thương Mại Thái Lan đã nhận đơn kiện hồi ngày 04/11 nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy có động tĩnh gì, theo các nguồn tin ở Bangkok cho hay. HRC dày từ 1.600 mm trở lên đang được nhập khẩu vào Thái Lan để lách thuế chống bán phá giá nhắm vào HRC từ 14 quốc gia.
Thị trường HRC Trung Quốc không có dấu hiệu cải thiện
Thị trường HRC trong nước ở Trung Quốc vẫn tiếp tục gặp khó vào tuần trước, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sẽ có sự phục hồi trong ngắn hạn. Hơn thế, các thương nhân quan ngại rằng hàng tồn kho có lẽ sẽ tăng lên trong thời gian tới khi sức mua suy yếu vào mùa đông cũng như sản lượng thép thô bật tăng hồi đầu tháng 11.
Cục thống kê quốc gia (NBS) đưa tin rằng sản lượng HRC theo ngày của Trung Quốc trong tháng 10 đã giảm 3,7% so với tháng 09 còn 504.452 tấn/ngày. Tuy nhiên, các nguồn tin cho biết sản lượng sẽ tăng trở lại trong tháng 11 do giá phục hồi một thời gian ngắn hồi đầu tháng này đã khuyến khích các nhà máy gia tăng công suất.
Mặc dù có nhiều sự biến động nhỏ nhưng sản lượng HRC trong 10 tháng đầu năm nay cũng đã tăng 10,9% so với cùng kỳ năm ngoái đạt 155.161 triệu tấn, theo NBS.
Sản lượng tăng cao không chỉ làm ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của ngành thép mà còn dẫn đến một vài nhà máy có chiến thuật thương lượng lại giá sau khi giao hàng để có được người mua, một thương nhân ở Thượng Hải nói. Ông cho biết các nhà máy thỏa thuận giá với các thương nhân dựa trên giá giao ngay bình quân 15 ngày, sau khi việc giao hàng được hoàn tất, điều này làm cho các thương nhân giảm giá nhanh hơn so với những đối tượng khác trên thị trường mà không sợ bị lỗ.
Hôm thứ Sáu tuần trước, HRC Q235 5.5mm được chốt tại 3.460-3.490 NDT/tấn (568-573 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 3.600-3.620 NDT/tấn có VAT tại thị trường Lecong (Quảng Đông), cả hai mức giá này đều không đổi so với ngày trước đó.
Một số thương nhân cho hay lượng hàng tồn còn ít đã giúp cho HRC không bị rớt giá quá nhiều. Nhưng thị trường chỉ có thể thực sự cải thiện nếu chiến dịch kiểm soát vấn đề ô nhiễm được diễn ra một cách liên tục có hiệu quả nhằm làm giảm bớt sản lượng thép của Trung Quốc.
HDG xuất khẩu của Ấn Độ tăng nhờ nhu cầu tái bổ sung hàng tồn ở Mỹ
Giá HDG xuất khẩu của Ấn Độ đã tăng 15 USD/tấn trong tuần trước do các khách hàng ở Mỹ có nhu cầu tái bổ sung hàng tồn.
Giá giao dịch của HDG phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông dày 0.3mm được chốt tại 850-860 USD/tấn CFR Mỹ, tăng 15 USD/tấn (1,8%) so với tuần trước đó. Các lô hàng này sẽ được giao vào tháng 01/2014, trong đó bao gồm phí vận chuyển khoảng 55-60 USD/tấn.
“Trong khi sự gia tăng của lĩnh vực nhà ở tại Mỹ tiếp tục hậu thuẫn cho thị trường HDG xuất khẩu thì hầu hết người mua giao ngay hiện đang tái bổ sung hàng tồn”, một thương nhân ở Mumbai nói. Nguyên nhân là do những lô hàng giao tháng 01 sẽ đến sau khi thuế đánh trên hàng tồn tại các nhà kho đã được áp dụng vào ngày 31/12 rồi, ông này lý giải.
Niềm tin thị trường hiện nay cho thấy đồng Rupee của Ấn Độ có lẽ sẽ tiếp tục suy yếu hơn nữa, một nhà sản xuất thép ở Mumbai nói. Ngành bán lẻ ở Mỹ mạnh lên do được hỗ trợ bởi mùa nghỉ lễ sắp tới vào tháng 12, cũng đang hậu thuẫn cho giá trị đồng bạc xanh tăng so với đồng Rupee.
Đồng Rupee Ấn Độ đã chạm mức thấp kỷ lục hôm 28/8 (1 USD đổi được 68,85 Rupee) trước khi ổn định quanh mức 1 USD đổi được khoảng 60-61 Rupee trong hai tháng qua. Tuy nhiên, đến thứ ba tuần trước, giá trị đồng Rupee lại bị rớt xuống mức thấp của hai tháng tại 63,5 Rupee/1 USD. Về mặt tích cực, sự suy yếu của đồng Rupee sẽ giúp cải thiện thị trường xuất khẩu và giảm thâm hụt cán cân thương mại, một quan chức nhà máy nói.
Tấm mỏng nội địa Mỹ tăng, kéo dãn chênh lệch giá với hàng nhập khẩu
Thị trường phế tại Nhật Bản và Hàn Quốc tăng giá trong tuần qua
Giá mua phế ở miền tây nước Nhật đã tăng thêm 500 Yên/tấn (5 USD/tấn) sau khi nhà máy Tokyo Steel nâng giá mua với mức tương tự cho tất cả các loại phế ở hầu hết xưởng của nhà máy (ngoại trừ xưởng Utsunomiya), áp dụng cho những lô hàng giao từ ngày 20/11. Giá mua phế H2 của nhà máy này ở xưởng Utsunomiya thuộc phía bắc Kanto là 38.500 Yên/tấn (381 USD/tấn).
Các thương nhân đang thu mua phế H2 tại khu vực Vịnh Tokyo để xuất khẩu với giá khoảng 37.000-38.000 Yên/tấn (366-376USD/tấn) FAS, cao hơn 500-1.000 Yên/tấn so với tuần trước đó. Họ đã nhắm đến mức giá xuất khẩu phế H2 tối thiểu phải được 38.000 Yên/tấn FOB.
Hôm thứ Sáu tuần trước, Hyundai Steel đã đặt mua phế H2 và phế Shindachi của Nhật với giá lần lượt 37.500 Yên/tấn (371 USD/tấn) FOB và 43.000 Yên/tấn. Do mức giá đặt mua thấp hơn giá mục tiêu mà các nhà cung cấp của Nhật đưa ra nên nhà máy Hyundai Steel không chắc sẽ mua được với khối lượng lớn.
Thứ Năm tuần trước, Posco P & S đã đưa ra giá đặt mua phế Shindachi tầm 44.500 Yên/tấn CFR (tương đương khoảng 42.500 Yên/tấn FOB). Do nhà máy JFE Bars & Shapes ở Sendai, miền bắc Nhật Bản đã mua loại phế này với giá 43.000 Yên/tấn FOB Vịnh Tokyo nên các nguồn tin của Nhật cho rằng mức giá đặt mua của Posco hiện đang quá thấp.
Các đơn đặt hàng phế HMS 1 xuất xứ từ Mỹ (lô lớn) được ký kết khoảng giữa tháng này có giá 409-410 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Các thương nhân Hàn Quốc cho hay 410 USD/tấn có lẽ là mức cao nhất mà nhiều nhà máy lò hồ quang điện Hàn Quốc sẽ thanh toán để đảm bảo có được phế của Mỹ. Chào giá phế HMS 1 của Mỹ phổ biến từ 415 USD/tấn CFR trở lên.
Tại Hàn Quốc, phế trong nước được dự đoán sẽ tăng từ đầu tháng tới. Hyundai và Dongkuk Steel Mill cũng sẽ nâng giá mua phế liệu lên thêm 10.000 Won/tấn (9 USD/tấn) đối với tất cả các loại phế ở hầu hết các phân xưởng kể từ ngày 02/12.
Giá thép cây nội địa Tây Bắc EU tăng dựa trên giá chào bán tăng và thiếu hụt hàng nhập khẩu
Các nhà máy thép cây Pháp đã tăng giá chào bán thép cây thêm 10 Euro/tấn để hưởng ứng theo thông báo tăng giá trước đó của các nhà máy Đức hồi đầu tháng. Trong khi đó, gía phế tháng 11 nội địa Pháp cũng đã nhích thêm 10 Euro/tấn, cùng mức tăng với các thị trường Châu Âu khác.
Do vậy, các nhà máy Pháp đã chính thức chào bán thép cây tại mức giá giao cơ bản 250 Euro/tấn (tầm 500 Euro/tấn giá giao thực tế). Tuy nhiên, giá giao dịch đã đạt mức 235 Euro/tấn giá giao cơ bản trước khi họ đặt mục tiêu giá là 240 Euro/tấn.
Hầu như các người mua đều không vội mua hàng do họ có tới 1 tháng để làm việc này. Dù vậy, một vài nhà tiêu thụ cuối cho biết họ sẽ chấp nhận giá tăng, do giá chào nhập khẩu từ các nước Tây Ban Nha và Ý cũng ở mức tương tự.
Trong khi đó, các nhà máy Đức đang đặt mục tiêu giá ở mức 270 Euro/tấn giá giao cơ bản ( tầm 520 Euro/tấn giá giao thực tế), tuy nhiên, các giao dịch chỉ đạt mức 260 Euro/tấn giá giao cơ bản do nhu cầu tiêu thụ còn hạn chế với sự trì trệ của thị trường xây dựng trong mùa đông. Tuy nhiên, họ cũng đã đạt được mức tăng 8-10 Euro/tấn trong nửa tháng qua. “ Nhu cầu tiêu thụ chậm và chúng tôi đang nỗ lực giữ giá”, một nhà sản xuất thép cây cho biết.
Bên cạnh đó, một yếu tố khác giúp hỗ trợ giá thép cây ở Đức là do sự cạnh tranh giảm từ hàng nhập khẩu BaLan do tỷ giá đồng Euro/USD gây bất lợi hàng nhập khẩu. Một vài nhà máy thép cây Ý đang bán hàng sang Đức, tuy nhiên, giá chào bán rất gần với giá nội địa Đức, tầm 510-520 Euro/tấn giá giao thực tế.
Gía Platts đối với thép cây Tây Bắc Âu cũng đã tăng thêm 2 Euro/tấn trong ngày 22/11, đạt mức 485 Euro/tấn (659 USD/tấn) giá giao xuất xưởng thực tế.