Giá CRC không gỉ Châu Á ổn định trước lễ
Giá CRC không gỉ Đài Loan và Hàn Quốc ổn định trong tuần qua ở mức 2.150 USD/tấn CFR Đông và Đông Nam Á.
Hoạt động thị trường chậm trước lễ giáng sinh. Thị trường đang chờ giá mới tháng 1 từ các nhà máy lớn.
Giá sẽ tương đối ổn định trong ngắn hạn dựa vào giá niken tăng. Giá Hàn Quốc vẫn cao và chỉ nguyên liệu Đài Loan cạnh tranh với Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, nhà máy Taigang Stainless Steel thông báo giá xuất khẩu 2.040 USD/tấn FOB giao tháng 1 và ngưng chào bán từ ngày thứ năm.
Giá thu hút nhiều đơn hàng do các thương nhân thấy rằng vẫn có lời ở mức này. Chào giá giao ngay vẫn ở mức 2.150 USD/tấn FOB.
Giá giao dịch niken trên sàn LME giảm 775 USD/tấn so với tuần trước, ở mức 11.915 USD/tấn trong ngày 21/12.
Bản tin phế tuần: thị trường phế tăng trưởng
Giá nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong tuần trước do nguồn cung hạn chế và giá thép thành phẩm tăng. Có vài lo lắng về khả năng duy trì đà tăng giá HRC trong khi sức mua suy yếu.
Trong ngày thứ năm tuần trước, một thương nhân Bờ đông Mỹ đã bán một lô hàng phế vụn tới một nhà máy EAF Iskenderun ở mức 375 USD/tấn CFR và phế bonus ở mức 380 USD/tấn CFR.
Chi phí than đá tăng cũng hỗ trợ giá phế do các nhà máy tăng thu mua phế và tìm cách giảm tiêu thụ than đá.
Nhu cầu tiêu thụ mạnh hơn từ các khu vực khác cũng hỗ trợ thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ.
Thị trường phế Đông Á tăng trưởng trong tuần qua với giá chào bán và mua đều tăng. Đối với phế Nhật, vài nhà máy Hàn Quốc đặt mua phế H2 Nhật ở mức 36.000 Yên/taans FOB hồi đầu tuần.
Các nhà máy Việt Nam nhận được giá chào ở mức 360 USD/tấn CFR Việt Nam, nhưng chưa có đơn hàng nào được xác nhận. Tại Nhật Bản, các thương nhân trả 34.500 Yên/tấn FAS cho phế H2 xuất khẩu từ phía đông, tăng 500 Yên/tấn so với tuần trước. Giá thu mua phế H2 của nhà máy Tokyo Steel tại Utsunomiya là 36.000 Yên/tấn.
Platts tăng giá xuất khẩu phế Ferite H2 Nhật thêm 500 Yên/tấn lên 36.000 Yên/tấn (318 USD/tấn) FOB Vịnh Tokyo.
Thị trường phế HMS khối lượng lớn Châu Á vẫn lạc quan với giấ chào bấn cao cũng như giao dịch tăng dựa vào tồn kho phế nội địa Mỹ thắt chặt. Trong tuần thứ hai tháng 12, một nhà máy Việt Nam đã đặt mua một đơn hàng phế khối lượng lớn từ Mỹ ở mức giá 390 USD/tấn CFR Việt Nam.
Dựa vào thị trường lạc quan ở Mỹ và Nhật Bản, các nhà máy Việt Nam đang tìm kiếm phế và một nhà máy chốt giao dịch trong ngày thứ ba tại mức 354 USD/tấn CFR Việt Nam khối lượng 3.000 tấn phế HMS I/II Hồng Kông.
Trong khi ddos, chào giá cho phế HMS khối lượng lớn Hồng Kông ở mức 350-355 USD/tấn CFR Việt Nam.
Giá nhập khẩu phế HMS I/II khối lượng lớn Đông Á vào Việt Nam ở mức 390 USD/tấn CFR tuần này,t ăng 35 USD/tấn từ mức 355 USD/tấn tuần trước. Thị trường phế HMS khối lượng nhỏ Đông Á cũng tăng trưởng với giá chào bán và giao dịch tăng.
Một nhà máy Đài Loan đặt mua phế HMS khối lượng nhỏ Mỹ tại mức 340 USD/tấn CFR Đài Loan, tăng 10 USD/tấn trong tuần trước.
Trong khi giá chào bán tới Đài Loan cho phế HMS Mỹ vẫn ở mức 340 USD/tấn CFR Đài Loan thì các khách hàng phế lớn sẵn sàng chấp nhận mức này.
Dựa vào phế tăng giá gồm cả phế HMS và Nhật, các nhà máy Đài Loan đang tập trung vào thu mua phế hơn cũng như gang thỏi.
Giá phôi thanh Châu Á tăng do người mua cạnh tranh nguyên liệu
Giá phôi thanh Châu Á tiếp tục tăng do người mua vội đặt hàng sau khi nhà máy Hadeed Ả Rập Saudi công bố tình trạng bất khả kháng sau hỏa hoạn.
Một thương nhân Thượng Hải cho biết, một giao dịch 10.000-20.000 tấn phôi thanh Trung Đông chốt ở mức 535 USD/tấn CFR Manila trong tuần trước.
Một thương nhân khác báo cáo các khách hàng Philippines đã mua phôi thanh Việt Nam ở mức 535-540 USD/tấn CFR hồi giữa tuần trước sau khi biết được nhà máy Hadeed không thể giao hàng. Giá giao dịch cao nhất tầm 545 USD/tấn CFR Manila.
Một thương nhân Việt Nam cho biết các khách hàng sẽ chấp nhận giá trên 535 USD/tấn CFR Manila. Một nhà máy cho biết các khách hàng của ông có thể chấp nhận giá 530-535 USD/tấn CFR.
Một nhà máy Ấn Độ đã mời thầu trong tuần trước với giá thắng trên 542 USD/tấn CFR Manila. Giá chào từ một nhà máy Việt Nam vẫn ở mức 540-545 USD/tấn FOB, không đổi so với tuần trước.
Bản tin than đá tuần: giá tăng mạnh do nguồn cung thắt chặt
Giá than đá Châu Á- Thái Bình Dương tiếp tục tăng mạnh nhờ nguồn cung thắt chặt và sự tắc nghẽn ở cảng Dalrymple Bay ở Úc.
Các khách hàng Trung Quốc chủ yếu dựa vào hàng nội địa giá rẻ hơn và từ chối nhập khẩu nhưng vẫn có nhu cầu từ các khu vực khác. Platts tăng giá than đá nhập khẩu vào Trung Quốc thêm 5.25 USD/tấn so với tuần trước lên 230 USD/tấn CFR Trung Quốc.
Các lô hàng giao ngay tiếp tục khan hiếm do nguồn cung có sẵn hạn chế tới tháng 2. Nhiều giao dịch giá cao được nghe cho các lô hàng than đá chất lượng cao trong tuần này, với giá chốt cao nhất là 260 USD/tấn FOB Úc cho than đá chất lượng cao 72-74% CSR. Tuy nhiên, chưa có thông tin cụ thể.
Nhiều khách hàng Châu Á đã có đủ hàng dự trữ hoặc thỏa mãn với các hợp đồng dài hạn, tuy nhiên vẫn có người đói hàng và sẽ phải trả cao hơn để mua.
Các khách hàng Châu Á cũng phải cạnh tranh với nhu cầu tiêu thụ từ Châu Âu cho than đá Úc trong tuần này do than đá ở Mỹ thắt chặt. Xét về nguồn cung, mọi nơi đều tahwts chặt và cấc nhà máy có thể đối mặt với vấn đề thiếu hàng dự trữ trong mùa đông này.
Tại Trung Quốc, người mua tiếp tục xa lánh hàng nhập khẩu do giá cao so với giá trong nước. Tuy nhiên, nguồn cung trong nước cũng dần thắt chặt, nhất là than chất lượng cao có hàm lượng sulfur thấp. Người mua sẽ phải nhập khẩu khi mà nguồn cung trong nước hạn chế.
Có tin đồn về việc dỡ bỏ lệnh cấm nhập khẩu ở các cảng phía năm nhưng nhiều thành viên thị trường cho biết chưa nhận được thông báo chính thức. Giá than cốc ở Úc tiếp tục xu hướng tăng với một nhà máy lớn tăng giá thêm 100 NDT/tấn vào cuối tuần.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá thép dài do giá nguyên liệu thô tăng
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng giá thép dài do giá phế và phôi thanh cùng tăng dù nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu chậm chạp trước năm mới. Nhà máy lớn Kardemir cũng hưởng ứng tăng giá trong ngày thứ sáu và chào bán giá cao hơn cho thép cây trong nước.
Giá bán của Kardemir cho thép thanh tròn ở mức 2.245 Lira/taans (588 USD/tấn) xuất xưởng trong khi thép cây ở mức 2.228 Lira/tấn (583 USD/tấn) xuất xưởng trong ngày thứ sấu, cùng tăng 28 Lira/tấn (7.50 USD/tấn) so với giá ngày 7/12.
Công ty cũng tăng mạnh giá thép dây thêm 25 Lira/tấn (6.50 USD/tấn). Giá của Kardemir cho thép dây dạng lưới 5.5mm cũng tăng lên 2.360 Lira/tấn (618 USD/tấn) xuất xưởng trong khi loại 6-32mm cũng tăng lên 2.300-2.315 Lira/tấn (602-606 USD/tấn) xuất xưởng.
Kardemir cũng nhận đơn hàng thép hình và góc với giá cao hơn. Giá cho thép hình tăng mạnh thêm 30 Lira/tấn (7.80 USD/tấn) so với giá niêm yết cũ lên 2.380-2.455 Lira/tấn (623-643 USD/tấn) xuất xưởng.
Công ty cũng tăng giá thép góc cùng mức, với loại 150x15mm tăng lên 2.505- 2.555 Lira/tấn (655-669 USD/tấn) còn loại 180x18mm tăng lên 2.635 Lira/tấn (690 USD/tấn). Giá của Kardemir chưa tính VAT 18%.
Tuy nhiên, công ty này chưa nhận đơn hàng phôi thanh. Vài nhà máy khác cũng chưa chaaof bấn trở lại trong khi một số chào giá 545 USD/tấn xuất xưởng. Giá nhập khẩu từ CIS ở mức cao 535 USD/tấn CFR.
Bản tin quặng tuần: nhu cầu tiêu thụ mạnh hỗ trợ giá
Giá nhập khẩu quặng vào Trung Quốc tăng do người mua tăng đặt hàng trước lợi nhuận thép tăng mạnh.
Giá nhập khẩu quặng 62% Fe vào Trung Quốc tăng 1.15 USD/tấn so với thứ năm và 3.15 USD/tấn so với tuần trước lên 74.60 USD/tấn CFR Trung Quốc.
Cả các thương nhân và người mua sẵ sàng trả cao hơn cho quặng với dự báo giá tăng và tiêu thụ mạnh trong ngắn tới trung hạn.
Các nguồn tin cho biết các hạn chế sản lượng khiến quặng thu hút, dẫn tới nguồn cung tại các cảng lớn tương đối thấp. Do các nhà máy thép đang theo đuổi nguồn quặng chất lượng cao nên phần lớn tồn kho ở cảng là quặng thấp và cục.
Triển vọng giá ngắn hạn xáo trộn, với dự báo hoạt động thị trường chậm trước năm mới trong khi số khác dự báo lợi nhuận mạnh tiếp tục hỗ trợ giá quặng. giá thép tăng tích cực hỗ trợ giá quặng. giá giao ngây phôi thanh Đường Sơn tăng 40 NDT/tấn lên 3.890 NDT/tấn xuất xưởng.
Trong khi đó,chênh lệch giá quặng cục với quặng cám tương đối ổn định trên tuần do tiêu thu nhỏ giọt còn nguồn cung tại cảng tăng. Chênh lệch giá giảm 0.0030 USD/tấn so với thứ năm và 0.0010 USD/tấn so với tuần trước đó xuống 0.0845 USD/tấn.
Một thương nhân Bắc Kinh cho biết phải mất nhiều tháng để làm sạch nguồn cung quặng cục tại cảng do tiêu thụ yếu ớt. Tồn kho quặng cục tăng tại cảng là áp lực chính cho giá quặng cục.
Giá than đá tăng vọt làm giảm tiêu thụ quặng cục do các nhà máy ưa chuộng nguyên liệu chuyển đổi trực tiếp tiêu thụ ít than cốc hơn. Các nhà máy cũng tăng thu mua phế lên mức cao 25% để giảm tiêu thụ than đá.
Thị trường tấm mỏng Mỹ trong tâm lý lễ
Thị trường tấm mỏng Mỹ im ắng trong ngày thứ sáu do lễ giáng sinh với dự báo năm 2018 sẽ chứng kiến thị trường tiếp tục cải thiện so với năm nay.
Một nhà máy đang bán ở mức 660 USD/tấn và giá này là bình thường ở thời điểm hiện tại trong khi số người cho rằng giấ cao. Tuy nhiên, tồn kho vẫn thấp và có ít lựa chọn cho người mua.
Một trung tâm dịch vụ dự báo năm 2018 sẽ tốt hơn năm nay do giá năm nay tăng mạnh so với năm ngoái. Giá tiếp tục tăng trưởng nủa đầu năm.
Giá HRC tăng 50 USD/tấn, tầm 8.4% so với tháng 12 năm ngoái trong khi CRC tăng 22.50 USD/tấn, tầm 2.8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Hơn thế nữa, giá đấy Qúy 4 năm nay cao hơn nhiều so với năm trước. Cả năm 2016 và 2017, giá ở mức thấp trong tháng 10. Giá HRC và CRC chạm đáy ở mức 470 USD/tấn và 695 USD/tấn trong năm 2016. Giá chạm đáy 589 USD/taans và 776.75 USD/tấn trong Q4 năm nay.
Thị trường Canada cũng cải thiện nhưng với tốc độ chậm hơn Mỹ. Giá Canada bị ảnh hưởng bởi giá phế. Các khách hàng Canada có thể tìm mua CRC và thép mạ Trung Quốc, điều này đang ảnh hưởng tới thị trường.
Giá xuất khẩu gang thỏi CIS giao tháng 2 tăng nhẹ
Các nhà xuất khẩu gang thỏi CIS tăng giá các lô hàng giao tháng 2 và thu lại được giá cao hơn chút. Giá tăng vừa phải so với mức tăn mạnh của giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ, tuy nhiên, giá giao dịch gang thỏi CIS vẫn có khả năng tăng nữa.
Một thương nhân Nga cho biết giá chào bán đã tăng lên 390-400 USD/tấn CIF Nola, tương đương mức 370-380 USD/tấn FOB Biển Đen/ Bantic tùy vào nhà máy. Một khách hàng lớn ở Mỹ không muốn chấp nhận giá mới còn các khách hàng nhỏ chờ đợi khách hàng lớn đặt mua trước.
Một nhà máy Ukraina cho biết Mỹ đã chấp nhận giá 380 USD/tấn CIF, tăng 5 USD/tấn so với giá mua trước. Nhà máy này cũng xác nhận giá chào tới thị trường Ý tầm 380-390 USD/tấn CIF. Một thương nhân cho biết các lô hàng tới Ý giao tang 2 ở mức 380-385 USD/tấn CIF Marghera, tầm 360-365 USD/tấn FOB Biển Đen. Các giao dịch tới Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ tầm 385 USD/tấn CIF, tương đươn 365 USD/tấn FOB Biển Đen.
Giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tăng
Giá niêm yết cho HRC, CRC và thép mạ Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng mạnh trong tuần trước do chi phí đầu vào gia tăng và giá chào nhập khẩu tăng. Tuy nhiên, người mua kháng cự lại các chào giá mới và giá giao dịch thấp hơn 10-15 USD/tấn.
Một nhà máy lớn bắt đầu chào bán ở mức cao 610-620 USD/tấn trong nước xuất xưởng tùy vào khu vực. Giá niêm yết các nhà máy khác cũng tăng mạnh lên 600-610 USD/tấn xuất xưởng. Giá chốt trong nước tầm 590-600 USD/tấn xuất xưởng tùy vào khối lượng.
Giá xuất khẩu tới Châu Âu đạt mức 585-595 USD/tấn FOB nhưng tiêu thụ chậm trước thềm năm mới. Tuy nhiên, phần lớn cấc nguồn tin dự báo sức mua sẽ phục hồi vào giữa tháng 1 và các khách hàng nội địa và xuất khẩu sẽ chấp nhận giá cao hơn do giá nguyên liệu thô tăng và tâm lý giá thế giới mạnh.
Giá nhập khẩu từ CIS ở mức cao 575 USD/tấn CFR nhưng các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ từ chối.
Giá CRC cũng tăng theo giá HRC. Giá chào CRC đạt mức cao 690-700 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá giao dịch CRC ở mức thấp 680-685 USD/tấn xuất xưởng trong bối cảnh thiếu sức mua trước cuối năm.
Giá HRC tăng tiếp tục hỗ trợ giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ. Vài nhà máy tăng giá niêm yết HDG. Hai nhà máy lớn bắt đầu chào bán HDG ở mức cao 800 USD/tấn xuất xưởng ở trong ước trong khi giá HDG 1mm đạt mức 720-730 USD/tấn xuất xưởng.
Giá chào HDG 0.5mm các nhà máy khác trong nước tầm 780-790 USD/tấn trong khi giá chào xuất khẩu thấp hơn 10-15 USD/tấn tùy khối lượng và khu vực.
Giá thép cây Châu Á ổn định
Thị trường thép cây Châu Á ổn định trong ngày thứ sáu do lễ giáng sinh ở nhiều nước. Các nhà máy giữ giá chào bán ổn định.
Tại Hồng Kông, giá chào thép cây Ấn Độ là 585 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế giao tháng 2. Giá này cũng là giá cho thép cây Thổ Nhĩ Kỳ và Saudi Al-Ittefaq. Giá chào tháng 1 tầm 575 USD/tấn CFR cho thép cây Saudi.
Không có chào giá từ Qatar do thị trường nội địa mạnh. Một nhà môi giới nghĩ rằng giá chào ít nhatas 585 USD/tấn CFR mặc dù ông chưa chốt giá.
Nhiều thương nhân và các nhà môi giới Hồng Kông và Singapore bắt đầu nghỉ lễ từ thứ năm.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định do các nhà máy giữ giá chào bán
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định do các nhà máy Trung Quốc giữ giá chào bán không đổi trong bối cảnh thiếu giao dịch.
Giá HRC giao ngay nội địa Trung Quốc tăng 25 NDT/tấn lên 4.320-4.330 NDT/tấn (657-659 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn giao kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 5/2017 chốt tăng 77 NDT/tấn lên 3.958 NDT/tấn.
Mặc dù giá nội địa tăng song các nhà máy giữ giá chào xuất khẩu ở mức 585-600 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400. Giá chào tương đối cao khiến người mua chọn cách chờ đợi.
Nhà máy Formosa Hà Tĩnh chào bán HRC SAE1006 tại mức 575 USD/tấn CFR Đông Nam Á giao tháng 2, thấp hơn chào giá của nhà máy hồi tháng 11 là 10 USD/tấn. Formosa cũng chào trong nước ở mức 565-570 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 2.
Giá thép dây Mỹ tăng do các nhà máy tăng giá chào bán
Giá thép dây ít cacbon Mỹ tăng do các nhà máy tăng giá chào bán. Platts tăng mức định giá tuần cho thép dây Midwest lên 590-610 USD/tấn xuất xưởng từ mức 580-600 USD/tấn.
Một nguồn tin cho biết giá đang tăng dựa vào thông báo tăng giá thêm 45 USD/tấn của các nhà máy hồi đầu tháng 12.
Các nhà máy nội địa có vị thế vững chắc nhờ vụ kiện thương mại 232 và giá nguyên liệu thô tăng như điện cực, hợp kim ferrite, phế, phôi thanh,…
Mặc dù giá chào bán tăng song nhu cầu tiêu thụ và giá giao dịch không cải thiện trước lễ giáng sinh cuối tuần, tuy nhiên, dự báo giá tháng 1 sẽ tăng. Khi đó tiêu thụ mạnh nên các nhà máy sẽ tăng công suất. Gần đây có tin Liberty House đã hoàn thành việc mua lại nhà máy thép dây South Carolina của và thị trường sẽ chứng kiến sự gia tăng công suất trong ngắn hạn.
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ chưa thành công ở thị trường xuất khẩu
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ không thu hoạch được nhiều ở thị trường xuất khẩu, với chỉ vài đơn hàng nhỏ được đặt. giá chốt các đơn hàng này gần mục tiêu 570 USD/tấn FOB.
Một nhà máy lớn Thổ Nhĩ Kỳ lạc quan về năm mới do giá phế đang tăng, nhưng những ngày cuối năm sẽ khó khăn cho thị trường xuất khẩu. mức 570-575 USD/tấn FOB Marmara không dễ dàng bán được. Các nhà máy CIS đang chào thấp hơn Thổ Nhĩ Kỳ. Các khách hàng Yemen, Israel, Malaysia, Indonesia và Châu Âu chào mua ở mức 560-565 USD/tấn FOB.
Một nhà máy cho biết Châu Âu và Châu Phi đã đặt hàng ở tuần trước với giá từ 560 USD/tấn FOB Iskenderun. Một khách hàng Châu Âu cho biết giá chào tầm 565 USD/tấn FOB và 575 USD/tấn FOB tùy nhà máy. Tuy nhiên, hiện tại không ai mua ở các mức này.
Thị trường Mỹ vẫn im ắng trước các chào giá trên 600 USD/tấn CIF Houston từ Thổ Nhĩ Kỳ. Một nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ thừa nhận có chênh lệch lớn giữa giá chào bán và chào mua.