Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 26/07/2016

Phôi thanh CIS ổn định do đơn hàng từ Ai Cập và phế Thổ Nhĩ Kỳ tăng

Do chốt giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng hơn nữa, các nhà xuất khẩu phôi thanh Biển Đen ít có khả năng tăng giá hơn trong ngắn hạn, nguồn tin thị trường kết luận.

Theo một nhà quan sát tại thị trường Ai Cập, các thương nhân đã đặt khoảng 100.000 tấn phôi CIS trong vài tuần qua, ở mức xấp xỉ 340usd/tấn CIF Ai Cập, tương đương với 320-325usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov.

Trong khi thị trường Ai Cập đang đơn hàng với số lượng lớn giao cuối tháng Tám và tháng Chín, Thổ Nhĩ Kỳ - một người mua phôi chính khác – đã không thực hiện một vị thế ổn định đối với phôi CIS , tập trung chủ yếu vào phế có hiệu quả chi phí hơn.

Với phế liệu đang liên tục tăng nhẹ, phôi CIS có vẻ như không còn được xem như có xu hướng điều chỉnh giảm nữa ít nhất trong ngắn hạn. Sau khi các đơn hàng với số lượng lớn ở những nơi khác, các nhà máy CIS có thể không cần phải sẵn sàng cạnh tranh rất tích cực cho thị trường Thổ Nhĩ Kỳ, mà không có cắt giảm chào giá mạnh mẽ của Trung Quốc.

Một thương nhân châu Âu cho biết 320usd/tấn FOB Biển Đen là mức tối thiểu có sẵn cho phôi CIS. Một thương nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng báo giá được chốt ở mức 330-340usd/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ trong khi chào giá mua nổi lên ở mức 325usd/tấn CIF từ nhà cán lại và 315-320usd/tấn CIF từ nhà sản xuất thép cấp một lớn hơn ở Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này có nghĩa là Thổ Nhĩ Kỳ đang nhắm mục tiêu khoảng 300-315usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov.

Platts định giá phôi thanh hàng ngày của mình tại 320usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Hai, ổn định trong ngày.

Giá thép cây vùng Trung Tây Mỹ suy yếu do nhu cầu chậm lại theo mùa

Giá thép cây thấp hơn ở vùng Trung Tây Mỹ đã xuất hiện do hoạt động thua mua đã chậm lại trong thời gian trì trệ trong hè, những người tham gia thị trường cho biết hôm thứ Hai.

“Mọi thứ đã rất trầm lắng tôi nghĩ rằng mọi người không còn hy vọng gì trong hoạt động kinh doanh,” một nhà phân phối ở vùng Trung Tây nói.

Giá phế thấp hơn trong tháng Bảy đã gây áp lực lên thị trường thép cây đang tiến gần đến cuối tháng này cũng như đồn đoán giá phế cũ có thể tiếp tục giảm thêm một lần nữa vào tháng Tấm do các nhà máy cung cấp giảm giá mạnh hơn để đảm bảo đơn đặt hàng, ông nói. Giá phế cũ đã giảm tối thiếu là 10usd/tấn dài, và nhiều nhất là 25-30usd/tấn dài trong một số trường hợp trong tuần lễ mua tháng Bảy.

Platts hôm thứ Hai đã hạ định giá thép cây hàng tuần vùng Trung Tây của Mỹ Midwest còn 535-550usd/tấn ngắn  xuất xưởng, giảm từ 550-565usd/tấn ngắn xuất xưởng.

Hầu hết các nhà máy dường như đang duy trì giá ở mức 535-545usd/tấn ngắn, nhưng nếu đơn đặt hàng  rơi vào tháng Tám, giá cả có thể thấp hơn, một nhà phân phối vùng Trung Tây thứ hai cho biết.

Thép cây grade 40 và 60 vẫn có sẵn trong khu vực, nhưng thị trường đã thắt chặt lại với các mặt hàng ít thông dụng vì một số nhà máy đã điều chỉnh sản xuất một chút trong mùa tiêu thụ suy thoái hè, nguồn tin cho biết.

Định giá HRC EU

Platts định giá HRC Bắc Âu không đổi ở 415-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr thứ Hai.

Các nguồn tin thị trường cho biết thị trường tiếp tục trầm lắng hôm thứ Hai, hầu như không có hoạt động mua bán do nghỉ hè. Một thương nhân Đức cho biết các nhà máy hiện cũng đã có đủ đơn hàng đặt trước cũng như áp lực giảm giá thấp trong bối cảnh thiếu vắng sự canh tranh của hàng nhập khẩu.

Các thương nhân cho biết giá của nhà máy Bắc Âu ổn định ở 415-420euro/tấn xuất xưởng Ruhr, trong khi nhập khẩu gần đây nhất nghe nói ở mức giá chào 415euro/tấn CIF Antwerp từ Hàn Quốc.

Giá HRC nhập khẩu được định giá ở mức tăng 2,50 euro/tấn cao thứ Hai, tại mức 395-405euro/tấn CIF Antwerp.

Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ngừng tăng do sự suy thoái của đồng lira chậm lại

Đà tăng giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ được nhìn thấy trong suốt tuần qua do sự mất giá mạnh của đồng lira so với đồng USD sau cuộc đảo chính quân sự thất bại gần đây đã bắt đầu đảo ngược một chút vào thứ Hai, với đà giảm giá của đồng  lira dường như đã dừng lại. Đồng lira đã mạnh lên một chút so với đồng đô la và đang dao động trong phạm vi 3,02-3,03TRY/1USD vào chiều thứ Hai.

“Sự gia tăng nhìn thấy trong giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tuần trước chủ yếu là do sự mất giá mạnh mẽ của đồng lira. Báo giá xuất khẩu của các nhà máy đã không tăng trong thời gian một tuần này,” một nguồn tin cho biết. “Do nhu cầu tiêu thụ không hỗ trợ đà tăng này và xu hướng giảm của lira dường như dừng lại trong tuần này, giá trong nước đã bắt đầu suy yếu. Tuy nhiên, xu hướng giá phế và phôi thanh nhập khẩu trong những ngày tới sẽ có ảnh hưởng trực tiếp báo giá của nhà máy,” ông nhận định.

Nhà sản xuất Icdas ở Marmara đã công bố tăng tổng cộng 60TRY(20usd)/tấn trong suốt tuần qua và giá bán của công ty này đối với thép cây đường kính 12-32mm đạt 1.430 TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul và 1.410TRY/tấn xuất xưởng cho biga, Canakkale vào thứ Tư tuần trước - tương đương với 399usd/tấn và 392usd/tấn tương ứng - mà không có 18% VAT.

Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ khác cũng thông báo tăng tương tự trong giá niêm yết trong suốt tuần qua, trong khi giá xuất kho thép cây tại thị trường này cũng tăng cường, trong bối cảnh giá tăng của các  nhà máy địa phương và lira giảm giá.

Tuy nhiên, giá của các nhà tích trữ  đã bắt đầu suy yếu đi trong tuần này, với mức giảm giá, trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ thấp trong thị trường nội địa. Giá bán phổ biến của thép cây đường kính 8-12mm của nhà tích trữ trong khu vực Marmara chuyển xuống phạm vi là 1.420-1.440TRY/tấn (bao gồm 18% VAT) thứ Hai, trong khi giá tại các khu vực phía nam của Thổ Nhĩ Kỳ cũng giảm nhẹ xuống 1.380-1.400TRY/tấn.

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 370-380usd/tấn FOB vào thứ Hai, ổn định trong ngày, với mức trung điểm của là 375usd/tấn.

Đà tăng trong thị trường thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã chậm vào thứ Hai. Chào giá đến UAE ở mức 385usd/tấn CFR Jebel Ali, trọng lượng lý thuyết, tương đương với mức khoảng 380usd/tấn FOB trọng lượng thực tế, một thương gia cho biết. Một nguồn tin khác cũng cho rằng giá ở dưới 380usd/tấn CFR trọng lượng lý thuyết.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng người mua đang được nhắm mục tiêu tối đa là 370-375usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Một thương nhân châu Âu tin rằng 370usd/tấn FOB đã có thể đạt được với một nhà cung cấp Thổ Nhĩ Kỳ. Các nhà sản xuất hôm thứ Hai nói rằng 370usd/tấn FOB là không thể chấp nhận dược. Một trong số các nhà sản xuất nói rằng 380usd/tấn FOB là mức giá chấp nhận được tối thiểu trong khi chào giá xuất khẩu đứng ở mức 390usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng các nhà cung cấp địa phương đã cố gắng tăng giá lên 390usd/tấn FOB và trên, nhưng vẫn chưa thành công.

Platts giữ ổn định định giá của mình vào thứ Hai, ở 375usd/tấn FOB, một trung điểm giữa ngưỡng giá thấp nhất được chấp nhận bởi một nguồn tin nhà máy (380usd/tấn) và giá mục tiêu của người mua (370usd/tấn FOB).

Thị trường phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ ổn định bất chấp hàng nhập khẩu mạnh lên

Giá mua phế shipbreaking bằng USD và phế DKP bằng đồng lira của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn ổn định kể từ tuần trước, bất chấp xu hướng tăng dần nhìn thấy giá phế nhập khẩu mà các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ thu mua gần đây nhất.

Điều này cũng diễn ra trong bối cảnh đồng USD suy yếu so với đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ vào thứ Hai, sau khi tăng giá mạnh trong tuần trước đó. Lira tăng 1,3% so với USD vào trưa thứ Hai và bắt đầu dao động trong khoảng 3,02-3,03, nhưng vẫn còn là thấp hơn đáng kể so với mức 2,88 trước biến cố đảo chính.

Giá mua các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ cho phế shipbreaking ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, Habas, IDC, Cebitas, Ozkan), vẫn ổn định ở mức 218-220usd/tấn vào hôm thứ Hai.

“Giá phế liệu tàu chủ yếu là ổn định trong những ngày này, nhưng nhu cầu dự kiến ​​sẽ tăng cường phù hợp với nhu cầu phế tăng lên của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong những ngày sắp tới. Chúng tôi đang làm việc chăm chỉ để đáp ứng nhu cầu phế tàu trong ngành thép của chúng tôi", Ersin Ceviker, giám đốc hiệp hội Các nhà Tái chế Tàu cũ Thổ Nhĩ Kỳ cho biết.

Giá phế shipbreaking bằng USD nhìn chung đã phản ánh xu hướng giá phế nhập khẩu, nguồn tin quan sát. Trong khi đó, giá mua bằng đồng lira Thổ Nhĩ Kỳ của nhà máy cho phế DKP cũng chủ yếu là đi ngang từ tuần trước, trong phạm vi là 590-640TRY(195-211usd)/tấn.

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở 320usd/tấn FOB Biển Đen thứ Hai, ổn định trong ngày.

Một thương nhân châu Âu cho biết các nhà máy CIS khẳng định mức 320usd/tấn FOB là mức tối thiểu. Một thương nhân Ai Cập cho biết các nhà máy sẽ ổn định về chào giá sau các đơn hàng được đặt ở Ai Cập khoảng 320-325usd/tấn FOB tuần trước, hoặc 340usd/tấn CFR Ai Cập, giao cuối hàng tháng Tám-tháng Chín.

Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết chào giá CIS ở mức 330-340usd/tấn CIF, được xem là không thể chấp nhận đối với thị trường địa phương. Ông nói thêm rằng các giá chào mua từ các nhà cán lại ở mức 325usd/tấn CIF và từ một nhà máy cấp một lớn hơn tại 315-320usd/tấn CIF.

Platts duy trì định giá không thay đổi là 320usd/tấn FOB dựa trên cá đơn hàng mới nhất vào thị trường Ai Cập.

Thị trường Mỹ nhìn thấy CRC và tấm mỏng mạ kẽm ổn định

Những người tham gia thị trường tấm mỏng Mỹ tiếp tục thấy các nhà máy đang duy trì giá tấm mỏng mạ kẽm và thép cuộn cán nguội ổn định, mặc dù họ không chắc chắn về việc liệu giá thép cuộn cán nóng có đang suy yếu hay không.

Dựa trên phản hồi của thị trường, Platts duy trì định giá hằng ngày của HRC và CRC không đổi hôm thứ Hai là 610-630usd/tấn ngắn và 820-840usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai giá đều được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết HRC có thể được mua tại mức 610usd/tấn ngắn từ ít nhất hai nhà máy, và ông hy vọng các nhà máy khác sẽ bán trong phạm vi 610-620usd/tấn ngắn. Bất chấp những mức giá này thấp hơn, các nguồn trung tâm dịch vụ cho biết ông đã nhận được một dấu hiệu cho thấy một trong những nhà máy đang duy trì giá ở 610usd/tấn ngắn.

Giá thép tấm mỏng mạ kẽm đang ổn định tại mức 830usd/tấn ngắn, ông nói. “Đã có quá nhiều đồn thổi để về giá sắp giảm, và trong thực tế, họ đang duy trì xu hướng giá khá tốt thông qua một trong suốt thời điểm suy yếu theo mùa,” ông nói. “Tôi chắc chắn rằng hầu như tất cả đều đang trong tháng Tám và các nhà máy lớn hơn vào tháng Chín. "

Một nguồn tin trung tâm dịch vụ khác đồng ý rằng giá thép tấm mỏng mạ kẽm và CRC đang trong phạm vi nhất định, mặc dù thời gian giao hàng có thể giao động nhẹ. .

 

Một nguồn tin nhà máy cho biết HRC có sẵn tại mức 600-610usd/tấn ngắn, vì có một số nhà máy vẫn còn sản lượng tháng Bảy. 

Thép cây miền bắc Trung Quốc trượt dốc do tồn kho gia tăng

Giá thép cây tại thị trường bán lẻ miền bắc Trung Quốc tiếp tục đà đi xuống hôm thứ Hai, bị sức ép bởi tồn kho gia tăng kể từ tuần trước và hoạt động giao dịch trì trệ trên một thị trường bất ổn.

Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 25/7, giá giao ngay cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm là 2.350-2.370 NDT/tấn (352-355 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế gồm 17% VAT, giảm 80 NDT/tấn (12 USD/tấn) so với thứ Sáu tuần trước. Mức giá này giảm 150 NDT/tấn (22 USD/tấn) trong tuần trước.

Các thương nhân cho biết khối lượng rõ ràng là đã thu hẹp lại vào cuối tuần vì trận mưa lớn tiếp tục gây ảnh hưởng nhiều- điều này đã khiến các thương nhân phải hạ chào giá vào ngày đầu tuần để kích cầu.  Ngoài ra, họ cũng chịu áp lực từ tồn kho thép cây gia tăng ở Bắc Kinh nên cảm thấy buộc phải giảm chào giá để có được đơn đặt hàng.

Theo Mysteel, tồn kho thép cây ở Bắc Kinh tăng 26.700 tấn tức 14% so với tuần trước lên 218.100 tấn tính tới thứ Sáu tuần trước.

Triển vọng thị trường vẫn chưa chắc chắn trong ngắn hạn, vì không tin thị trường có thể được hỗ trợ bởi việc cắt giảm sản lượng gần đây ở thành phố Đường Sơn. Chính quyền tỉnh Hà Bắc đã tăng cường những nỗ lực nhằm hạn chế sản lượng thép ở Đường Sơn trong tuần này để đảm bảo chất lượng không khí trong lành cho lễ Tưởng niệm động đất lần thứ 40 sẽ diễn ra vào ngày 28/7 tới.

Cũng trong ngày 25/7, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn Shanghai Futures Exchange giảm 32 NDT/tấn tức 1,4% so với ngày trước đó chốt tại 2.342 NDT/tấn.

Feng Hsin duy trì giá khi vào mùa bảo trì

Feng Hsin Steel đã quyết định duy trì giá niêm yết cho thép cây và giá mua phế tuần này trong khi công ty tiến hành bảo dưỡng luân phiên dây chuyền sản xuất của mình. Tính đến nay Feng Hsin đã giữ giá không đổi trong 3 tuần.

“Sản lượng của chúng tôi sẽ giảm do bảo trì tại một trong hai nhà máy vì vậy chúng tôi không vội bán”, ông giải thích. Việc đóng cửa 11 ngày bắt đầu từ thứ Hai. Feng Hsin dự kiến sẽ hoàn tất việc bảo trì vào ngày 05/8 và sau đó sẽ bắt đầu sửa chữa và bảo trì nhà máy thứ hai.

Do đó, trong tuần này, giá niêm yết thép cây của  Feng Hsin vẫn ở mức 12.800 Đài tệ/tấn (410 USD/tấn) xuất xưởng Taichung, và giá mua cho phế HMS 1&2 (80:20) là 5.900 Đài tệ/tấn.

Nguồn cung điện thường hạn chế trong tháng 7 và 8 ở Đài Loan vì tiêu thụ điện hộ gia đình gia tăng đáng kể. Phí tiền điện của các công ty công nghiệp nặng chẳng hạn như các nhà sản xuất thép sẽ được tăng lên để khuyến khích các nhà sản xuất tạm dừng cơ sở của  họ để kiểm tra định kỳ và bảo dưỡng. Sản lượng thép cây của Feng Hsin sẽ chỉ bằng 2/3 tổng sản lượng 1 tháng bình thường trong tháng 7 và 8.

Các nhà máy ở Hàn Quốc và Nhật Bản đã có hành động tương tự. Đơn cử như Hyundai Steel, xác nhận tuần trước rằng sẽ tiến hành bảo trì định kỳ vào mùa hè tại xưởng Incheon và Pohang từ cuối tháng 7 tới tháng 10. Kyoei Steel đóng cửa để bảo trì mùa hè trong vòng 9-14 ngày bắt đầu từ 25/7.

Thép cây Châu Á vẫn duy trì không đổi do thị trường Trung Quốc suy yếu hơn

Giá thép cây giao ngay ở châu Á một lần nữa duy trì ổn định trong ngày thứ Hai khi một số nhà xuất khẩu Trung Quốc giữ chào giá không đổi, với thép giao sau suy yếu hơn ảnh hưởng đến giá trong nước. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm là 316-324 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, không đổi so với thứ Sáu tuần trước.

Các nhà máy Trung Quốc tiếp tục thận trọng về việc đưa ra chào giá trong bối cảnh thị trường trong nước biến động và người mua ở nước ngoài cũng khẳng định họ muốn nán lại để đợi sự rõ ràng hơn và một số trong số họ có lẽ sẽ đặt đơn hàng theo nhu cầu cơ bản.

Một nhà máy lớn ở Trung Quốc chào giá 325 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, tương đương 335 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với dung sai khối lượng 3%. Một nhà máy ở đông bắc cho biết đang cân nhắc chào giá ở mức tương tự, nhưng không thực hiện bất cứ thông báo nào. Trong khi đó, một nhà máy ở miền đông chào giá 340 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Chào giá tới Hong Kong vào khoảng 335 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 329 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 6 USD/tấn. Tuy nhiên, giá dự thầu cho các dự án xây dựng ở Hong Kong chỉ tương đương 310 USD/tấn, bao gồm dịch vụ hậu cần và chi phí tài chính. Người mua sẽ bị lỗ ngay lập tức nếu như họ chấp nhận nhập khẩu ở mức chào giá hiện nay.

Giá hỏi mua từ Hong Kong dưới 320 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 314 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 6 USD/tấn. chào giá từ các nhà xuất khẩu Trung Quốc tới Singapore là khoảng 335-340 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương  333-338 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

HRC Châu Á lao dốc khi các nhà máy Trung Quốc thiếu đơn hàng

Giá HRC giao ngay ở châu Á sụt giảm trong ngày đầu tuần khi hầu hết các nhà máy Trung Quốc đều thiếu đơn hàng. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 360-365 USD/tấn FOB, giảm 2 USD/tấn so với thứ Sáu tuần trước.

Benxi Iron & Steel chào giá 375 USD/tấn FOB cho SS400 HRC. Một nhà máy khác ở miền bắc chào giá 370 USD/tấn CFR Hàn Quốc cho thép cuộn cùng loại (với phí vận chuyển 10 USD/tấn) và một nhà máy lớn ở miền đông chào giá 375 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Các nhà máy Trung Quốc khác chào giá trên 380 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Nhưng không có giao dịch nào được ký kết.

Shagang Group chào giá 375 USD/tấn FOB cho SS400 HRC và từ chối bán tới một người mua Việt Nam chỉ đưa ra giá 365 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Mặt khác, người mua ở nước ngoài cũng do dự đưa ra bất kỳ giá hỏi mua nào. Một số nhà máy Trung Quốc sẵn sàng xác nhận đơn hàng một khi hỏi mua chắc chắn bất luận ở mức nào. Một nhà máy ở miền đông đã bí mật bán một số SS400 HRC với giá chỉ khoảng 350 USD/tấn FOB hồi đầu tuần trước.

Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.610-2.620 NDT/tấn (391-392 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, tăng 30 NDT/tấn so với ngày trước đó. Đối với thép cuộn SAE, Wuhan Iron & Steel tiếp tục giữ chào giá ổn định ở mức 390 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi chào giá Ấn Độ là 400-402 USD/tấn CFR Việt Nam. 

“Người mua chế giễu những đề nghị giá trong nước sẽ tăng trở lại”, một thương nhân người Việt nói, người mua ở đó nghĩ là giá trong nước lẫn xuất khẩu sẽ giảm trong tương lai.  HRS SS400 được sản xuất bởi Baotou Iron & Steel đang được chào giá 370 USD/tấn CFR Việt Nam và không ai tỏ ra quan tâm.

Thị trường CRC Đông Á ổn định hơn do giá HRC Trung Quốc cao hơn

Giá CRC đã mạnh lên trong tháng này ở Đông Á do giá HRC Trung Quốc cao hơn và nhu cầu khu vực này ổn định. Hoạt động thu mua duy trì trong khu vực và thị trường Philippine sôi động hơn những nơi khác.

Chào giá cho CRC annealed 1mm từ Trung Quốc để giao tháng 9 phổ biến mức 405-410 USD/tấn CFR Manila. Các nguồn tin giao dịch cho biết các cuộc thương lượng hiện đang diễn ra. Một thương nhân ở đây cho biết các giao dịch gần đây có giá 400-405 USD/tấn CFR Manila. “Việc mua ổn định nhưng chỉ dành cho lô nhỏ hơn”.

Các đơn đặt hàng đang được thu gom từ một vài khách hàng cho một vài trăm tấn với mỗi đơn hàng là 1.000 tấn. “Không ai có thể mua hơn 1.000 tấn”.  CRC Full hard 0.7-2.0mm từ Trung Quốc đang được chào giá 395 USD/tấn CFR Manila.

“Việc thu mua lẻ tẻ”, một thương nhân khác cho hay. Ông cho biết người mua  Philippines không mua các lô hàng nhiều hơn 1.000 tấn bởi vì thị trường bất ổn. CRC và HRC full hard Trung Quốc cũng có giá tương tự, CRC đang tăng chậm.

CRC full-hard dày từ 0.7mm  trở lên xuất xứ Đài Loan được chào giá 450 USD/tấn CFR Đông Á. Hoạt động thu mua ở khu vực này ổn định, trong đó có Philippines, bởi khách hàng là những người có ý thức về chất lượng hơn.

Định giá hàng tháng của Platts cho CRC SPCC 1mm ở Đông Á là 400-450 USD/tấn CFR USD/tấn CFR, từ 395-435 USD/tấn CFR của cuối tháng 6. Mức giá trung bình 425 USD/tấn CFR là cao hơn tháng trước 10 USD/tấn.