Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 26/4/2017

Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tăng trở lại sau 7 tuần lao dốc

Giá xuất khẩu CRC Trung Quốc tăng trở lại hồi đầu tuần này, đặt dấu chấm hết cho đà trượt giảm 7 tuần liên tiếp trước đó kể từ hồi tháng 3. Sự cải thiện của thị trường trong nước là động lực kéo giá xuất khẩu tăng. Platts định giá CRC SPCC 1mm tại mức 455-460 USD/tấn FOB Trung Quốc trong ngày 25/4 với giá trung bình là 457.5 USD/tấn FOB, nhích 1.5 USD/tấn so với tuần trước sau khi mất tổng cộng 139 USD/tấn trong giai đoạn tính từ ngày 1/3 -18/4. Chênh lệch giá CRC và HRC  hiện tại là 48.50 USD/tấn.

Trong ngày hôm qua, giá CRC cùng loại tại thị trường nội địa ổn định ở mức 3.380-3.400 NDT/tấn (491-494 USD/tấn), không đổi so với thứ ba tuần trước. Tuy nhiên, so với cuối tuần trước thì đã nhích thêm 40-50 NDT/tấn. Các giao dịch thép vẫn hoạt động sau khi giá tăng.

Nhiều thương nhân cho rằng giá có thể giao dịch cho CRC SPCC 1.0mm đã tăng lên mức 455-460 USD/tấn FOB từ mức 450-455 USD/tấn FOB trước đó. Một thương nhân Thượng Hải cho biết đã mua một đơn hàng CRC từ một nhà máy lớn với giá 460 USD/tấn FOB do nhà máy này từ chối  thay đổi giá bán. Theo dự đoán thì nhà máy này  có lẽ đã nhận được các đơn đặt hàng tốt trong tuần qua nên không muốn bán rẻ vào tuần này.

Tuy nhiên, một thương nhân vẫn nghi ngờ về việc giá xuất khẩu có thể duy trì đà tăng trở lại. Ông cho rằng mức giá chào 455 USD/tấn FOB vẫn có sẵn trên thị trường.

Các nhà máy Trung Quốc tăng giá chào xuất khẩu thép cây trong bối  cảnh thị trường Châu Á bình ổn

Thị trường xuất khẩu thép cây Châu Á ổn định trong ngày hôm qua. Platts tăng giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm lên 1 USD/tấn so với đầu tuần, đạt mức 404-405 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Một đơn hàng 7.000 tấn thép cây từ nhà máy Beitai chốt ở mức 410 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế, tương đương mức 405 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá này thấp hơn giá bán ra của các nhà máy khác vì đơn hàng không chứa thép cây đường kính 40mm.

Tại Hong Kong, giá chào từ Trung Quốc ở mức 415 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế cho các đơn hàng giao nhanh vào tháng 6/7, tương đương mức 395 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Tại Singapore, các nhà máy cũng tăng giá chào bán thêm 10-20 USD/tấn cho lô hàng giao tháng 6, lên mức 425-435 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương mức 422-432 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế đã tính phí vận chuyển 16 USD/tấn và chênh lệch khối lượng 3%. Giá chào cho các lô hàng giao tháng 7/tháng 8/tháng 9 ở mức 395 USD/tấn CFR.

Một nhà máy phía Bắc đã tăng giá chào bán chính thức thêm 20 USD/tấn, lên mức 420 USD/tấn FOB Trung Quốc trong ngày hôm qua trong khi một nhà máy tại phía Đông tăng giá chào lên thêm 10 USD/tấn, đạt mức 410 USD/tấn FOB, tương đương mức 423-433 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế nhưng người mua từ chối giá này và vẫn giữ giá chào mua ở mức 410 USD/tấn CFR Hong Kong và 400 USD/tấn CFR Singapore.

Một thương nhân phía Đông cho rằng tâm lý thị trường vẫn suy yếu trong ngày hôm qua và người mua vẫn lo ngại khi đặt hàng dựa vào đà giảm giá thép gần đây.

Các nhà xuất khẩu HRC CIS lần nữa đối mặt với áp lực cạnh tranh từ Trung Quốc

Giá xuất khẩu HRC của CIS đã giảm nhẹ trong tuần này với giá giao dịch mới nhất là 470 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ sau khi giá chào bán 475 USD/tấn CFR (450-455 USD/tấn) bị người mua từ chối. Thị trường xuất khẩu thép cuộn CIS gặp áp lực do giá Trung Quốc giảm mạnh trong 2 tuần qua.

Hàng tồn kho tại Trung Quốc ở mức cao trong khi tiêu thụ suy yếu nên bây giờ họ đẩy mạnh ra xuất khẩu, gây áp lực tới doanh số bán của CIS ở Bắc Phi sau một thời gian vắng bóng. Giá từ Trung Quốc giảm mạnh nên có tính cạnh tranh cao và các nhà máy CIS đang dần tuột mất các thị trường như Việt Nam và Pakistan. Trong tuần này, có thông tin cho rằng có một nhà máy CIS chào bán ở mức thấp 440 USD/tấn FOB do muốn bán nhanh số thép còn lại, nhưng chưa có cơ sở chính xác về giá chào này.

Trong khi đó, một thương nhân Châu Âu cho rằng đang có nhiều thương nhân bán khống hơn và họ cố gắng bán với giá dưới mức 400 USD/tấn FOB cho thép cuộn Trung Quốc. Hồi đầu tuần, Platts định giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ở mức 409 USD/tấn FOB Thiên Tân.

 Trong ngày 25/4, Platts giảm định giá HRC theo ngày của CIS xuống còn 450-455 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm 2.50 USD/tấn so với ngày đầu tuần. Trong khi đó, CRC cũng giảm 7.50 USD/tấn còn 505-515 USD/tấn.

 Giá HRC Châu Á ổn định bất chấp giá giao kỳ hạn Trung Quốc tăng

Giá HRC giao ngay tại từng khu vực Châu Á vẫn ổn định ngày thứ hai liên tiếp dù giá giao kỳ hạn Trung Quốc tăng. Platts giữ nguyên giá HRC SS400 dày 3mm ở mức 409 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Một nhà máy ở miền Bắc Trung Quốc cho biết giá chào 420 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn thương phẩm là có thể thu hút người mua nhưng hiện vẫn chưa có ai dự thầu giá này. Một nhà máy cho rằng người mua đưa ra giá dự thầu quá thấp nên ông không thể chấp nhận.

Một thương nhân Việt Nam cho biết, hầu hết các nguồn tin Việt Nam đều dự báo giá sẽ giảm nữa nên không đặt hàng. Tình hình thị trường vẫn trầm lắng và không có giao dịch trong ngày hôm qua.  Một thương nhân Hàn Quốc cũng tin rằng giá HRC sẽ giảm nữa và chọn cách theo dõi xu hướng giá trước khi hành động.

Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm đạt mức 2.980-3.000 NDT/tấn (433-436 USD/tấn) xuất xưởng đã gồm 17% VAT với giá trung bình là 2.990 NDT/tấn, tăng 40 NDT/tấn so với đầu tuần. Tương tự, giá giao kỳ hạn trên sàn SHFE cũng tăng 36 NDT/tấn lên mức 2.992 NDT/tấn.

Doanh số bán thép cán nguội không gỉ tại thị trường Nhật Bản tăng trong tháng 3

Doanh số bán thép cán nguội không gỉ austenitic và ferritic của các trung tâm thép cuộn Nhật Bản tăng 1.9% trong tháng 3 so với cùng kỳ năm ngoái và 8.2% so với tháng 2, lên mức 59.575 tấn. Trong đó, doanh số bán thép austenitic giảm 5% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng tăng 1.2% so với tháng 2, đạt mức 30.530 tấn còn thép ferritic thig giảm 10.3% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng tăng 2.9% so với tháng 2, ở mức 29.045 tấn.

Các quan chức JSCA phụ trách về dữ liệu này vẫn chưa đưa ra bàn luận nào trong ngày hôm qua, nhưng theo một nhà phân phối thép không gỉ ở Tokyo thì các đơn đặt hàng trong tháng 4 có vẻ chậm lại và các nhà máy giữ chặt cán cân cung-cầu.

Tồn kho thép cán nguội không gỉ tại các trung tâm thép cuộn hồi cuối tháng qua ở mức 99.945 tấn, giảm 9.45 so với cùng kỳ năm ngoái nhưng tăng 5.6% so với cuối tháng 2. Tồn kho so với tháng 2 tăng nhưng vẫn ở mức tương đối thấp.

Một nhà phân phối khác tại Tokyo cho biết các nhà máy đã giữ giá giao dịch tháng 4 và dường như sẽ tiếp tục giữ nguyên giá trong tháng 5. Thậm chí nếu giá hợp kim giảm thì họ sẽ cũng sẽ tăng giá cơ sở để giữ giá bán không đổi. Ông cho rằng bản thân các nhà phân phối thì cần phải nâng giá bán lên còn các nhà máy vẫn giữ giá. Do đó, cuối cùng các nhà phân phối chỉ thu lại được một nửa trong mức tăng mà các nhà máy yêu cầu họ trả thêm.

Nhà máy  Nippon Steel & Sumikin Stainless đã tăng giá bán CRC austenitic với thép tấm dày thêm 60.000 Yên/tấn (545 USD/tấn) kể từ cuối tháng 8 còn CRC ferritic thì thêm 65.000 Yên/tấn kể từ tháng 9.

 Giá thép tấm cán nguội không gỉ loại 304 dày 2mm trên thị trường Tokyo hiện tại ở mức 340.000 Yên/tấn (3.090 USD/tấn) còn thép tấm cán nguội 430 ở mức 270.000 Yên/tấn (2.455 USD/tán), tăng 40.000 Yên/tấn và 30.000 Yên/tấn so với hồi hè năm ngoái.

Định giá HRC EU

Platts giảm giá HRC Tây Bắc Âu xuống 2.50 Euro/tấn trong ngày hôm qua, còn 539-541 Euro/tấn ( 589.90-592.07 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr.

Một trung tâm dịch vụ Đức cho biết giá xuất xưởng HRC tại Châu Âu dao động trong khoảng 520-550 Euro/tấn với giá từ Ý và Đông Âu là 520 Euro/tấn còn các nhà máy lớn ở Tây Âu thì 550 Euro/tấn.

Tình hình thị trường hiện tại vẫn trầm lắng nhưng dự báo cải thiện vào tháng 5 trong khi người mua vẫn chờ theo dõi xu hướng giá rõ ràng hơn.

Trong khi đó, giá nhập khẩu giảm trở lại do giá đồng Euro tăng lên 1.09 USD từ mức 1.07 USD. Hầu hết các nhà máy đều chào bán 500-510 Euro/tấn CIF Antwerp, chủ yếu là từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ. Tuy nhiên, thị trường phần lớn đồng tình rằng giá giao dịch thực tế chỉ ở mức 490-500 Euro/tấn CIF.

Nhà máy Kardemir giảm giá thép thanh, dây và thép hình nhưng vẫn chưa nhận đơn hàng phôi thanh

Kardemir đã mở cửa nhận đơn hàng thép thanh với giá thấp hơn sau khi thấy các nhà máy khác giảm giá hồi đầu tuần dựa vào sự tăng giá của đồng Lira. Nhu cầu tiêu thụ chậm và chi phí đầu vào giảm cũng là những nhân tố góp phần vào các quyết định trên.

Giá chào mới cho thép thanh tròn giảm còn 1.640 TRY/tấn (450 USD/tấn) xuất xưởng sau khi cắt giảm, trong khi thép cây ở mức 1.593 TRY/tấn (445 USD/tấn) xuất xưởng, cùng giảm 51 TRY/tấn (14 USD/tấn) so với giá niêm yết ngày 13/4. Tuy nhiên, các mức giá này hầu như không đổi nếu tính theo đồng dolla do đồng Lira tăng giá gần đây.

Công ty này cũng giảm giá thép dây đường kính 5.5mm xuống cùng mức, còn 1.730 TRY/tấn (483 USD/tấn) xuất xưởng trong khi thép dây 6-32mm giảm còn 1.700-1.715 TRY/tấn (475-479 USD/tấn) xuất xưởng.

Kardemir cũng nhận đơn hàng thép hình và góc với giá thấp hơn. Giá tính theo đồng Lira cho thép hình giảm 51 TRY/tấn, còn 1.700 TRY/tấn (475 USD/tấn) xuất xưởng cho thép hình IPE-IPN-UPNs 160-300mm trong khi loại  IPE-IPN-UPN giảm còn 1.770 TRY/tấn. Thép hình HEA-HEBs 120-200mm, 220-260mm và 280-300mm giảm cùng mức 14 USD/tấn xuống còn 1.715 TRY/tấn (475 USD/tấn), 1.790 TRY/tấn(500 USD/tấn) và 1.865 TRY/tấn (520 USD/tấn).

Công ty này cũng giảm thép góc xuống cùng mức, còn tương đương 1.825-1.875 TRY/tấn (510-524 USD/tấn) cho thép 150x15mm, 1.955 (46 USD/tấn) cho loại 180x18mm và 1.955 TRY/tấn (546 USD/tấn) cho loại 200x16-24mm. Giá niêm yết của Kardemir không bao gồm 18% VAT.

Tuy nhiên, công ty này vẫn chưa nhận  đơn hàng phôi thanh nhưng dự báo sẽ sớm bán trở lại với giá thấp hơn trong vài ngày tới do giá phế và phôi thanh nhập khẩu giảm còn 260 USD/tấn CFR và 385=395 USD/tấn CFR trong mấy ngày gần đây.

Giá HRC suy yếu tại Châu Âu, Mỹ và Châu Á : TSI

Giá HRC và hầu hết các sản phẩm khác đều giảm trong tuần qua tại tất cả các thị trường theo khảo sát của TSI.

Giá trung bình tuần qua của HRC tại Nam Âu giảm 13 Euro/tấn còn 503 Euro/tấn xuất xưởng và đã giảm 7% trong vòng 1 tháng qua. Giá  tham khảo của TSI đối với các mặt hàng thép cuộn khác ở Nam Âu cho thấy cả HDG và CRC đều giảm nhưng tấm dày thì bình ổn.

Trong khi đó, giá HRC tại Bắc Âu giảm 10 Euro/tấn trong khi CRC không đổi. HDG giảm 8 Euro/tấn xuống còn 763 Euro/tấn xuất xưởng còn thép tấm dày giảm 6 Euro/tấn.

Giá tham khảo cho thép cây giảm 6 Euro/tấn tại Bắc Âu nhưng không đổi so với tuần trước đó, ở mwsc 408 Euro/tấn xuất xưởng ở phía Nam.

Tại Mỹ, giá HRC giảm 6 USD/tấn về mốc 646 USD/tấn FOB Midwest trong tuần qua. Giá thép tấm cũng giảm nhưng CRC tăng 2 USD/tấn còn HDG tăng 9 USD/tấn.

Tại thị trường nhập khẩu Châu Á, giá HRC giam 25 USD/tấn còn 432 USD/tấn CFR cảng ASEAN. Giá CRC giảm hơn 20% còn 470 USD/tấn trong khi thép tấm cũng giảm.

Với giá suy yếu, thời gian làm hàng trung bình cho nhiều loại thép dẹt rút ngắn lại. HRC giảm còn 6.5 tuần ở Bắc Âu và 7.3 tuần ở Nam Âu. Thời gian làm hàng CRC và HDG cũng giảm ở Nam Âu. Tuy nhiên, HDG phía Bắc Âu lại mở rộng ra 10.6 tuần. Trong khi đó, thời gian làm hàng cho thép cây ở cả hai khu vực đều không đổi.

Tại Mỹ, thời gian làm hàng cho HRC và CRC đều tăng nhưng HDG rút lại còn 8.6 tuần và thép tấm giám còn 8.1 tuần.

Dao động giá HRC tại Mỹ rút ngắn

Các nguồn tin trên thị trường tấm mỏng Mỹ cho biết họ không chắc về giá giao dịch trong ngày hôm qua do có rất ít giao dịch diễn ra và khối lượng cũng nhỏ hơn mức thông thường.

Một trung tâm dịch vụ cho biết đã đặt mua 1.000 tấn HRC tại mức giá 620 USD/tấn. Có vài nhà máy khác cũng bán 1.000-1.5000 tấn tại mức giá này nhưng ông chưa kiểm tra giá các đơn hàng nhỏ hơn.

Một trung tâm dịch vụ cho biết vẫn chưa nhận được bất cứ chào giá CRC và thép mạ nào gần đây nhưng có nhận thấy vài áp lực từ giá nguyên liệu thô toàn cầu. Các nhà máy Mỹ có thể chống lại áp lực nhập khẩu được một thời gian nhưng giá HRC và CRC nội địa có thể sẽ giảm lại do biên độ dao động giá của CRC hiện tại đã bị thu hẹp.

Platts giảm giá HRC xuống còn 635-650 USD/tấn ừ mức 640-650 USD/tấn trong ngày thứ hai trong khi CRC vẫn ổn định tại mức 830-860 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Một nhà máy được nghe đang bán tại mức 620 USD/tấn trong khi giá từ các nhà máy khác là 640-650 USD/tấn. Dự báo về xu hướng tới, nhà máy này cho biết người mua vẫn sẽ chỉ đặt các đơn hàng nhỏ để đáp ứng nhu cầu tức thời.

Một trung tâm dịch vụ khác đồng tình mức giá 640 USD/tấn là giá phổ biến cho các nhà máy nhưng vẫn có người bán thấp hơn. Gần đây, trung tâm này chưa đặt đơn hàng nào và sẽ chỉ mua ở mức tối thiểu trong vài tuần tới. Ông cũng lo rằng sức mua sẽ suy yếu trong năm nay.

Định giá phôi thanh CIS

Platts vẫn duy trì giá phôi thanh xuất khẩu CIS tại mức 375 USD/tấn trong ngày hôm qua, không đổi so với hôm thứ hai.

Một nhà máy Nga cho biết thị trường không có dấu hiệu cải thiện nào và giá vẫn ở mức 380 USD/tấn FOB Biển Đen. Giá dự thầu từ Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 380 USD/tấn CNF Marmara, tương đương mức 365-368 USD/tấn FOB Biển Đen.

Tại Bắc Phi, các nhà máy CIS vấp phải cạnh tranh từ Châu Âu do nước này chỉ chào ở mức 375 Euro/tấn (410 USD/tấn) CIF Casblanca. Một thương nhân cho rằng giá chào từ CIS lẽ ra phải dưới mức 380 USD/tấn FOB thì mơi cạnh tranh được với giá chào 385 USD/tấn FOB của Thổ Nhĩ Kỳ ở Bắc Phi do chênh lệch cước phí vận chuyển giữa hai bên.

Platts duy trì giá phôi thanh CIS ổn định ở mức 375 USD/tấn FOB do giá chào bán và chào mua đều không đổi trong bối cảnh thị trường vắng bóng giao dịch mới.

Đnh giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ

Platts giảm giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ xuống 0.5 USD/tấn còn 417.50 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ (415-420 USD/tấn).

Một nhà máy lớn cho biết đang cố gắng giữ giá chào xuất khẩu ở mức 420 USD/tấn FOB Marmara. Tuy nhiên, có người cho rằng  giá giao dịch sẽ chỉ gần mức 400 USD/tấn FOB. Trong khi đó, có thương nhân tranh cãi rằng dự báo giá giảm nữa xuống 410 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế là vẫn còn cao do giá phế giảm còn 260 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.

 Giá chào phổ biến từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 415-420 USD/tấn FOB.