Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 26/5/2014

Nguồn cung dồi dào và thị trường thép suy yếu kiềm hãm giá quặng sắt

Giá quặng sắt giao ngay trong tuần trước vẫn còn nằm dưới mức hỗ trợ trước đó 100 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, mặc dù có sự dao động giá đột ngột vào giữa tuần nhờ người mua bổ sung thêm nguyên liệu. Hôm thứ Sáu, Platss định giá IODEX 62% Fe tại 98,75 USD/tấn CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 1 USD/tấn so với tuần trước đó.

Giá tham khảo 62% Fe của TSI cũng giảm 3,2 USD/tấn trong suốt tuần vừa qua, đến thứ sáu còn 97,5 USD/tấn.

Nguồn cung tiếp tục dư thừa vẫn còn là một vấn đề nổi cộm, loại nguyên liệu làm thép chủ đạo này vẫn được chào mời và bán thường xuyên trong suốt tuần qua. Biên lợi nhuận thu hẹp của các nhà máy cùng với tình trạng tín dụng siết chặt cũng làm hạn chế phần nào sức mua.

Các ngân hàng đang yêu cầu thanh toán những khoản vay hàng quý, điều này gây ảnh hưởng đến khả năng thu mua nguyên liệu mới của các nhà máy. Nhiều nhà máy Trung Quốc vẫn đang giữ lượng quặng sắt dự trữ ở mức thấp vì họ đã bán khối lượng giao ngay theo hợp đồng và dùng số tiền này để mua lại quặng sắt ngoài cảng với giá rẻ hơn, khối lượng quặng sắt ngoài cảng đã lên hơn 111 triệu tấn.

Một số nhà tiêu thụ trực tiếp cho biết những cơn mưa xối xả gần đây ở miền nam cũng làm chậm lại hoạt động kinh tế và đẩy giá thép đi xuống, dẫn đến hệ quả là nhu cầu tiêu thụ quặng sắt cũng bị ảnh hưởng theo.

Trong gần cả tuần qua, giá thép Trung Quốc trượt dốc, tuy nhiên có sự phục hồi nhẹ vào cuối tuần nhờ doanh số bán ra cải thiện.

 

Giá nhập khẩu ferrochrome vào Trung Quốc giảm do sức mua chậm

 

Giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) xuất xứ từ Ấn Độ được chốt tại 82-84 cents/lb CIF Trung Quốc, giảm từ 83-84 cents/lb CIF của tuần trước đó, do sức mua vẫn còn trì trệ.

Đa số người mua đều tiếp tục cho rằng mức giá có thể chấp nhận dành cho ferrochrome là 80 cents/lb CIF hay thấp hơn, nhưng theo hai người khác thì mức giá 81-82 cents/lb CIF có thể được người mua Trung Quốc chấp nhận.

Các nhà xuất khẩu ferrochrome Ấn Độ cho rằng mức giá 82-85 cents/lb CIF là có thể chấp nhận, nhưng các hợp đồng vẫn còn khó để chốt vì hầu hết các nhà cung cấp đều không muốn hạ giá xuống dưới 84 cents/lb CIF do đồng Rupee Ấn Độ mất giá so với đôla Mỹ. Các nhà xuất khẩu Ấn Độ cũng thích bán ở trong nước và đến các thị trường khác hơn chẳng hạn như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan vì kỳ vọng mức giá cao hơn so với Trung Quốc.

Tuy nhiên, giá giao ngay của quặng chrome (48-52% Cr) xuất xứ Nam Phi hôm thứ Sáu được chốt tại 81-82 cents/lb CIF Trung Quốc, không đổi so với tuần trước đó. Mặc dù một số người mua ở Trung quốc cho biết họ đã nhận được chào giá quặng chrome là 80 cents/lb CIF, nhưng Platts biết là họ có thể thay bằng loại chỉ chứa 45-46% Cr.

Giao dịch nhập khẩu chậm lại do sức mua trì trệ từ các nhà máy thép không gỉ Trung Quốc, triển vọng suy yếu cộng thêm với nguồn cung ferrochrome trong nước gia tăng.

Tuy nhiên, một số nhà cung cấp tin rằng giá nhập khẩu và nội địa đã ở mức đáy. Giá có thể bắt đầu tăng sớm do nguồn cung quặng chrome Nam Phi hạn chế, giá quặng chrome Nam Phi tăng, nguồn điện có khả năng sẽ hạn chế hơn ở Nam Phi do mùa đông gần đến, thêm vào đó lệnh cấm hạn chế khai thác mỏ đã được Tòa án tối cao Ấn Độ ban hành  ở bang Odisha. 

Thị trường phế Châu Á im ắng, xu hướng giảm rõ rệt

Thị trường phế Châu Á nhìn chung vẫn trầm lắng trong tuần trước. Tại Nhật Bản, nhiều thương nhân đang mua phế H2 với giá 31.500 Yên/tấn (309 USD/tấn) FAS để xuất khẩu thông qua Vịnh Tokyo, giá không đổi so với tuần trước.

Tại thị trường nội địa, Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá mua phế xuống 500 Yên/tấn tại xưởng Kyushu, áp dụng cho những lô hàng đến từ ngày 24/5, nhưng chì vì giá ở Kyushu cao hơn so với các nơi còn lại và chỉ có nhà máy mini này là điều chỉnh giá của mình.

Các đơn đặt mua phế Nhật của Hàn Quốc vẫn sôi động, Hyundai Steel đặt mua phế H2 với giá 32.500-32.700 Yên/tấn FOB, bằng với giá của tuần trước đó. Khối lượng đặt mua của Hyundai Steel cũng tương đương khoảng 50.000 tấn. Korea Iron & Steel cam kết mua 10.000 tấn phế H2 Nhật Bản cũng ở mức giá như Hyundai. Hyundai cũng đặt mua 15.000 tấn và 70.000 tấn phế A3 của Nga với giá lần lượt là 360 USD/tấn và 361 USD/tấn cfr cập cảng tháng 06 và 07.

Tại thị trường Hàn Quốc, Dongkuk Steel Mill đã giảm giá mua phế xuống 5.000 Won/tấn (4,9 USD/tấn) cho tất cả các loại ở xưởng Pohang áp dụng từ ngày 26/5. Cùng ngày, xưởng Gwangyang của Posco cũng giảm giá mua cho phế Shindachi xuống mức tương tự.

Tuy nhiên, thị trường nhập khẩu phế Mỹ lại trầm lắng ở Đông Á, các nhà máy nhập khẩu vẫn chần chừ vì họ tin là giá phế rất có thể sẽ suy yếu sau khi quặng sắt chọc thủng mốc hỗ trợ 100 USD/dmt hôm 16/5.

Các nhà máy nhìn chung không muốn đặt mua phế Mỹ lô lớn vì họ phải đối mặt với nhu cầu tiêu thụ thép suy yếu cũng như xu hướng giảm giá, nhất là khi sắp tới tháng chay Ramadan.

Một nhà máy Malaysia rõ ràng là đã mua một lô 40.000 tấn gồm phế vụn và loại 80:20 của Mỹ giao tháng 06 với giá 378 USD/tấn CFR trong tuần kết thúc ngày 09/5. Tuần kết thúc ngày 16/5, một nhà máy Việt Nam được chào bán phế 80:20 lô lớn của Mỹ ở mức giá 377 USD/tấn CFR Việt Nam nhưng nghe nói nhà máy này đã chọn đặt mua phế Nhật.

Các chào giá mới cho phế H2 tới Việt Nam tuần trước tăng lên 370  USD/tấn CFR Việt Nam, so với một vài đơn đặt mua cách đây hai tuần có giá 365 USD/tấn CFR Việt Nam.

Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ cũng ổn định một cách đáng chú ý trong tuần qua, hoạt động thu mua không cải thiện trở lại sau ngày nghỉ lễ quốc gia hôm thứ Hai. Giá phế 80:20 vào đầu tuần là 374 USD/tấn sau đó sụt giảm 1,5 USD/tấn so với tuần trước đó trong bối cảnh giao dịch ít ỏi. 

ESI tăng giá thép cây tháng 06 do đang vào mùa xây dựng 

Hôm thứ năm, Emirates Steel (ESI) ở Abu Dhabi đã nâng giá thép cây thêm 19 AED/tấn (5 USD/tấn) so với tháng trước còn 2.260 AED/tấn (615 USD/tấn) xuất xưởng cho những lô hàng giao tháng 06, kết thúc 4 tháng liên tiếp giá không đổi. Giá mới là mức cao nhất mà các nhà máy bán ra kể từ tháng 09 năm ngoái trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ trong nước tăng mạnh nhờ sự phục hồi của hoạt động xây dựng.

ESI trước đây cũng được suy đoán là sẽ nâng giá bán vì thị trường trong nước tương đối sôi động và tiêu thụ khá mạnh. Theo nguồn tin thân cận từ nhà máy thì nhiều dự án đã khởi công và các nhà đầu tư tư nhân trong lĩnh vực bất động sản được kỳ vọng là sẽ rót tiền vào thị trường này, vì mọi người có cái nhìn tích cực về ngành xây dựng. Mức tiêu thụ khoảng 215.000 tấn/tháng, tăng 15-18% so với 6 tháng cuối năm ngoái.

Các nhà nhâp khẩu ở UAE vào tháng trước đã đặt mua khoảng 100.000 tấn thép cây từ Thổ Nhĩ Kỳ để giao tháng 05, cho thấy mức tiêu thụ mạnh trên thị trường. Tuần trước, các nhà nhập khẩu đã ký kết một  hợp đồng 70.000 tấn thép cây với giá 574-580 USD/tấn CFR Dubai khối lượng lý thuyết để giao tháng 06. 

 Giá thép cuộn không gỉ Châu Á suy yếu cùng với niken

Hôm thứ Sáu, giá có thể giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc suy yếu còn 2.900-3.100 USD/tấn CFR các cảng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á. Mức giá này giảm từ 3.000-3.100 USD/tấn CFR của một tuần trước, do một số nhà cung cấp đã hạ chào giá sau khi giá niken giảm dưới 20.000 USD/tấn.

Các giao dịch CRC  2mm xuất xứ Đài Loan tuần trước được thực hiện với giá từ 2.900-3.020 USD/tấn CFR các cảng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á. Một thương nhân đã chốt hợp đồng CRC 0.5mm xuất xứ Hàn Quốc với giá 3.300 USD/tấn CFR Hong Kong.

Các chào giá CRC 2mm từ cả hai nước trên nghe nói đều tầm 3.050-3.200 USD/tấn CFR trong tuần trước. “Chúng tôi đang bán với giá 3.050-3.100 USD/tấn CFR khu vực Châu Á nhưng được thương lượng tại 2.900 USD/tấn CFR. Giá niken không tăng thêm vì vậy chúng tôi không dám chào giá quá cao vì người mua sẽ không thể chấp nhận”, một thương nhân ở Đài Bắc cho biết hồi cuối tuần trước.

Một vài khách hàng đã nán lại việc thu mua vào tuần trước do các nhà máy Hàn Quốc và Đài Loan được cho là sẽ niêm yết giá tháng 06 vào cuối tuần này, và giá rất có thể sẽ tăng vì mặc dù giá niken gần đây đã điều chỉnh đi xuống nhưng vẫn còn cao so với mức trung bình hàng tháng. “Nhu cầu tiêu thụ có thể không mạnh lắm nhưng giá của các nhà máy sẽ phải tăng do chi phí sản xuất cao”, thương nhân Hong Kong nói.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME hôm 22/5 chốt tại 19.665-19.670 USD/tấn, sau khi giảm khoảng 400 USD/tấn hồi đầu tuần qua. Mức giá này vẫn còn cao hơn gần 1.000 USD/tấn so với tuần trước đó.  

Nguồn cung tăng kéo giá tấm mỏng Mỹ lao dốc

Giá tấm mỏng Mỹ tiếp tục hạ vào cuối tuần qua  do các nhà máy nỗ lực kiếm đủ đơn hàng tháng 7 trong bối cảnh giá nguyên liệu thô suy yếu, áp lực hàng nhập khẩu và công suất sản xuất tăng.

Giá giao dịch xuất xưởng của 100 tấn HRC đạt mức 680 USD/tấn, 90 tấn HRC đạt mức 675 USD/tấn và 190 tấn HRC đạt mức 690 USD/tấn. Trong khi đó, đơn hàng HRC 200 tấn chỉ còn 660 USD/tấn.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 680-690 USD/tấn và 810-820 USD/tấn xuất xưởng Midwest. 

Giá ống đúc vẫn ở mức thấp tại miền đông Trung Quốc 

Giá ống đúc tại thị trường bán lẻ Thượng Hải vẫn chưa phản ánh sự cải thiện trong sản xuất được nhìn thấy thông qua chỉ số quản lý sức mua (PMI) sơ bộ của HSBC.

Tuy PMI tháng 05 đạt mức cao 5 tháng với 49.7 điểm, nhưng Platts vẫn định giá không đổi cho thép ống đúc vào ngày thứ sáu tuần trước so với tuần trước đó và vẫn còn ở mức thấp nhất kể từ khi bắt đầu định giá vào tháng 09/2008.

Ống đúc 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông Trung Quốc có giá 4.030 NDT/tấn (645 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải.

Niềm tin thị trường rõ ràng là không cải thiện cùng với chỉ số PMI được công bố mới đây, vì các giao dịch không thấy có bất kỳ sự phục hồi nào trong tuần qua. Tuy nhiên, lượng tồn kho thấp vẫn đang hỗ trợ cho giá mặc dù giá xuất xưởng tại một số nhà máy ở thành phố Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông giảm 20 NDT/tấn.

Tuần trước, giá xuất xưởng của thép tròn đặc nhìn chung vẫn ổn định, càng làm tăng thêm khoảng cách với giá ống đúc sau khi giảm tổng cộng 100 NDT/tấn trong tháng này.

Hôm 21/5, một số nhà máy lớn ở miền đông Trung Quốc thông báo ý định giữ giá xuất xưởng cho thép tròn đặc trong 10 ngày cuối tháng 05, trong khi số khác đã hạ giá bán để bù lại chênh lệch giữa giá giao ngay và xuất xưởng.

Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel, cả hai nhà sản xuất lớn ở tỉnh Giang Tô đều thông báo là họ sẽ giữ giá thép tròn đặc loại 20# 50-130mm duy trì lần lượt tại 3.410 NDT/tấn và 3.460 NDT/tấn xuất xưởng, gồm VAT.

Weifang Iron and Steel và Huaigang Special Steel đã hạ giá xuất xưởng xuống 30 NDT/tấn và 80 NDT/tấn còn lần lượt 3.200 NDT/tấn và 3.450 NDT/tấn cho thép tròn đặc gồm VAT trong cùng thời gian như trên. 

Giá phôi thanh CIS trở lại  bình ổn

Giá phôi thanh CIS đã bình ổn trở lại trong tuần qua với giá giao dịch đạt mức 492-495 USD/tấn FOB, không đổi kể từ ngày 24/5 bất chấp áp lực giá dự thầu thấp.

Trong tuần qua, giá giao dịch phôi thanh CIS với Ai Cập đạt mức 515 USD/tấn CIF từ Mariupol, tuy nhiên, thông tin này vẫn chưa được các bên xác nhận. Dù vậy, mức giá được thị trường chấp nhận vẫn ở mức 493-494 USD/tấn FOB Biển Đen.

Mặc dù tâm lý thị trường tiêu cực, các thương nhân cho biết mức giá dưới 490 USD/tấn FOB vẫn chưa xuất hiện. Tuy nhiên, dự báo giá có thể giảm nhẹ trong khoảng nửa tháng tới. 

Các nhà máy thép cây Nga đặt mục tiêu nâng giá thêm 15-27 USD/tấn

Các nhà máy thép cây Nga đặt mục tiêu nâng giá tháng 6 thêm 500-900 Rub/tấn (15-27 USD/tấn). Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để biết giá tăng có được chấp nhận hay không.

Nhiều thương nhân cho hay nhu cầu tiêu thụ trong nước diễn ra tốt và doanh số nội địa cũng tăng, tuy nhiên, người mua chủ yếu là các thương nhân. Nhu cầu mua hàng trong nước vượt quá sức mong đợi do hàng nhập khẩu sụt giảm. Hiện tại, Ukraina và Belarus đang tăng nhập hàng vào Nga sau khi sản lượng sụt giảm trong tháng 1-3.

Trong 3 tháng đầu năm, Belarus đã vận chuyển 136.000 tấn thép sang Nga, giảm 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, sản lượng thép Ukraina xuất sang Nga còn tệ hơn, với 74.560 tấn thép cây và cuộn trơn, giảm 66% so với cùng kỳ năm ngoái.

Hiện tại, giá chào tháng 5 từ các nhà máy đối với thép cây 14mm và 12mm giao tại Maxcova đã tính VAT 18% lần lượt đạt mức 23.500-23.600 Rub/tấn (685-688 USD/tấn) và 23.900-24.000 Rub/tấn (697-700 USD/tấn), tương đương với 19.915-20.000 Rub/tấn (581-584 USD/tấn) và 20.250-20.340 Rub/tấn (590-593 USD/tấn) chưa tính VAT

Platts định giá thép cây 12-14mm Nga tại mức 19.950-20.300 Rub/tấn (582-592 USD/tấn) CPT Maxcova . 

Thép cây miền bắc Trung Quốc ổn định sau sự can thiệp của Hegang

Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc vẫn ổn định trong ngày thứ sáu tuần trước, do được hậu thuẫn bởi những nỗ lực từ Hebei Iron & Steel’s (Hegang) nhằm ngăn không cho giá lún sâu hơn nữa bằng cách yêu cầu các đại lý lớn nâng giá bán lên.

Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hegang tại 3.200-3.220 NDT/tấn (512-516 USD/tấn) khối lượng thực gồm VAT 17%, tăng nhẹ từ mức 3.200-3.210 NDT/tấn của thứ năm tuần trước. Nhưng giá giao ngay thực tế vẫn chưa đạt mục đích của Hegang.

Một thương nhân ở Bắc Kinh ngụ ý rằng không chỉ có các nhà máy muốn thấy giá tăng mà các nhà kinh doanh cũng quan tâm đến việc giá lún sâu gần đây đã làm hạn chế sức mua. Sau khi giá nhích lên so với đà lao dốc từ đầu tuần trước thì sức mua có phần cải thiện mặc dù rất nhẹ.

Giá giao ngay của thép cây tại Bắc Kinh đã để mất tổng cộng 110-120 NDT/tấn trong vòng 20 ngày đầu tiên của tháng 5, trước khi bắt đầu phục hồi trở lại vào thứ năm tuần trước.

Tuy nhiên, các nhà kinh doanh tạm thời cũng không muốn thấy giá tăng mạnh,  vì Hegang sẽ sớm đưa ra giá hợp đồng của công ty cho tháng này. Giá giao ngay cao hơn sẽ được phản ánh trong giá hợp đồng của nhà máy, làm tăng thêm chi phí đặt mua hàng của nhiều thương nhân.

Nhìn chung, những mối quan ngại quanh việc suy yếu của nền kinh tế Trung Quốc và có thể gây những ảnh hưởng tiêu cực kéo dài lên nhu cầu tiêu thụ thép, mặc dù các nỗ lực liên tục của Bắc Kinh nhằm kích thích nền kinh tế thông qua việc đầu tư trực tiếp vào những dự án cơ sở hạ tầng chẳng hạn như đường sắt.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE nhích lên thêm 0.06% chốt tại 3.081 NDT/tấn vào ngày thứ Sáu, nhưng mức giá này vẫn còn thấp hơn 0,29% so với tuần trước đó. 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ không đổi mặc dù Rupee tăng giá 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ vẫn duy trì không đổi trong tuần qua, mặc cho đồng Rupee lên giá do được sự hỗ trợ bởi kết quả của cuộc bầu cử gần đây.

Đồng Rupee đang được giao dịch với tỷ giá 1 USD đổi được 58,48 Rupee trong ngày thứ Sáu, tăng 15% kể từ khi rớt xuống mức thấp kỷ lục hồi tháng 8 năm ngoái tại mức 68,85 Rupee/USD. Nhưng điều này không được phản ánh trong chào giá xuất khẩu.

Giá giao dịch của thép cuộn loại thường dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông vẫn tiếp tục ở quanh mức bình quân là 840-850 USD/tấn CFR East Coast Mỹ, trong đó phí vận chuyển khoảng 50-60 USD/tấn giao trong tháng 07, không đổi so với tuần trước đó.

Trong tuần vừa qua, có 5.000-10.000 tấn HDG được bán tới Mỹ với giá ký kết là 840 USD/tấn CFR Hoa Kỳ.

Các nhà quan sát thị trường suy đoán giá sẽ giảm trong tuần tới do một đợt điều chỉnh đi xuống như dự đoán đối với HRC tại thị trường nội địa.

“Khoảng 200.000 tấn HRC được dự đoán sẽ vào tới thị trường Ấn Độ từ Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước khác trong những tuần tới. Chúng tôi muốn hạ giá bán xuống khoảng 750-1.000 Rupee/tấn để cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Những khách hàng ở Mỹ biết điều này vì vậy đây là lý do tại sao Mỹ mua HDG của Ấn Độ chậm lại”, đại diện một nhà máy ở Mumbai nói.

Ông này cũng cho biết là công ty đã bán 30.000-40.000 tấn thép cuộn loại thường dày 0.58mm phủ 140 gram kẽm trên một mét vuông tới Châu Âu trong tuần trước với giá khoảng 740-750 USD/tấn CFR Antwerp, bao gồm phí vận chuyển cỡ 35-45 USD/tấn cho hàng giao tháng 07. 

Giá xuất khẩu thép dài Trung Quốc giảm sâu cùng với sự suy yếu của quặng sắt

Giá xuất khẩu thép dài Trung Quốc tới khu vực Đông Nam Á tiếp tục lún sâu trong tuần vừa qua, giao dịch có xu hướng giảm bớt trên một thị trường vốn đã ảm đạm. Nhiều nhà cung cấp Trung Quốc cũng đã bắt đầu hạ giá xuống khoảng 10 USD/tấn kể từ hai tuần đầu tháng 05.

Cuộn trơn SAE1008 chứa nguyên tố bo đường kính 6.5mm xuất xứ Trung Quốc tuần trước được chào bán với giá 493-495 USD/tấn CFR  Philippines, giảm so với chào giá 500 USD/tấn CFR  của tuần trước đó. Theo các nguồn tin ở Manila cho biết các nhà cung cấp của Trung Quốc có lẽ sẽ chấp nhận mức giá đặt mua 490 USD/tấn CFR.

Tương tự, giá thép cây từ Trung Quốc tới Singapore cũng giảm, cụ thể chào giá thép cây BS460/HRB400 chứa nguyên tố bo đường kính từ 16mm trở lên là 470-475 USD/tấn CFR, tính  theo khối lượng lý thuyết, sau khi một đơn đặt hàng được thực hiện tại mức giá 475 USD/tấn CFR hồi đầu tuần trước. Thép cây được chào bán với giá 480-485 USD/tấn CFR Singapore trong suốt tuần kết thúc ngày 16/5.

Chính thương nhân là nguyên nhân đứng đằng sau việc hạ chào giá còn 470 USD/tấn CFR. Những thương nhân này là người nắm giữ vị thế bán vì dự đoán giá sẽ giảm.

Các nhà nhập khẩu tại Singapore đang đặt mua thép cây Trung Quốc với giá 460 USD/tấn CFR, nhưng mức giá này không thể đáp ứng được. Chỉ có rất ít thương nhân chịu cung cấp với giá  465 USD/tấn CFR.

Giá phôi vuông 120 mm lò nung Trung Quốc cũng lún sâu cùng với thép thành phẩm. Các chào giá tới Philippines phổ biến tầm 500 USD/tấn CFR, giảm từ mức giá 505-510 USD/tấn CFR của các đơn đặt hàng hồi nửa đầu tháng 05.

Các nhà nhập khẩu Philippine đã và đang quay lại với phôi thanh Trung Quốc vì giá từ các nước khác đắt hơn. Các giao dịch giao tháng 07 cho phôi thanh không phải của Trung Quốc được chốt tại 525 USD/tấn CFR Thái Lan.

Phôi vuông Trung Quốc 150mm gần đây được chào bán với giá 485 USD/tấn CFR Việt Nam.  

Các nhà máy Nga đặt mục tiêu tăng giá HRC tháng 6 thêm 15 USD/tấn

Các nhà máy thép cán dẹt Nga đang cân  nhắc tăng giá tấm cán nóng thangs 6 thêm 500-650 Rub/tấn (15-19 USD/tấn) do  nhu cầu tiêu thụ tăng và doanh số xuất khẩu tốt.

Trong khi đó, sản lượng HRC dự báo sẽ giảm trong tháng 6 do việc bảo trì máy móc tại các xưởng của Sevestal tại Cherepovets sẽ hỗ trợ giá tăng.

Đối với các khách hàng tại Maxcova, giá tấm mỏng cán nóng 2mm vẫn đạt mức 23.050-23.190 Rub/tấn (673-677 USD/tấn) trong khi loại 4mm là 22.350-22.480 Rub/tấn (652-656 USD/tấn) đã gồm VAT. Nếu không tính VAT 18%, giá tháng 4 sẽ đạt mức 19.535-19.650 Rub/tấn (570-573 USD/tấn) đối với loại 2mm và 18.940-19.050 Rub/tấn (553-556 USD/tấn) đối với loại 4mm, CPT Maxcova.

Trong 3 tuần qua, giá thép tháng 5 tính bằng đồng dolla đã tăng 23 USD/tấn dựa vào sự mạnh hơn của đồng Rub so với dolla từ mức 35.7 vào ngày 2/5 lên mức 34.3 vào ngày 23/5.

Các nhà máy đang đặt mục tiêu giá tấm cán nóng 2mm là 23.600-23.800 (689-694 USD/tấn)  và loại 4mm là 23.000-23.200 Rub/tấn (671-676 USD/tấn) đã tính VAT, tương đương với mức 20.000-20.170 Rub/tấn (583-588 USD/tấn) và 19.500-19.700 Rub/tấn (569-574 USD/tấn) bỏ thuế VAT.

Platts vẫn  định giá thép tấm và cuộn cán nóng 2-4mm Nga lần lượt tại mức 18.995-19.535 Rub/tấn (554-569 USD/tấn) và 18.395-18.935 Rub/tấn (537-552 USD/tấn) CPT Maxcova.

Đối với tấm cán nguội, các nhà máy dự định duy trì giá tháng 5 do nhu cầu tiêu thụ ổn định. Mặt hàng tấm cán nguội 1mm được chào bán tại mức 21.440-21.700 Rub/tấn (626-633 USD/tấn) CPT Maxcova chưa tính VAT. Nếu tính luôn VAT, giá mặt hàng này sẽ đạt mức 25.300-25.600 Rub/tấn (738-747 USD/tấn) , hầu như không đổi so với tháng trước.