Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 27/10/2009

 1. Giá nhập khẩu thép thanh xây dựng giảm xuống mức $500/t cfr ở Đông Á

Chào giá thép thanh xây dựng nhập khẩu ở Đông Á đã giảm xuống mức $500/t cfr từ mức $510/t cfr trong giữa tháng 10. Giá giảm dần dần cùng với giá thép phế liệu giảm và dự kiến giảm giá đối với thép thành phẩm.
Thép thanh xây dựng ở Thổ Nhĩ Kỳ chào giá khoảng $480-490/t cfr sang Singapore. Chào hàng từ Trung Quốc gần đây nhất là trên $500/t cfr.
Chào giá thép thanh xây dựng ở Hồng Kông đã giảm còn khoảng 480/t cfr đối với thép thanh xuất xứ Thổ Nhĩ Kỳ - Hàn Quốc và Đài Loan . “Nhu cầu giảm ở mọi nơi”. Nhưng tin rằng tình hình sẽ thay đổi trong quý II của năm tới do bắt đầu các dự án xây dựng ở Hồng Kông và Ma Cau. Có khoảng 20,000 t thép thanh xây dựng của Hàn Quốc đã được đặt hàng với giá khoảng $490/t cfr sang Hồng Kông đầu tuần rồi.
 
2. Giá HRC/CRC giảm hơn ở hầu hết các khu vực – TSI
Giá tham khảo mới nhất từ TSI cho thấy giá HRC và CRC giảm so một tuần trước đây, nhưng giá thép cuộn HDG vẫn ổn định sau khi giảm tuần rồi.
Ở Mỹ, giá FOB CRC tham khảo tại nhà máy Trung Đông giảm $18/tấn non từ mức tuần trước còn $647/tấn non ($713/t). HRC cũng giảm $14/tấn non so với giá ở tuần rồi, và HDG vẫn ở mức thấp so với 2 tuần trước. Thời hạn giao hàng trung bình HRC chậm hơn tuần rồi, ở mức 6 tuần.
Ở phía Bắc Châu Âu, Giá tham khảo HRC và CRC đều giảm hơn 2% so với cách đây 1 tuần. HRC giảm $9/t và hiện tại CRC giảm còn €471/t ($705/t). Thời hạn giao hàng trung bình đều chậm hơn tuần rồi, giao hàng HDG trung bình lên đến 7.4 tuần.
Giá tham khảo HDG EXW ở Nam Âu giảm €16/t từ tuần rồi, trong khi HRC gần như ổn định ở mức €407/t ($609/t). Thời hạn giao hàng trung bình CRC và HDG chậm hơn tuần rồi, với thép cuộn HDG giao hàng khoảng 8.1 tuần.
Giá tham khảo HRC và CRC nội địa Thổ Nhĩ Kỳ (EXW) đều giảm hơn so với tuần rồi, với CRC giá là $738/t.
 
3. Tháng 10 là tháng suy yếu đối với thị trường thép hình ở Nam Âu

Giá thép hình và thép thanh cơ khí ở Nam Âu
Giao hàng nội địa €/t
©SBB 2009
 
Aug 09
Sep 09
Oct 09
Nov 09*
Thép hình trung
 420 - 480 
 425 - 470 
 400 - 490 
 400 - 490 
Thép thanh cơ khí
 400 - 482 
 420 - 470 
 390 - 460 
 390 - 460 

Sau khi nhu cầu và giá phục hồi nhẹ trong tháng 9, tháng 10 vẫn không phải là tháng “phục hồi ấn tượng”. Giá cả thép thanh cơ khí và thép hình đã giảm nhẹ trong tháng 10 ở Nam Âu.
Sản lượng thép thanh cơ khí đã bán cao hơn đáng kể so với thép hình – mà theo các thương gia Ý “hầu như không bán được gì cả” trong tháng 10. Cụ thể, giá thép hình cỡ trung đã giảm ít nhất khoảng €10/t ($14/t); Trong khi đó, giá thép thanh cơ khí đã giảm €20/t ở Nam Âu.
Mức giá hiện tại của thép hình loại 1 (tất cả đều bao gồm giao hàng) hiện tại có giá khoảng €400-460/t, nhưng có khả năng giao dịch ở mức giá thấp €400/t. Trong khi đó, giá thép thanh cơ khí ở mức thấp hơn €390-430/t.

4. Magang giữ giá dầm thép H tháng 11
Maanshan Iron & Steel (Magang) – đông Trung Quốc, vẫn giữ nguyên giá dầm thép H tháng 11 từ mức giá niêm yết dầm thép H hiện tại, và các nhà sản xuất thép hình vẫn cẩn trọng với tình hình thị trường.
Giá tháng 11 của Magang dầm thép loại 200x200mm và 400x400mm vẫn không thay đổi ở mức lần lượt là RMB 2,910/t ($426/t) và RMB 3,410/t (hay RMB 3,405/t và RMB 3,990/t bao gồm VAT).
Quan trọng hơn nữa là, trong đợt giao hàng đến các chi nhánh từ ngày 1-20/10, Magang đã tăng thêm RMB 50/t chưa bao gồm VAT, chủ yếu là do giá EXW cao hơn so với giá giao ngay.
Cùng với việc tăng giá thép trên toàn thị trường, giá dầm thép H 200x200mm trên thị trường Thượng Hải từ Magang đã tăng lên khoảng RMB 3,300/t, tăng khoảng RMB 100/t so với ngày 14/10.
 
5. Ahmsa – Mexico cắt giảm giá thép tấm tháng 11, giá HRC vẫn ổn định
Nhà sản xuất thép tấm và thép hình Mexico - Altos Hornos de Mexico SA (Ahmsa) đã giảm giá thép tấm cho các nhà phân phối khoảng 300 pesos/t (US$23/t), áp dụng từ ngày 1/11.
Giá thép tấm sẽ được thương lượng ở mức giá khoảng 8,700 pesos/t, giảm so với mức giá 8,900-9,000 pesos/t trong tháng 10.
Mặc dù giá giảm nhưng các nhà phân phối vẫn không giảm giá cho khách hàng vì họ dự đoán rằng nhu cầu sẽ sớm cải thiện.
Trong khi đó, Ahmsa và nhà sản xuất nội địa Ternium vẫn không giảm giá HRC trong tháng 11. Trong tháng 10, HRC được bán khoảng 8,600 pesos/t fob.
 
6. Nhu cầu thép tấm đóng tàu Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu, giá giảm
Ngành đóng tàu Thổ Nhĩ Kỳ vẫn suy yếu do thiếu đơn đặt hàng. Các nhà đóng tàu hầu như không nhận được bất kỳ hợp đồng mới nào, và hoạt động kinh doanh dự kiến sẽ không phục hồi vào trước năm 2011.
Lĩnh vực này đã suy yếu từ cuối năm 2008, và nhu cầu thép tấm đóng tàu và thép cuộn vẫn hoàn toàn ở mức thấp ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Thép tấm đóng tàu hiện tại được chào giá $500-600/tonne cfr từ các nhà cung cấp CIS. Thép tấm đóng tàu dày 80mm có giá $825/t cfr từ Nga. Và giá thép tấm đóng tàu có giá khoảng $1,500/t so với cùng kỳ năm trước. tHị trường vẫn đang đợi mức giá giảm hơn nữa do tiêu thụ thép tấm đóng đã suy giảm.
 
7. Giá thép dây xây dựng Thổ Nhĩ Kỳ có thể giảm theo giá thép thanh xây dựng
Giá thép dây xây dựng  Thổ Nhĩ Kỳ hiện tại khoảng $470-510/t EXW tùy vào chất lượng, giá giảm nhẹ so với giá đặt hàng trước đây. Nguyên liệu chất lượng cao có giá $520/t exw. Chào giá xuất khẩu thấp hơn nhẹ so với giao hàng giao ngay trên thị trường nội địa.
Do sức mua suy giảm và chào giá thép thanh xây dựng  thấp hơn, nên giá thép dây xây dựng  có thể giảm xuống còn ở mức thấp.
Nhu cầu vẫn yếu, và mặc dù các nhà sản xuất không hoạt động tối đa công suất, nhưng họ vẫn có thể gặp khó khăn trong việc nhận đủ đơn đặt hàng cho tháng 12.
 
8. Nhà máy thép chuyên dụng Đức cắt giảm phụ phí phế liệu
Deutsche Edelstahlwerke đã cắt giảm phụ phí phế liệu khoảng €30/t ($45/t) trong tháng 11. Công ty Đức này chuyên sản xuất các sản phẩm thép dài chuyên dụng.
Đối với thép cơ khí, phụ phí tháng 11 sẽ là €95/t đối với thép thỏi và €99/t đối với các sản phẩm thép bán thành phẩm; thép thanh xây dựng  và thép dây xây dựng – cả 2 đều giảm €28/t so với tháng 10. Đối với thép thanh cơ khí, phụ phí sẽ giảm từ €148/t trong tháng 10 còn €114/t.
Đối với thép công cụ, phụ phí tháng 11 đối với tất cả các sản phẩm sẽ là €20/t. Phụ phí thép thanh công cụ cao hơn so với các sản phẩm khác: phụ phí tháng 10 là €60/t so với mức €50/t của thép thỏi, bán thành phẩm, thép thanh xây dựng  và thép dây xây dựng.
 
9. Thị trường FeSi EU vẫn ổn định trong quý 4
Thị trường FeSi ở Bắc Âu tiếp tục ổn định trong tháng này so với tháng trước, và có thể sẽ vẫn ổn định trong suốt quý 4.
Giá FeSi (75% Si) hiện tại là €980-985/t ($1,400-1,480/t) DDP trên các thị trường ở Bắc Âu, tăng so với mức giá tháng trước khoảng €950/t. Các thương gia cho biết rằng, giá này có thể giữ nguyên cho đến cuối năm 2009.
 
10. Tính đến thời điểm này, sản lượng Thổ Nhĩ Kỳ giảm 13%
Sản xuất thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ giảm 13.5% trong 3 quý đầu năm 2009 so với cùng kỳ 2008. Sản xuất thép thô để cung cấp cho sản xuất các sản phẩm thép dài giảm 13.9% so với cùng kỳ năm trước còn 15.2 triệu tấn từ mức 17.6 triệu tấn – theo thông báo từ Hiệp hội các nhà sản xuất sắt thép.
Thổ Nhĩ Kỳ đã sản xuất 18.5 triệu tấn thép thô trong 9 tháng đầu năm 2009, giảm từ mức 21.4 triệu tấn trong năm trước. Sản xuất tại các lò nung điện phân giảm 17.1% còn 13.1 triệu tấn từ mức 15.8 triệu tấn trong 9 tháng đầu năm 2008.
Sản xuất thép thô của Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 9 giảm 1.8% so với năm trước và nguyên liệu để sản xuất các sản phẩm thép dài giảm 4.2% còn 1.6 triệu tấn. Trong tháng 9, Thổ Nhĩ Kỳ đã sản xuất tổng số 2.12 triệu tấn so với mức 2.16 triệu tấn trong tháng 9/2008.
 
11. Severstal Cherepovets sẽ hoạt động trở lại lò nung trong quý 2
Nhà máy thép Cherepovets – Severstal ở Tây Bắc Nga, dự kiến sẽ hoạt động trở lại lò nung số 2 vào cuối quý 1/2010.
Lò nung này đã tạm ngưng hoạt động vào tháng 12/2008 do bối cảnh khủng hoảng kinh tế và do điều kiện hoạt động – lò nung này đã hoạt động từ năm 1956.
Severstal đã bắt đầu thực hiện sửa chữa lò nung 1,033 m3, và sẽ hoàn thành trước khi hoạt động trở lại. Toàn bộ chi phí sửa chữa khoảng 850 triệu roubles (€19.7 triệu).
Lò nung này có công suất sản xuất gang 1.1 triệu tấn/năm.
Severstal đã hoạt động trở lại lò nung số 1 ở Cherepovets, với công suất tương đương vào tháng 7/2009 sau 1 thời gian sửa chữa. Lò nung này cũng đã tạm ngưng vào tháng 12/2008 do khủng hoảng.
Khi lò nung số 2 đi vào hoạt động, 4 lò nung này sẽ đều hoạt động ở Cherepovets, với tổng công suất lên đến 8.943 triệu tấn/năm.
 
12. Severstal tăng sản lượng thép bán thành phẩm ở Nga lên gấp 3 lần trong quý 3
Severstal đã tăng sản xuất đối với tất cả các sản phẩm thép ở các nhà máy ở Nga trong quý 3/2009 so với quý 2.
Sản xuất các sản phẩm thép bán thành phẩm ở Nga tăng hơn gấp 3 lần so với quý trước, tăng 213% lên 303,136 tấn - mặc dù vậy, con số này chỉ tăng 18% so với quý 3/2008.
Sản xuất thép ống có đường kính lớn của công ty ở Nga cũng tăng trong quý 3 so với quý 2, tăng 128% lên 80,460 tấn. Tuy nhiên, so với quý 3/2008, sản xuất giảm 40%.
Sản lượng các sản phẩm thép cuộn dài của Severstal ở Nga đã giảm mạnh nhất trong quý 3, giảm 55% còn 162,624 tấn, mặc dù con số này vẫn cao hơn 28% trong quý 2.
Nhóm các sản phẩm nổi trội của công ty ở Nga là HRC và thép tấm. Công ty đã sản xuất 1,164,696 tấn để bán trong quý 3, hầu như không thay đổi so với năm trước, nhưng lại tăng 21% trong quý 2.
Sản lượng CRC của công ty ở Nga cũng hầu như không thay đổi so với quý 3/2008, ở mức 370,736 t, và tăng 6% so với quý 2. Thép tấm mạ màu/mạ kẽm tăng 36% so với quý trước nhưng lại giảm 21% so với năm trước, đạt 152,352 t. Thép tấm mạ màu tăng 3% so với quý 2 nhưng lại giảm 4% so với quý 3/2008 còn 58,187 t.
Các sản phẩm thép dây tăng 9% so với Qúy 2 lên 188,162 t nhưng lại giảm 10% so với Qúy 3/2008.
Sản xuất gang đạt 2,001,667 t trong  Qúy 3, tăng 23% so với quý trước nhưng giảm 13% so với năm trước. Sản xuất thép thô đạt 2,703,784 t, tăng 27% so với Qúy 2 nhưng lại giảm 15% so với Qúy 3/2008.

13. Sản lượng và giá của Severstal Bắc Mỹ tăng trong quý 3, nhưng lại giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước
Hoạt động sản xuất của Severstal Bắc Mỹ tăng đáng kể trong quý 2 và quý 3/2009, nhưng vẫn thấp hơn so với con số cách đây 1 năm.
Tổng sản lượng thép thô ở nhà máy Bắc Mỹ đạt hơn 1.44 triệu tấn trong quý 3 – tăng 18% so với quý trước, nhưng lại giảm 30% từ mức gần 2.07 triệu tấn đã sản xuất trong quý 3/2008.
Thép lá và thép tấm HR đạt hơn 569,000 tấn trong quý 3, tăng mạnh nhất so với quý trước, tăng đến 44% - cũng như giảm mạnh nhất so với năm trước, giảm đến 31%.
Giá bán trung bình ở Bắc Mỹ cũng tăng nhẹ trong quý 3. Nhìn chung, các sản phẩm thép cuộn đạt trung bình $674/t trong quý 3, giá tăng 1% so với quý 2/2009, nhưng lại giảm 39% so với mức $1,110/t trong quý 3 2008.
Giá thép tấm và thép lá HR đạt trung bình $506/t trong quý 3, tăng 2% so với quý 2009, nhưng lại giảm 53% so với mức $1,084 trong quý 3/2008.
 
14. Giá thép thanh không gỉ Brazil giảm so với mức giá tháng 9
Giá của nhà máy Brazil đối với các sản phẩm thép thanh không gỉ sẽ giảm trong tháng 11. Giá loại CRC 2mm 2B 304 giảm 6% đối với giá niêm yết tháng 11, còn khoảng R$9,682/t bao gồm giao hàng (US$5,637/t); Trong khi đó, giá CRC 316 gairm còn R$14,800/t bao gồm giao hàng, giảm từ mức R$16,000/t.
Giá thép thanh không gỉ tháng 11 cũng tương đương với giá tháng 9, khi đó các nhà sản xuất Brazil đã tăng giá lần đầu tiên đối với cả 2 loại austenitic thêm 6%. Giá tháng 10 tăng không dễ dàng được thị trường chấp nhận vì đồng tiền Brazil đã tăng mạnh và các nhà sản xuất nước ngoài đã giảm phụ phí các loại austenitic.
 
15. Giới thương gia Trung Quốc đang đợi giá HRC tăng hơn nữa
Giá HRC nội địa Trung Quốc đã tăng nhanh chóng từ giữa tháng 10. Ở Thượng Hải, Shagang đang chào giá HRC Q235 5.5mm là RMB 3,530-3,550/t ($519-522/t) bao gồm VAT, tăng gần RMB 300/t từ giữa tháng 10. Ở Quảng Châu, loại HRC tương tự của Liuzhou Iron & Steel được chào giá RMB 3,680-3,700/t bao gồm VAT, tăng RMB 250/t từ giữa tháng 10.
Giới thương gia và giới quan sát thị trường cho rằng, giá giao ngay tăng trước hết là do thị trường tương lai đối với thép thanh xây dựng  tăng. Giá HRC cũng đã tăng bởi vì giá HRC đã giảm xuống còn mức thấp RMB 3,250/t bao gồm VAT, và giá phôi thép khoảng RMB 3,000-3,150 bao gồm VAT.
1 số thương gia dự kiến giá HRC nội địa sẽ là RMB 3,700/t bao gồm VAT trong đầu tháng tới.
 
16. Tồn kho thép cuộn của Hàn Quốc hầu như giảm trong tháng 9
Tồn kho các sản phẩm thép thanh bao gồm: HRC, CRC và thép tấm lớn ở Hàn Quốc đạt mức thấp kỷ lục trong năm 2009 là 710,800 tấn trong cuối tháng 9. Con số này so với mức cao kỷ lục vào tháng 1 trong năm này là 1.23 triệu tấn. Mặc dù tồn kho đa số các sản phẩm thép giảm trong tháng 9 so với tháng 8, nhưng tồn kho HRC vẫn tăng trên thị trường – theo dữ liệu từ KOSA.
Trong số các sản phẩm thép cuộn, tồn kho CRC giảm đáng kể 40,000 tấn còn 133,850 tấn so với mức 173,780 tấn trong tháng 8.
Trong quý 3, sản lượng HRC của Posco tăng 14% hay 271,000 tấn lên 2.2 triệu tấn so với mức 1.9 triệu tấn trong quý 2. Dongbu đã sản xuất 40-50,000 tấn HRC.

Sản lượng các sản phẩm thép cuộn tồn kho
 
Nguồn: Kosa. Tấn
 
August
September
% change
HRC
156,443
171,400
+9.5
Plate
102,072
99,319
-2.6
CRC
173,780
133,850
-23
HDG
159,198
145,008
-8.9
EGI
76,746
73,531
-4.1
Colour coated
16,588
15,214
-8.2
Total of above
775,161
710,769
-8.3

 
17. Nhập khẩu phôi thép của Hàn Quốc giảm 54% từ tháng 1-9
Nhập khẩu phôi thép của Hàn Quốc từ tháng 1-9 giảm 54% so với cùng kỳ năm trước còn chỉ 457,900 tấn. Nhu cầu phôi thép nội địa suy giảm nghĩa là chỉ có các nhà xuất khẩu từ lâu đời như Nhật Bản và Nga vẫn duy trì hoạt động mua bán vào thị trường Hàn Quốc.
Trong suốt 9 tháng, Nhật Bản trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất sang Hàn Quốc, giao 409,600 tấn, hay tương đương với 90% trong tổng lượng nhập khẩu. Tiếp theo là Nga với 47,500 tấn, ước tính chiếm 10% - theo dữ liệu từ KOSA.
Nhưng các nhà xuất khẩu khác như Brazil và Trung Quốc hầu như không xuất khẩu sang Hàn Quốc trong năm này; Trong khi đó, 2 quốc gia này đã giao hàng lần lượt là 94,400 tấn và 81,900 tấn trong cùng kỳ 2008.
Từ ngày 1/9, Kosco đã tăng sản lượng phôi thép lên 75,000 tấn/tháng từ mức 60,000 tấn/tháng trong tháng 8. Công ty có tổng công suất 800,000 tấn/năm đối với phôi thép vuông loại 120mm và 185mm.
 
18. Sản lượng thép thanh xây dựng của Trung Quốc đạt mức đỉnh 10 triệu tấn trong tháng 9
Sản lượng thép thanh xây dựng  của Trung Quốc giảm nhẹ so với tháng 8, nhưng vẫn đạt mức đỉnh 10 triệu tấn trong 15 tháng liên tục – theo thông báo từ CISA.
Tổng sản lượng trong tháng 8 đạt 10.92 triệu tấn, sản lượng thép thanh xây dựng  trong tháng 9 giảm khoảng 2.4% so với tháng trước. So với tháng 8/2008, con số này tăng lên 38.6%. Trung Quốc đã sản xuất 90.03 triệu tấn thép thanh xây dựng  trong 3 quý đầu năm, tăng 27.5% so với cùng kỳ năm trước.
Tương tự, sản xuất thép dây xây dựng  trong tháng 9 đã giảm so với mức 8.46 triệu tấn trong tháng 8 còn 8.39 triệu tấn. Tuy nhiên, sản lượng hàng ngày trong tháng 9 tăng lên 2.4 triệu tấn so với tháng trước. Sản lượng từ tháng 1-9 tăng 15.2% so với năm trước lên 70.11 triệu tấn.
Gái thép nội địa đã bắt đầu giảm từ đầu tháng 7, nhưng các nhà máy vẫn không lỗ và không có ý định cắt giảm sản xuất. Thật vậy, đầu tư cơ sở hạ tầng và thị trường bất động sản đang phục hồi đã khuyến khích các nhà sản xuất thép dài hoạt động tối đa công suất.
 
19. Sản xuất thép ống của Trung Quốc giảm nhẹ trong tháng 9
Trung Quốc đã sản xuất 4.53 triệu tấn thép ống trong tháng 9 – tháng mạnh từ xưa nay, giảm 2.8% so với tháng 8 nhưng lại tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất cả thép ống đúc và thép ống hàn đều giảm so với tháng trước – theo dữ liệu từ CISA. Tổng sản xuất thép ống trong 9 tháng đầu năm của Trung Quốc đạt 37.92 triệu tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước.
Từ mức sản xuất 1.83 triệu tấn trong tháng 8, sản xuất thép ống đúc của Trung Quốc cũng giảm 1.77 triệu tấn trong tháng 9, giảm 7.7% so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản xuất thép ống đúc trong 9 tháng đầu năm đạt 15.45 triệu tấn, giảm 0.8% so với cùng kỳ năm trước. Sự suy giảm này là do thị trường xuất khẩu hạn chế lại, mà đã làm cho ngày càng nhiều nhà máy tập trung vào thị trường nội địa. Tuy nhiên, hậu quả của sản xuất quá công suất cũng đã gây sức ép đối với các nhà máy trong việc cắt giảm sản xuất.
Trong khi đó, sản xuất thép ống hàn của Trung Quốc cũng giảm còn 2.76 triệu tấn trong tháng 9, nhưng lại tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất thép ống hàn của Trung Quốc đạt mức cao mới 2.83 triệu tấn trong tháng 8. Tổng sản xuất thép ống hàn từ tháng 1-9 tăng lên 22.47 triệu tấn, tăng 19.6% so với cùng kỳ năm trước.
Trên thị trường Thượng Hải, giá thép ống hàn (ERW) cách điện 114x3.75mm (loại Q215-235) ở tỉnh Hà Bắc – bắc Trung Quốc đã giảm khoảng RMB 250/t ($36/t) trong tháng 9.
 
20. Thị trường than Trung Quốc có thể phục hồi trong tháng 11
Mặc dù giá và giao dịch gần đây đều suy yếu, nhưng thị trường than luyện kim Trung Quốc có thể phục hồi trong tháng 11.
Giá nội địa của than cốc luyện kim loại 1 bao gồm VAT khoảng RMB 1,700/t ($249/t); Trong khi đó, giá than cốc loại 2 thấp hơn khoảng RMB 1,580-1,600/t ($231-234/t). Giá cả 2 loại này đều giảm so với giá đầu tháng 10 lần lượt là RMB 1,780/t và RMB 1,650/t.