Định giá phôi thanh CIS
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu phôi thanh tại mức 432 USD/tấn trong ngày thứ hai.
Giá chào từ các nhà máy CIS tăng lên 445-450 USD/tấn FOB Biển Đen giao tháng 9. Một nhà máy Ukraina cho biết thị trường vẫn chưa chấp nhận giá này nhưng nhìn chung tâm lý thị trường cải thiện và giá có thể tăng.
Một thương nhân cho biết giá mua phôi thanh trong nước là 475-495 USD/tấn nên giá nhập khẩu phải thấp hơn, tầm 435-445 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 420-435 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov. Thị trường Ai Cập nhận được các giá chào nhưng không có đơn hàng mới.
Định giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ
Platts tăng giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ thêm 2.5 USD/tấn so với thứ sáu, đạt mức 457.5 USD/tấn FOB (455-460 USD/tấn) trong ngày hôm qua.
Giá chào bán ở mức 470-480 USD/tấn FOB Marmara/izmir trọng lượng thực tế. Một nhà máy lớn cho biết không có giao dịch tại mức này. Một nhà máy khác cho rằng chỉ một đơn hàng chốt ở mức này. Các lô hàng lớn tầm vài ngàn tấn tại mức giá tương tự không được nghe trên thị trường.
Một thương nhân cho biết, giá chào bán vẫn tương tự tuần qua. Một nguồn tin cho biết giá tăng nhờ hậu thuẫn bởi giá tăng tại Châu Á và giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng. Động lực tăng trưởng cũng đến từ giá phế và phôi thanh nhập khẩu tăng.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng do chi phí đầu vào tăng và tồn kho thấp
Sau khi vài nhà máy tăng giá thép cây và thép dây cuối tuần trước do giá phế và phôi thanh nhập khẩu tăng, các nhà máy môi giới cũng tăng giá chào bán trong ngày thứ hai nhờ tồn kho thấp và nguồn cung hạn chế.
Gía chào từ các nhà môi giới ở Karabuk đạt mức 2.110-2.130 TRY/tấn đã tính thuế, tăng 30 TRY/tấn (8.4 USD/tấn) do nhà máy Kardemir trì hoãn giao hàng trong 6-8 ngày từ ngày 21/7 do đang bảo trì một lò trong nhà máy.
Giá chào từ các nhà môi giới ở Istanbul tăng 20 TRY/tấn (5.6 USD/tấn) so với tuần trước đó, lên 2.140-2.160 TRY/tấn trong ngày thứ sáu trong bối cảnh tồn kho thấp.
Nhà máy Icdas tăng giá niêm yết thép cây 12-32mm thêm 30 TRY/tấn (8.5 USD/tấn) lên 2.070 TRY/tấn xuất xưởng cho khu vực Istanbul và 2.040 TRY/tấn xuất xưởng cho khu vực Biga, Canakkale đã tính thuế, tương đươngg 494 USD/tấn và 485 USD/tấn chưa thuế trong khi giá các nhà máy khác cùng mức trong ngày thứ hai.
Giá giao dịch phôi thanh trong nước ở mức 460 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên 450 USD/tấn CFR.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây bắc Âu tại mức 490-495 Euro/tấn (570.61-576.43 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ hai.
Các nhà máy Tây Âu tăng giá chào bán lên 500-520 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr với các nhà máy cấp 1 chào bán mức trần 520 Euro/tấn. Các nhà máy Ý chào bán tại mức 480 Euro/tấn xuất xưởng và nhắm tới mục tiêu giá 500 Euro/tấn xuất xưởng trong tháng 9.
Tuy nhiên, sức mua hạn chế do người mua do dự đặt hàng còn số khác đã đặt mua thép tháng 9.
Giá chào nhập khẩu tăng mạnh, nhất là từ Châu Á với giá chào từ Ấn Độ tăng lên mức cao 485 Euro/tấn CIF.
Giá thép cây Midwest co nhẹ
Nhu cầu tiêu thụ thép cây Midwest vẫn tương đối mạnh trong thời gian này và thị trường hoạt động. Tuy nhiên, giá chào bán và giao dịch từ các nhà máy giảm nhẹ so với mức trần 540 USD/tấn trước đó. Platts giảm giá thép cây Midwest Mỹ xuống còn 515-535 USD/tấn xuất xưởng từ mức 515-540 USD/tấn.
Một người mua cho biết tiêu thụ trong hè tốt còn người khác cho rằng tiêu thụ đang bắt đầu suy yếu do tâm lý chờ đợi điều tra 232.
Tuy nhiên, một người khác cho rằng thị trường sẽ tăng trưởng một khi điều tra 232 công bố kết quả. Có khả năng các nhà máy sẽ tăng giá hteem 20 USD/tấn hoặc 30 USD/tấn một khi điều tra 232 chấm dứt. Có người thậm chí còn cho rằng các nhà máy sẽ tăng 50 USD/tấn.
Các nhà máy thép tròn đặc Trung Quốc tăng giá thêm 22 USD/tấn
Các nhà máy thép tròn đặc Trung Quốc tiết lộ ý định tăng giá niêm yết thêm 150 NDT/tấn (22 USD/tấn) cho các đơn hàng trong giai đoạn 21-31/7. Đây là lần tăng giá thứ tư liên tiếp của các nhà máy kể từ cuối tháng 6 với tổng mức tăng lên tới 350 NDT/tấn.
Giá cho thép tròn đặc 20# 50-130mm sản xuất bởi Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel tăng 150 NDT/tấn lên 4.050 NDT/tấn và 4.000 NDT/tấn cho các đơn hàng cuối tháng 7, giá xuất xưởng đã tính thuế.
Một nhà máy khác là Huaigang Special Steel thông báo tăng giá thêm 150 NDT/tấn, đẩy giá lên mức 4.050 NDT/tấn đã tính thuế.
Giá chào bán ống thép đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) từ các nhà máy miền đông Trung Quốc ở mức 4.450-4.500 NDT/tấn xuất xưởng đã tính thuế, tăng 50 NDT/tấn so với 10 ngày trước đó.
Feng Hsin tăng giá thép cây và phế thêm 9.8 USD/tấn
Nhà máy Feng Hsin Iron & Steel đã tăng giá niêm yết thép cây thêm 300 Đài tệ/tấn (9.8 USD/tấn) so với tuần trước trong khi giá mua phế cũng tăng tương tự.
Giá niêm yết cho thép cây cỡ chuẩn 13mm tăng lên 15.300 Đài tệ/tấn xuất xưởng ở Đài Trung cho các đơn hàng ngày 24-28/7. Giá mua phế HMS 1&2 80:20 của nhà máy này tăng lên 7.400 Đài tệ/tấn. giá nhập khẩu phế HMS 1&2 khối lượng nhỏ vào Đài Loan tăng 7 USD/tấn trên tuần, đạt mức 270 USD/tấn CFR Đài Loan trong ngày 21/7.
Feng Hsin tăng giá thép do giá phế nhập khẩu tăng và nguồn cung cũng giảm. Vài nhà máy EAF đã bảo trì nhà xưởng trong giai đoạn này. Feng Hsin đã trải qua nửa thời gian bảo trì nên nguồn cung cũng hạn chế.
Giá phế Mỹ nhập khẩu vào Đài Loan thường thấp hơn so với các thị trường khác như Thổ Nhĩ Kỳ, nơi mà giá phế vượt mức 3300 USD/tấn, đạt mức 306.5 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày thứ sáu tuần trước.
Thép cây Châu Á tăng giá do các nhà máy nâng giá chào bán
Thị trường thép cây Châu Á tăng trưởng trong ngày đầu tuần do gias chào bán bán từ tất cả các nhà máy tăng.Platts tăng giá thép cây BS500 16-20mm thêm 2 USD/tấn so với thứ sáu, đạt mức 485-487 USD/tấn FOB Trung Quốc vào hôm qua.
Tại Hồng Kông, giá thép cây Ấn Độ giao tháng 9 ở mức 495-500 USD/tấn CFR, nhích 5 USD/tấn so với thứ sáu. Các nhà máy Trung Quốc tăng giá chào thêm 10 USD/tấn từ tuần trước, lên mức 480 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 495 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Lô hàng này không chứa thép cây 40mm. Số khác chào bán ở mức 505-510 USD/tấn FOB cho đơn hàng có chứa cả thép cây 40mm.
Một nhà môi giới cho biết sẽ không chào mua thép cây Ấn Độ nữa cho tới khi lô hàng đầu tiên cập bến. Ông không tiết lộ giá mua lô hàng này.
Một nhà môi giới khác cho biết sẽ chấp nhận giá 485-490 USD/tấn CFR.
Giá HRC Trung Quốc không đổi trong bối cảnh thị trường trầm lắng
Giá HRC giao ngay tại Thượng Hải ổn định trong ngày hôm qua. Khối lượng giao dịch nghèo nàn trong cả ngày và thời tiết nắng nóng có vẻ kìm hãm sức mua. Platts duy trì giá HRC Q235 5.5mm ở mức 3.720-3.740 NDT/tấn (551-554 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế.
Tại sàn giao kỳ hạn, giá chốt hợp đồng HRC tháng 10 giảm 43 NDT/tấn so với ngày trước, còn 3.586 NDT/tấn.
Hiện tại, nhu cầu tiêu thụ tương đối thấp do thời tiết nắng nóng ở Trung Quốc, đặc biệt là Thượng Hải. Trong khi đó, có nhiều thông tin hơn về việc điều chỉnh giá của nhà máy Anshan Iron & Steel trong ngày 12/7. Được biết, Angang đã tăng giá HRC thêm 350 NDT/tấn còn CRC tăng thêm 400 NDT/tấn, ngoại trừ CRC dành cho sản xuất các bộ phận xe hơi chỉ tăng 200 NDT/tấn.
Platts cho biết, sau khi chiết khấu cho các thương nhân, giá tăng thực tế của Angang cho HRC chỉ 40 NDT/tấn còn CRC trừ hết chiết khấu vẫn không đổi so với tháng trước.
Một thương nhân khác nghĩ rằng giá tăng thực tế cho HRC xuất xưởng tháng 8 của Angang rất nhỏ, thấp hơn cả mức thị trường đã hấp thụ. Do đó, để tăng mạnh giá giao ngay là rất khó.
Giá HRC Mỹ tăng do các nhà máy nỗ lực áp giá sàn 620 USD/tấn
Giá HRC Mỹ tăng trong ngày hôm qua do các nhà máy cố gắng áp giá sàn 620 USD/tấn.
Platts tăng giá HRC lên 615-625 USD/tấn từ mức 610-625 USD/tấn trong ngày thứ sáu. Giá CRC ổn định ở mức 790-800 USD/tấn xuất xưởng Miwest (Indiana).
Trong tuần qua, California Steel Industries, Nucor, ArcelorMittal USA và AK Steel tăng giá thêm ít nhất 25 USD/tấn. NLMK tăng thêm 40 USD/tấn.
Một thương nhân cho biết mức giá 620 USD/tấn vẫn có sẵn trong ngày hôm qua nhưng dự báo sẽ không còn tồn tại lâu nữa.
Một nhà máy cho biết có đối thủ chào bán ở mức 640-650 USD/tấn và ông sẽ chào bán tầm 660-680 USD/tấn cho HRC. Đối với CRC và thép mạ, giá vẫn cao hơn HRC tầm 200 USD/tấn. Ông cho biết không đủ thời gian để xem xét thị tường phản ứng ra sao với các thông báo tăng giá. Ngoài ra, các khách hàng đang nắm giữ lượng tồn kho thấp và với thời gian sản xuất lâu, họ có thể thiếu nguyên liệu nếu cứ trì hoãn không mua. Do đó, ông sẽ chào bán ở mức 660 USD/tấn.
Một thương nhân cho biết đang cố gắng xoay sở bán CRC trên mức 780 USSD/tấn. Dù tồn kho thấp nhưng không ai sẵn sàng mua ở mức này.
Một trung tâm dịch vụ cho biết việc tăng giá lúc này thực sự gây bối rối vì tiêu thụ hiện tại không đủ hỗ trợ giá tăng. Có các tín hiệu suy yếu trên thị trường do điều tra 232 cho hàng nhập khẩu vẫn đang mập mờ kết quả và đà tăng giá có thể khiến người mua hoang mang.
Hyundai Hàn Quốc tăng giá thép dầm trong nước
Hyundai Steel tăng giá thép dầm tất cả các kích cỡ cho các đơn hàng từ ngày 1/8 với mức tăng 30.000 Won/tấn (27 USD/tấn) cho thép dầm cỡ nhỏ và 10.000 Won/tấn cho cỡ lớn. Nhà máy khác là Dongkuk Steel Mill vẫn chưa thông báo chỉnh giá.
Giá niêm yết mới cho thép dầm cỡ nhỏ tăng lên 760.000 Won/tấn (683 USD/tấn) còn thép dầm cỡ lớn là 850.000 Won/tấn (764 USD/tấn), tăng từ mức 730.000 Won/tấn và 840.000 Won/tấn từ ngày 1/7.
Giá phế Ferite tăng và giá điện tăng trong hè là nhuwngx yếu tố góp vào lần tăng này. Giá phế nhẹ trong nước hiện ở mức 235.000 Won/tấn (211 USD/tấn), tăng từ mức 221.000-223.000 Won/tấn (199-200 USD/tấn) hồi đầu tháng 6. Platts cũng tăng giá phế H2 Nhật lên mức 27.500-28.000 Yên/tấn (248-253 USD/tấn) FOB từ mức 24.500-25.500 Yên/tấn FOB.
Trong 2 tháng qua, Hyundai và Dongkuk đã cố gắng tăng giá thép dầm kể từ đầu tháng 6 lúc họ lần đầu tăng giá thép dầm cỡ nhỏ thêm 20.000 Won/tấn, đạt mức 690.000 Won/tấn.
Theo sau mức tăng hồi đầu tháng của hai nhà máy, Hyundai tiếp tục tăng giá vào cuối tháng 6 và cuối 7, đẩy giá niêm yết thép dầm cỡ nhỏ lên 730.000 Won/tấn.
Bất chấp các nỗ lực tăng giá của các nhà máy, tiêu thụ trong nước vẫn im ắng. giá giao dịch thép dầm cỡ nhỏ vẫn quanh mức 700.000 Won/tấn, chỉ tăng nhẹ từ 680.000 Won/tấn đầu tháng 6.
Tiêu thụ chậm chạp cản trở giá HDG xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Mặc dù giá HRC nhập khẩu từ CIS và giá trong nước tăng mạnh song tiêu thụ chậm chạp và cạnh tranh gay gắt tại các thị trường xuất khẩu tiếp tục gây áp lực cho giá chào bán thép mạ của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá chào HRC xuất khẩu CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh trong mấy ngày gần đây, chạm mức cao 530 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, người mua từ chối các chào giá này và cho rằng giá không bán được.
Giá niêm yết HRC trong nước cũng tăng mạnh lên mức 530-540 USD/tấn nhưng giá giao dịch nhìn chung vẫn thấp, chỉ 520-530 USD/tấn xuất xưởng. Mức 515 USD/tấn vẫn có sẵn cho các đơn hàng lớn tới các nhà máy ống thép.
Chi phí sản xuất HRC tăng nên cần phải tăng giá thép mạ, song vì tiêu thụ thấp trong hè và áp lực cạnh tranh nên các nhà máy thép mạ đang gặp khó khăn khi muốn tăng giá.
Chênh lệch giá chào bán tới Châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ với các nhà cung cấp khác đã lên 70 USD/tấn và gây áp lực cho thị phần của Thổ Nhĩ Kỳ.
Giá chào bán HDG 0.5mm trong nước ổn định ở mức 750-760 USD/tấn xuất xưởng trong khi loại 1mm ở mức 680-700 USD/tấn xuất xưởng. Gía chào bán xuất khẩu thấp hơn 15-20 USD/tấn với chiết khấu có sẵn cho các đơn hàng lớn.
Giá chào bán PPGI 9002 0.5mm cũng ổn định ở mức 830-850 USD/tấn xuất xưởng.
Giá HRC Châu Á ổn định do sức mua trầm lắng
Các nhà máy Trung Quốc duy trì giá chào bán HRC không đổi trong ngày thứ hai do giá trong nước ổn định. Tuy nhiên, các khách hàng ngoài nước tỏ ra im ắng trước giá chào bán cao. Platts giữ nguyên giá chào bán HRC SS400 dày 3mm tại mức 500-505 USD/tấn FOB Biển Đen.
Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm ổn định ở mức 3.720-3.740 NDT/tấn (551-554 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế.
Một nhà máy lớn ở miền đông bắc giữ giá chào ổn định tại mức 510 USD/tấn FOB Trung Quốc trong khi vài nhà máy khác cũng hưởng ứng theo và giữ giá ở mức 510-530 USD/tấn FOB Trung Quốc. Họ không thu hút được đơn hàng nào khác từ người mua.
Một thương nhân Thượng Hải thừa nhận không thể bán được tấn nào trong ngày thứ hai do các khách hàng của ông chỉ chấp nhận giá tối đa 500 USD/tấn CFR Hàn Quốc (phí vận chuyển 10 USD/tấn) cho HRC SS400, mức quá thấp cho người bán. Vài thương nhân có sẵn thép trong tay chào bán ở mức 505-510 USD/tấn FOB nhưng chưa chốt.
Đối với thép cuộn SAE, một đơn hàng từ một nhà máy lớn chốt ở mức 515 USD/tấn CFR Việt Nam trong ngày thứ sáu tuần trước. Tuy nhiên, đơn hàng này được bán từ một thương nhân có sẵn hàng trong tay nên không có giá tương tự trên thị trường. Nhà máy bán hàng cho thương nhân này chào bán ở mức 530 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn SAE trong ngày hôm qua.
Tại Ấn Độ, vài người mua dự thầu ở mức 520 USD/tấn CFR cho thép cuộn SS400 của các nhà máy Nhật nhưng giá này thấp hơn giá bán 540-550 USD/tấn CFR Ấn Độ của các nhà máy.