Xuất khẩu HDG Thổ Nhĩ Kỳ vấp phải sự cạnh tranh gay gắt
Chênh lệch giá xuất khẩu HDG tới thị trường Châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ với các đối thủ vẫn ở mức 40-60 USD/tấn mặc dù các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có giảm giá chào vào tuần qua. Tuy nhiên, họ đang phải vất vả hơn khi tìm kiếm các đơn hàng lớn.
Một nhà máy cho biết, nhu cầu tiêu thụ từ Châu Âu có cải thiện hơn trong mấy ngày gần đây nhưng các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn. Mặc dù giá chào bán từ Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm, song các nhà máy Việt Nam và Ấn Độ vẫn có ưu thế với giá chào bán thấp hơn. Các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đã nhận được các đơn hàng lớn từ Châu Âu hồi Q1 năm nay và đã nhận đủ đơn hàng cho tới tháng 6. Tuy nhiên, hầu hết các nhà máy này vẫn đang mở cửa nhận đơn hàng xuất khẩu tháng 6.
Nhu cầu tiêu thụ thép mạ trong nước cũng có dấu hiệu cải thiện trong mấy ngày gần đây do đồng Lira tăng giá. Tuy nhiên, người mua vẫn thận trọng khi đặt các đơn hàng lớn. Giá chào bán HDG 0.5mm trong nước phổ biến ở mức 730-750 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ hai trong khi giá chào HDG 1mm ở mức 660-670 USD/tấn xuất xưởng. Giá chào xuất khẩu thấp hơn giá trong nước 10 USD/tấn.
Trong khi đó, thị trường HRC tiếp tục gặp áp lực do các giá chào nhập khẩu từ CIS đã suy yếu theo giá chào từ Trung Quốc. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang chào bán HRC tại mức 520-530 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ hai, không đổi so với tuần trước. Nếu giá HRC giảm nữa thì giá thép mạ sẽ giảm theo nhưng các nhà máy có thể cố gắng giữ giá trong nước trong ngắn hạn mặc dù tâm lý thị trường toàn cầu nhìn chung suy yếu.
Giá thép cây Châu Á ổn định theo giá giao kỳ hạn
Thị trường thép cây xuất khẩu Châu Á ổn định trong ngày đầu tuần do giá thép cây giao kỳ hạn tại Thượng Hải không đổi. Platts cũng giữ giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm tại mức giá 40-405 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ sáu tuần trước.
Tại Singapore, giá chào cho các lô hàng giao tháng 6 đã có sẵn tại mức 415 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương mức 411 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế đã tính phí vận chuyển 16 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng. Giá chào một đơn hàng 2.000 tấn được nghe ở mức 403 USD/tấn CFR giao tháng 6/tháng 7. Tại Hong Kong, giá chào từ các nhà máy cố định ở mức 420 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế giao tháng 6, tương đương mức 410 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Benxi Iron & Steel chào giá ở mức 385-390 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết giao tháng 6, tương đương mức 402-407 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Tuy nhiên, giá này không được các nhà thầu xây dựng chấp nhận do giá chào không bao gồm cho thép cây đường kính 40mm.
Một nhà máy phía Đông Trung Quốc vẫn không thay đổi giá chào trong ngày thứ hai nhưng sẵn sàng giảm xuống mức 415 USD/tấn CFR Singapore, bằng với đối thủ. Giá này tương đương mức 400 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, tương đương 410 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Giá thép cây nội địa Mỹ suy yếu
Giá thép cây nội địa Mỹ suy yếu trong ngày hôm qua do thời tiết lạnh dẫn tới nhu cầu tiêu thụ không tăng được như bình thường. Một nhà máy cho biết, nhu cầu tiêu thụ thép cây đang dần tăng tại Midwest trước khi thị trường bước vào tháng 5 nhưng đà tăng lại không được mạnh như những lần trước. Platts theo đó cũng giảm giá thép cây Midwest Mỹ hàng tuần xuống còn 535-555 USD/tấn xuất xưởng từ mức 550-570 USD/tấn.
Hồi đầu tháng này, Nucor đã rút lại thông báo tăng giá 25 USD/tấn đối với thép cây trước đó do ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường nhập khẩu.
Trong khi chưa có nhà máy nào khác rút lại thông báo tăng giá 25 USD/tấn thì một nguồn tin cho rằng tất cả sẽ hưởng ứng theo Nucor để duy trì tính cạnh tranh trên thị trường.
Platts giảm giá hàng ngày của thép cây Southeast Mỹ xuống còn 530-555 USD/tấn xuất xưởng từ mức 545-565 USD/tấn.
HRC Châu Á ổn định do người mua thận trọng
Các nhà máy Trung Quốc vẫn giữ giá HRC không đổi trong ngày đầu tuần do người mua tỏ ra thận trọng trước các quyết định đặt hàng trong khi xu hướng giá giao kỳ hạn không rõ ràng. Platts cũng duy trì giá HRC SS400 dày 3mm tại mức 409 USD/tấn FOB Trung Quốc, không đổi so với cuối tuần trước.
Một nhà máy lớn tại khu vực Đông Bắc giữ giá chào bán không đổi tại mức 430 USD/tấn FOB Trung Quốc trong khi hầu hết các nhà máy khác cũng duy trì ở mức 410-435 USD/tấn FOB Trung Quốc. Trong khi đó, một nhà máy phía Đông cho biết đã nhận được giá chào mua dưới mức 400 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, hầu hết các khách hàng đều im lặng và không chào mua do lo ngại giá còn giảm nữa dựa trên sự suy yếu của thị trường nội địa.
Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm ở mức 2.940-2.960 NDT/tấn (427-430 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT, giảm 20 NDT/tấn so với thứ sáu tuần trước. Một thương nhân Thượng Hải cho biết, thị trường Châu Á vẫn rất trầm lắng và không có giao dịch nào diễn ra, tương tự như thị trường Việt Nam. Người mua sẽ chỉ đặt hàng khi mà cả giá xuất khẩu và nội địa Trung Quốc đều ổn định hoặc tăng lên liên tục vài ngày.
Dù vậy, vẫn có luồng ý kiến lạc quan về cả giá và khối lượng giao dịch. Họ cho rằng giá từ Trung Quốc vẫn cạnh trên thị trường thế giới và hầu hết người mua sẽ đặt hàng trong tuần này để đảm bảo đủ nguyên liệu sản xuất.
Thị trường thép cây miền Bắc Trung Quốc ổn định theo giá giao kỳ hạn
Thị trường thép cây miền Bắc Trung Quốc vẫn ổn định trong ngày thứ hai do tâm lý thị trường cải thiện vào buổi chiều sau khi giá giao kỳ hạn tăng dẫn tới giao dịch thép có khối lượng lớn hơn. Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 3.270-3.290 NDT/tấn (475-478 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế đã tính 17% VAT, không đổi so với thứ sáu tuần trước. Hiện tại, giá thép cây giao ngay Bắc Kinh đã lấy lại được 110 NDT/tấn từ mức giảm tổng cộng 530 NDT/tấn kể từ đầu tháng.
Hầu hết các thương nhân tăng nhẹ giá chào vào chiều hôm qua do có nhiều người hỏi mua hơn sau khi thấy giá giao kỳ hạn tăng. Vài thương nhân tỏ ra thận trọng khi cho rằng giá chỉ tăng hạn chế trong tuần này do thị trường trong nước có dấu hiệu suy yếu cho tới cuối tuần. Tuy nhiên, để dự đoán xu hướng giá tháng 5 vẫn rất khó khăn vì giá giao ngay thỉnh thoảng sẽ tăng giá nhờ sức mua cải thiện.
Trong khi đó, tồn kho thép cây có dấu hiệu giảm rõ ràng trong tuần trước. Theo nhà cung cấp thông tin Mysteel thì tồn kho thép cây Bắc Kinh trong ngày 21/4 giảm 73.900 tấn (18%) so với tuần trước đó, còn 333.900 tấn. Tuy nhiên, nếu so với cùng kỳ năm ngoái thì vẫn cao hơn 44%. Tồn kho thép cây toàn cầu giảm 7.5% còn 5.85 triệu tấn nhưng vẫn cao hơn cùng kỳ năm ngoái 30%. Trong ngày hôm qua, hợp đồng giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE chốt tại mức 2.927 NDT/tấn, giảm 1 NDT/tấn so với thứ sáu tuần trước.
Giá HRC giảm tại thị trường Thượng Hải
Giá giao ngay của HRC tại thị trường Thượng Hải giảm đầu tuần này. Platts cũng hạ giá HRC Q235 5.5mm tại Thượng Hải xuống còn 2.940-2.960 NDT/tấn (427-430 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT với giá trung bình giảm 20 NDT/tấn, còn 2.950 NDT/tấn. Tại thị trường giao kỳ hạn Shanghai Futures Exchange, giá chốt hợp đồng giao tháng 10 giảm 5 NDT/tấn so với thứ sáu tuần trước, còn 2.956 NDT/tấn trong ngày thứ hai.
Các nguồn tin cho biết, thị trường giao kỳ hạn suy yếu vào sáng thứ hai dẫn tới các nhà máy giảm giá chào bán trong nước xuống một ít để kích cầu. Tuy nhiên, đến chiều thì giá giao kỳ hạn tăng trở lại và giá HRC giao ngay cũng tăng theo một ít. Dù vậy, điều này không đủ hỗ trợ tâm lý thị trường.
Tiêu thụ từ hạ nguồn như các nhà cán lại và các nhà máy thép mạ đã cố gắng mua ít thép cuộn thương phẩm vào buổi sáng do họ nghĩ giá giao ngay bình ổn. Tuy nhiên, hàng tồn kho trên thị trường vẫn rất dư thừa và có vẻ sắp có nhiều sản lượng nữa được tung ra ngoài thị trường, gây áp lực tới giá thép.
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu tại mức 540-545 Euro/tấn (586.49-591.92 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ hai.
Thị trường dường như ổn định hơn với việc các nhà máy Tây Âu kiên quyết giữ giá tại mức 500 Euro/tấn xuất xưởng trong khi các nhà máy phía Nam và Trung Âu đều duy trì giá ổn định trở lại sau khi mạnh tay cắt giảm trước đó. Một khách hàng Đức dự báo giá sẽ không giảm thêm nữa do thời gian làm hàng tăng. Thị trường sẽ phổ biến ở mức giá 540-550 Euro/tấn tùy vào từng nhà cung cấp.
Hầu hết các nhà máy vẫn chào bán ở mức 500 Euro/tấn CIF Antwerp vì đây là mức có thể thu hút người mua. Tuy nhiên, vẫn có giá chào bán 510-520 Euro/tấn CIF Antwerp.
Nhà máy Feng Hsin giảm giá thép cây và phế trong bối cảnh thị trường thép cây trì trệ
Nhà máy thép cây Đài Loan Feng Hsin Iron & Steel công bố giảm giá niêm yết thép cây nội địa và giá thu mua phế xuống 200 Đài tệ/tấn (7 USD/tấn) trong ngày hôm qua do bối cảnh thị trường thép cây trong nước diễn ra trì trệ.
Hồi tuần trước, nhà máy này đã giảm giá thép xuống 2 lần vào thứ hai và thứ ba với tổng cộng 500 Đài tệ/tấn. Giá niêm yết cho thép cây cỡ chuẩn đường kính 13mm của công ty này hiện ở mức 14.200 Đài tệ/tấn xuất xưởng. Đối với phế, nhà máy Feng Hsin cũng giảm giá mua xuống 300 Đài tệ/tấn hồi thứ hai tuần trước. Sau 2 lần cắt giảm gần đây nhất thì giá mua phế HMS 1&2 80:20 nội địa giảm còn 6.600 Đài tệ/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ thép cây yếu ớt là nguyên nhân chính khiến giá giảm. Thị trường phế toàn cầu cũng đang suy yếu. Mùa mưa đang tới gần dự báo sẽ còn gây áp lực tới giá thép hơn nữa do nó làm chậm các hoạt động xây dựng cũng như giao hàng trong tháng 5.
Trong ngày thứ sáu tuần trước, giá nhập khẩu phế HMS 1&2 80:20 giao bằng xe container vào Đài Loan giảm 6% so với tuần trước đó, còn 235 USD/tấn CFR Đài Loan.
Giá thép cây tiếp tục giảm tại Thổ Nhĩ Kỳ do đồng Lira tăng còn sức mua suy yếu
Vài nhà máy và môi giới thép cây Thổ Nhĩ kỳ tiếp tục hạ giá niêm yết thép cây và thép dây xuống trong ngày hôm qua do tiêu thụ trì trệ ở cả trong nước và thị trường xuất khẩu trong khi đồng Lira dần tăng giá so với dolla. Cụ thể, đồng Lira đã nhỉnh thêm 2% so với tuần trước, chốt tại mức 3.59-3.60 TRY/USD vào trưa ngày 24/4.
Nhà máy Icdas tại Marmara đã mở cửa nhận các đơn đặt hàng trong ngày hôm qua tại mức giá thấp hơn. Giá niêm yết thép cây đường kính 12-32mm giảm 30 TRY/tấn (8 USD/tấn) còn 1.900 TRY/tấn xuất xưởng đối với Istanbul và 1.880 TRY/tấn xuất xưởng đối với Biga, Canakkale. Các giá này đã tính 18% VAT, tương đương các mức447 USD/tấn và 442 USD/tấn chưa tính thuế. Tuy nhiên, các giá này không đổi so với tuần trước đó dựa vào sự suy yếu của đồng Lira.
Icdas giảm giá thép cây đường kính 10mm xuống cùng mức, còn 1.910 TRY/tấn xuất xưởng trong ngày thứ hai trong khi thép cây 8mm giảm còn 1.920 TRY/tấn xuất xưởng tại Istanbul. Giá niêm yết cho thép dây đường kính 7-8.5mm cũng giảm cùng mức xuống còn 2.060-2.090 TRY/tấn xuất xưởng đã tính thuế VAT trong ngày 24/4.
Nhà máy lớn khác là Bastug Metalurji tại Osmaniye cũng giảm giá niêm yết thép cây với mức giảm tương tự. Sau mức cắt giảm này, giá niêm yết thép cây đường kính 12-32mm giảm còn 1.880 TRY/tấn xuất xưởng. Giá thép cây 10mm giảm còn 1.890 TRY/tấn xuất xưởng trong khi thép cây 8mm giảm còn 1.900 TRY/tấn xuất xưởng đã tính VAT.
Vài nhà máy khác cũng giảm giá niêm yết xuống 10 USD/tấn trong ngày thứ hai trong khi các nhà môi giới cũng giảm giá chào bán. Giá thép cây 12-32mm chào bán từ các nhà môi giới ở Marmara giảm còn 1.900-1.920 TRY/tấn đã tính 18% VAT trong khi giá từ các nhà môi giới thấp hơn.
Phôi thanh CIS vấp phải cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc trên thị trường Địa Trung Hải
Tâm lý thị trường phôi thanh CIS suy yếu mạnh trong ngày hôm qua sau khi giá phôi thanh Trung Quốc giảm sâu hồi tuần trước. Sau một thời gian dài vắng bóng, các thương nhân Trung Quốc chào bán trở lại ở các thị trường Địa Trung Hải. Trong khi đó, các nhà máy CIS dù gặp áp lực tranh giành thị trường nhưng kiên quyết không giảm giá.
Giá chào cho phôi thanh Trung Quốc ở mức 390 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Thậm chí có giá ở mức 382 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ do một công ty đang cố gắng bán khống. Nếu than đá giảm về mức 150 USD/tấn thì thị trường sẽ tồi tệ hơn nữa.
Giá chào phôi thanh Nga và Ukraina hiện ở mức 380-385 USD/tấn FOB Biển Đen. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, giá chấp nhận được cho phôi thanh CIS tối đa ở mức 380-385 USD/tấn CFR Marmara. Tại Trung Đông, người mua còn giảm giá xuống 375 USD/tấn FOB nhưng cần có thời gian thì các nhà máy mới chấp nhận.
Một nhà máy Ukraina cho biết chỉ nhận được các giá dự thầu rất thấp, tầm 360-365 USD/tấn FOB. Chênh lệch giá chào từ CIS với giá dự thầu là 20 USD/tấn.
Tâm lý thị trường đang có vẻ u ám hơn và các thương nhân bắt đầu bán khống. Các khách hàng Ai Cập chỉ dự thầu giá 380 USD/tấn CFR Damietta. Trong khi đó, phôi thanh CIS có sẵn tại mức giá 400 USD/tấn CFR.
Trong ngày đầu tuần, Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 375 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm 10 USD/tấn so với hôm thứ sáu.
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Trong ngày hôm qua, Platts giảm giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ xuống 2 USD/tấn so với thứ sáu tuần trước, còn 418 USD/tấn FOB. Theo một nhà máy thì giá chào bán trên thị trường là 420 USD/tấn FOB nhưng giá bán dưới mức này.
Giá chào tới UAE lại chạm mức trần mới. Một nhà máy lớn chào bán 430 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 422 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Trong khi đó, các khách hàng UAE tìm kiếm các mức giá 420 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 412 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Phụ phí thép không gỉ Châu Âu tháng 5 chạm mức thấp 4 tháng
Chi phí phụ gia thép không gỉ hàng tháng cho các mặt hàng thép cán dẹt không gỉ Châu Âu trong tháng 5 đã giảm xuống mức thấp nhất 4 tháng kể từ tháng 1 do giá niken và Ferrochrome đều giảm. Phí phụ gia đã duy trì đà tăng trong suốt tháng 4 và chạm ngưỡng cao nhiều năm.
Nhà máy Outokumpu Phần Lan niêm yết mức phí phụ gia cho thép dẹt 304 (4301) ở mức 1.350 Euro/tấn (1.466 USD/tấn) trong tháng 5, giảm 105 Euro/tấn so với mức cao 5 năm hồi tháng 4.
Giá giao dịch niken tính bằng đồng dolla trên sàn LME tăng lên mức 10.000 USD/tấn hồi đầu tháng 4 nhưng sau đó suy yếu chỉ còn trên 9.300 USD/tấn hồi tuần qua, chạm mức đáy mới kể từ tháng 6 năm ngoái tới nay. Giá giao dịch trung bình tháng 4 của niken trên sàn LME giảm còn 9.776 USD/tấn, giảm 4.6% so với tháng 3.
Phụ phí của Outokumpu cho thép không gỉ 316 (4401) là 1.936 Euro/tấn trong tháng 5, giảm 85 Euro/tấn so với tháng 4. Giá giao ngay của molybdenum oxide tăng lên trên 9 USD/lb hồi đầu tháng này, mức cao nhất kể từ tháng 1/2015 nhưng sau đó giảm còn dưới 8.80 USD/lb. Trong khi đó, phụ phí của nhà máy trên cho thép dẹt 430 giảm 39 Euro/tấn còn 769 Euro/tấn trong tháng 5.
Giá Ferrochrome chuẩn Châu Âu giao dịch giữa các nhà cung cấp và các nhà máy thép ở mức 156 cents/lb cho Q2/2017, giảm 11 cents, tương đương 6.7% so với Q2 nhưng tăng 90% từ mức 80 cents/lb hồi Q2/2016. Giá phụ phí cho loại thép 430 đứng ở mức 418 Euro/tấn hồi tháng 5 năm ngoái.
Giá HRC Mỹ giảm do giao dịch chậm chạp
Giá HRC Mỹ giảm một ít trong tuần qua do các nhà máy không còn dám chào giá 660 USD/tấn. Platts giảm giá HRC hàng ngày Mỹ xuống còn 640-650 USD/tấn từ mức 640-660 USD/tấn ngày thứ sáu. Trong khi đó, CRC vẫn ổn định tại mức 830-860 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Một trung tâm dịch vụ đã đặt vài đơn hàng gần đây tại mức giá 640 USD/tấn xuất xưởng Midwest nhưng khối lượng không lớn. Chỉ một nhà máy chào giá 660 USD/tấn và giá mà ông bán được chỉ ở mức 640 USD/tấn.
Thị trường có nhiều tín hiệu xáo trộn về xu hướng giá HRC. Mặc dù tồn kho tại các trung tâm dịch vụ thấp thì các nhà máy vẫn cạnh tranh giá.
Một nhà máy cho rằng mức 660 USD/tấn chỉ dành cho những loại thép đặc biệt và mức giá trần cho HRC là 650 USD/tấn. Ông thừa nhận rằng mặc dù nguồn cung có chặt thì các khách hàng vẫn không chịu trả cao hơn. Giá phổ biến trên thị trường cho HRC là 640-650 USD/tấn còn CRC và thép mạ là 830-860 USD/tấn xuất xưởng.
Tình hình thị trường thép cuộn tháng 4 diễn ra chậm chạp hơn hồi tháng 3 và điều này có thể kéo giá giảm nữa. Một trung tâm dịch vụ cho biết không đặt đơn hàng giao dài hạn vì tiềm năng giá giảm hơn là tăng. Trung tâm này cho rằng giá HRC ở mức 640 USD/tấn còn CRC là 840 USD/tấn.