Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 27/11/2017

Bản tin than đá tuần: Vấn đề nguồn cung/tắc nghẽn giao thông tại cảng đẩy giá tăng

Có sự bùng nổ giao dịch than đá vào Trung Quốc và các thị trường Châu Á khác trong tuần này, hỗ trợ giá tăng trở lại.

Platts tăng giá than đá HCC chất lượng cao thêm 12.75 USD/tấn lên 202.50 USD/tấn FOB Úc vào hôm thứ sáu trong khi giá giao tới Trung Quốc tăng 2.25 USD/tấn lên 196.50 USD/tấn CFR Trung Quốc trong ngày thứ sáu.

Các nguồn tin tiếp tục lo lắng về nguồn cung than đá luyện cốc chất lượng cao do thời tiết khó đoán ở Queensland trong ngắn hạn và sự trì hoãn tiếp tục tại cảng chuyên chở than đá Dalrymple.

Nguồn cung bắt đầu chặt hơn do các nhà cung cấp không đủ hàng vận chuyển tháng 1. Một nhà máy đã mua than đá chất lượng cao 71-73% CSR tại mức 197 USD/tấn FOB Úc khối lượng 75.000 tấn giao trong tháng 1.

Một nhà máy cho biết công ty của ông muốn bảo toàn các lô hàng trước tháng 1 dựa vào điều kiện thời tiết khó đoán trong ngắn hạn. Người mua đang muốn an toàn, giảm rủi ro không có hàng hoặc phải trả cao hơn.

Một nhà máy thép lớn Trung Quốc cho biết người bán sẽ chào bán ra thị trường quốc tế trước rồi nếu không có đủ tiêu thụ mới quay lại bán vào Trung Quốc do giá xuất khẩu đang tăng.

Với nguồn cung than đá luyện cốc chất lượng cao chặt chẽ, họ không sợ. Vài nhà máy vẫn xa lánh thị trường dựa vào tồn kho đủ và cho rằng giá chào bán hiện quá cao nên sẽ mua nguồn cung rẻ trong nước.

Một nhà máy thép cho biết giá CFR không tăng nhanh như giá FOB dù thị trường đang tăng trưởng. Giá đang tăng có thể nhờ vào giá than đá giao kỳ hạn tăng tại Trung Quốc.

Tại thị trường than đá loại 2, nhu cầu tiêu thụ than đá HCC Rangal tăng mạnh, với lô hàng chứa 61-63% CSR Capesize cargo giao đầu tháng 1 chốt tại mức 160 USD/tấn FOB Úc. Giá chào mua cũng tăng lên 154 USD/tấn FOB Úc à 158 USD/tấn FOB Úc. Chênh lệch giá than đá loại 1 và 2 đang thu hẹp dựa vào giá loại 2 đang tăng.

Tại thị trường than PCI, nhiều giao dịch gồm cả than PCI chất lượng cao và trung bình giao tháng 12 và tháng 1 tới Trung Quốc đã chốt.

Người mua cho hay không còn nhiều lô hàng PCI có sẵn và sẽ mua trong khi vẫn có các lô hàng sẵn có.

Tại thị trường than cốc, các nhà cung cấp than ở phía bắc Trung Quốc tăng giá chào thêm 100 NDT/tấn và vài nhà máy thép đã chấp nhận mức tăng trong khi số khác không chấp nhận.

Thị trường CRC không gỉ Châu Á chờ đợi giá mới

Platts duy trì giá CRC không gỉ 304 2B 2.0mm Đài Loan và Hàn Quốc ổn định tại mức 2.220-2.280 USD/tấn CFR Đông và Đông Nam Á trong tuần trước. Các nguồn tin đang chờ đợi giá mới từ các nhà máy lớn trong khu vực do giá niken vẫn ổn định, tăng lên trên mức 12.000 USD/tấn trong ngày thứ sáu.

Giá có thể giao dịch cho CRC Đài Loan vẫn ở mức 2.250 USD/tấn CFR Hồng Kông giao cuối tháng 12. Tuy nhiên, các nhà máy đang theo dõi sát sao thị trường Trung Quốc để điều chỉnh giá.

Trong khi đó, giá từ nhà máy Posco Hàn Quốc ổn định trên mức 2.500 USD/tấn CFR. Chỉ các loại thép cuộn không gỉ có thời gian giao hàng ngắn hơn tới phía nam Trung Quốc vẫn giao dịch ở mức 2.200-2.300 USD/tấn CFR. Chào giá cho CRC 304 Nhật Bản ở mức cao 3.200 USD/tấn CFR nhưng người mua  không thấy nguyên liệu có sẵn từ các nhà máy.

Tại Trung Quốc, nhà máy lớn nhất là Taigang Stainless Steel chào bán tại mức 2.050 USD/tấn FOB giao tháng 1. Chào giá cho các nguyên liệu giao ngay vẫn trên mức 2.100 USD/tấn FOB.

Giá giao dịch niken trên sàn LME ở mức 11.625 USD/tấn vào ngày 23/11, tăng 55 USD/tấn so với tuần trước đó.

Các nhà máy thép cuộn Nam Âu đặt mục tiêu tăng giá

Các nhà máy thép cuộn Nam Âu đang giữ vững giá chào bán và có ý định tăng giá.

Họ nhắm tới mục tiêu tăng giá dựa vào đơn hàng tăng cộng với áp lực hàng nhập khẩu giảm đi sau khi Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ tăng giá chào bán.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ đã chốt đơn hàng giá thấp trong mấy tuần qua và hiện tại đang tăng giá chào bán do đã nhận được nhiều đơn hàng cộng với giá nguyên liệu thô tăng. Giá nhập khẩu từ hai nước này đã tăng 10 Euro/tấn lên 510-515 Euro/tấn CFR Tây Ban Nha.

Một thương nhân khác cho biết giá nhập khẩu tăng mặc dù đồng Euro suy yếu từ mức 1.17 USD xuống 1.18 USD. Chào giá từ Thổ Nhĩ Kỳ cho lô hàng giao tháng 1 tăng lên 510 Euro/tấn CIF Ý.

Hai người mua cho biết một nhà máy thép cuộn Ý đã tăng giá thêm 10 Euro/tấn trong khi một nhà máy khác dự định tăng giá vào đầu tuần tới.

Áp lực gia tăng lên thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ

Đồng Lira tiếp tục giảm làm gia tăng áp lực lên thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ trong ngày thứ sáu sau khi giá đã phục hồi phần nào. Tỷ giá biến động kích thích tiêu thụ trong nước trong khi tiêu thụ ngoài nước suy yếu.
Một nhà máy cho biết đã giảm giá chào bán trong khi một nhà tiêu thụ cuối lớn cho biết mức 545 USD/tấn xuất xưởng có sẵn cho các đơn hàng lớn và đã mua ở mức này.

Nhu cầu tiêu thụ tuần này suy yếu trong bối cảnh đồng dolla tăng mạnh, một trung tâm dịch vụ cho biết. Do phần lớn người mua không muốn trữ nhiều hàng vào năm mới nên đã hoãn thu mua. Điều này khiến sức mua trên thị trường hạn chế và tăng áp lực lên giá.

Trung tâm dịch vụ trên cho biết giá vẫn ở mức 560 USD/tấn xuất xưởng nhưng vài giao dịch nghe chốt ở thấp hơn mức này.

Các nguồn tin cho biết, phần lớn giao dịch chốt ở mức 560 USD/tấn xuất xưởng mặc dù giá rẻ hơn có sẵn cho các đơn hàng lớn. Mức thấp nhất là 545 USD/tấn mặc dù giá xuất khẩu rẻ hơn.

Chào giá nhập khẩu từ Biển Đen vẫn ổn định ở mức 525-530 USD/tấn FOB nhưng chi phí vận chuyển tăng nên giá không thu hút.

Giá thép cây Thổ nhĩ Kỳ ổn định trở lại sau đà tăng gần đây

Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ sau khi tăng liên tục nhờ đồng Lira giảm và nguồn cung có sẵn hạn chế đã ổn định trở lại.
Giá chào từ các nhà máy đạt mức cao 545-550 USD/tấn xuất xưởng tùy vào khu vực. Trong khi đó, vài nhà máy đã ngưng nhận đơn hàng dù một số vẫn chấp nhận đơn hàng giao cuối tháng 12.

Giá chào thép cây 12-32mm từ các nhà môi giới ở mức cao 2.630-2.650 Lira/tấn đã tính thuế ở Marmara trong ngày thứ năm, vẫn ổn định ở giá này trong ngày thứ sáu, nhưng nguồn cung vài mặt hàng thiếu hụt.

Giá chào xuất khẩu thép cây cũng tăng lên 530-535 USD/tấn FOB giao tháng 1 trong mấy ngày gần đây dù nhu cầu tiêu thụ vẫn im ắng và giá chào mua thấp hơn mức này.

Đồng Lira tiếp tục suy yếu nhưng chậm lại trong ngày thứ sáu, còn 3.93-3.94 TRY/USD so với mức 3.91-3.92 TRY/USD vào đầu tuần.

Với chi phí phế tăng, nguồn cung có sẵn hạn chế và tỷ giá biến động, vài nguồn tin cho rằng giá có thể tiếp tục tăng trong ngắn hạn.

Thép hình tăng trưởng mạnh nhất trong thị trường thép dài EU

Thị trường thép dài Châu Âu im ắng trong tuần qua với giá cả ít biến động trước cuối năm. Các nhà máy vẫn lạc quan nhờ đơn hàng tăng.

Giá giao dịch thép hình loại 1 ở mức 585-595 Euro/tấn. Giá đã tăng khoảng 15 Euro/tấn kể từ tháng 10, với các nhà máy được cho là đã thu được đơn hàng đặt cho sáu tuần tới.

Các nhà máy vẫn hướng tới mục tiêu giá 600 Euro/tấn trong hai tháng vừa qua và đã dần dần cải thiện. Tuy nhiên, các nguồn tin vẫn phân vân về khả năng giá có thể chạm mức này vào cuối năm nay hay không. Thị trường đã chưa đạt được 600 Euro/tấn kể từ tháng 1/2013.

Các nhà phân phối phàn nàn rằng khó tăng giá tới các nhà tiêu thụ cuối. Có nhiều nhà phân phối hơn các dự án, và vì lý do một nguồn tin cho rằng giá của các nhà phân phối sẽ giảm vào tháng này.

Thép thanh thương phẩm được cho là yếu nhất trong các loại thép dài do tiêu thụ yếu ớt. Giá giảm chỉ là vấn đề thời gian, có thể là tháng sau.

Một nhà máy lớn nhất châu Âu được cho là cung cấp ở mức 150 Euro/tấn, trong khi giá từ các nhà máy khác là 140 Euro/tấn. Một nhà máy ở Tây Ban Nha được cho là đang chào bán tại mức 135 Euro/tấn. Giá đã cộng hết các khoản phụ phí tầm 410 Euro/tấn.

Giá thép cây hầu như ổn định, trong khi các nhà máy của Ý cho biết đã nhận đủ đơn hàng cho đến cuối tháng 12. Các nguồn tin cho rằng giá sẽ ổn định cho đến cuối năm.

Giá gang thỏi Biển Đen suy yếu do sức mua chậm

Giá gang thỏi thương phẩm Biển Đen suy yếu mấy tuần qua với sức mua im ắng, nhất là từ thị trường Mỹ.

Một thương nhân Ukraina cho biết ông đang bán gang thỏi CIS ở mức 360 USD/tấn CIF Ý. Một nhà máy Ucraina cũng đã được nghe bán ở mức này, tương đương 330-335 USD/ tấn FOB Mariupol.

Một thương nhân Nga cho rằng giá có thể giao dịch tại thị trường Ý quanh mức 350 USD/tấn CIF, không nằm trong khoảng 360-365 USD/tấn CIF như một số nguồn tin khác cho biết "Có khả năng giá sẽ cao hơn vào tháng 12", ông nói thêm. Giá gang thỏi Braxin giảm xuống mức 352- 353 US /tấn CIF Ý.

Một công ty đã mua gang thỏi từ một nhà máy lớn của Ukraina với giá 347 USD/tấn Ý, một thương nhân cho hay. Ngoài ra, cũng thông tin công ty này đã mua gang thỏi Braxin ở mức 322 USD/tấn FOB bán tới Châu Âu.

Giá chào bán cho thị trường Mỹ tương đương 340 USD/tấn FOB Biển Đen/Biển Baltic. Nhưng không có giao dịch trong tuần.

Mức 340 USD/tấn FOB đối với Mỹ là một mức giá lịch sử của tuần trước. Bây giờ chỉ còn khoảng 330-335 USD/tấn FOB. Đó là lý do các thương nhân đang tập trung bán vào Châu Âu.

Không có chào bán từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ. Một thương nhân địa phương phàn nàn rằng thị trường Thổ Nhĩ Kỳ bị chi phối bởi "vật liệu màu xám" từ một nhà máy Donetskstal, vốn đã bị các nhà hoạt động ly khai ở khu vực Donbass của Ukraine chiếm đoạt một cách bất hợp pháp. 

Giá thép cây Châu Á tăng trở lại theo sự khởi sắc của thị trường nội địa Trung Quốc

Giá thép cây Châu Á tăng ngày thứ ba liên tiếp tính tới  thứ sáu do người mua buộc phải trả nhiều hơn trước sự tăng trưởng của thị trường nội địa Trung Quốc.

Platts tăng giá xuất khẩu thép cây BS500 đường kính 16-20mm thêm 3.50 USD/tấn lên 518- 520 USD/tấn FOB Trung Quốc.

Tại Singapore, người mua có thể cân nhắc việc đặt đơn đặt hàng vào khoảng 520 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, theo một thương nhân ở miền đông Trung Quốc. Con số này tương đương với 515 USD/tấn FOB Trung Quốc với phí vận chuyển hàng hóa 20 USD/tấn và chênh lệch khối lượng 3%, nhưng mức giá này không có sẵn vì giá chào thấp hơn đã bị rút khỏi thị trường.

Một thương nhân cho biết ông đã nhận được chào mua cho thép cây 10-40mm Omani với giá 525 USD/tấn CFR Singapore nhưng không có hứng thú với việc mua vào vì đã có đủ hàng dự trữ.

Khả năng giá Trung Quốc giảm là rất nhỏ trong ngắn hạn và các nhà máy Trung Quốc ưu tiên tập trung vào bán hàng trong nước, nơi họ có thể đảm bảo giá cả tốt hơn. Hai nhà máy xuất khẩu lớn ở miền đông Trung Quốc đều ngưng chào bán vào hôm thứ sáu.

Một trong hai nguồn thông tin của công ty cho biết: "Hiện nay, giá xuất khẩu của Trung Quốc quá cao để được người tiêu dùng nước ngoài chấp nhận".

Giá tấm mỏng Nhật Bản tiếp tục tăng nhờ nguồn cung thắt chặt


Giá thị trường cho tấm cán nóng (dày 1.6mm 1.219x2.438mm) là 78.000-80.000 Yên/tấn (701-719 USD/tấn), tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng trước và 9.000 Yên/tấn so với tháng 4. Giá tấm cán nguội (dày 1mm,  914x1.828 mm) là 83.000-85.000 Yên/tấn cũng tăng 1.000 Yên/tấn so với tháng trước và 7.000 Yên/tấn so với tháng 4.

Nhu cầu tiêu thụ tấm mỏng tăng và lượng chào mua cũng tăng. Tuy nhiên, nguồn cung từ các nhà máy giảm và tồn kho ít nên giá chào bán tăng.

Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) đã giảm nguồn cung tấm mỏng và cuộn trong nước vào Qúy này. Các trung tâm thép cuộn cũng đang cố gắng tăng giá.

Khối lượng thép dẹt tại các trung tâm thép cuộn Nhật trong tháng 9 tăng 1.9% so với cùng kỳ năm ngoái và 12.2% so với tháng 8 lên 133.000 tấn.

Các nhà cung cấp ngoài nước cũng hạn chế xuất khẩu tới Nhật để ưu tiên bán vào nội địa. Trước đó, các nhà phân phối có thể dựa vào hàng nhập khẩu khi nguồncung trong nước không đủ nhưng bây giờ thì không thể. Cân bằng cung-cầu thép tấm mỏng tại thị trường giao ngay thắt chặt.

Nhập khẩu HRC vào Nhật trong tháng 9 ở mức 122.872 tấn, giảm 16% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng tăng 6.1% so với tháng 8.

Giá HRC Châu Á tăng

Mặc dù các khách hàng Châu Á vẫn xa lánh thị trường nhưng các nhà máy đã tăng giá chào vào cuối tuần trước.
Platts tăng giá chào HRC SS400 3.0mm Trung Quốc thêm 2 USD/tấn lên 546-548 USD/tấn FOB Trung Quốc. Giá tính theo CFR Đông Á đạt mức 556-558 USD/tấn CFR.

Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm giảm 20 NDT/tấn so với thứ năm còn 4.090-4.110 NDT/tấn (619-622 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.

Thị trường HRC SHFE suy yếu với giá chốt hợp đồng giao tháng 5 chốt giảm 130 NDT/tấn so với thứ năm còn 3.862 NDT/tấn.

Đối với thị trường Việt Nam, giá HRC Nga cạnh tranh nhất với chào giá cho loại 18-25mm ở mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 2. Các loại nhỏ 9-13mm được chào ở mức 545 USD/tấn CFR trong khi giá loại SS400 và SAE giống nhau.

Giá HRC SAE1006 Ấn Độ giao tháng 1 tăng lên mức 557 USD/tấn CFR Việt Nam, tăng 2 USD/tấn so với các giao dịch tuần trước đó.

Một trung tâm mua bán Trung Quốc đã đặt mua HRC SAE1006 từ một nhà máy ở đông bắc tại mức 556-558 USD/tấn FOB. Thêm vào đó, một khách hàng ở miền nam Việt Nam nghe nói đã đặt mua 40.000 tấn HRC SAE1006 Braxin tại mức 558 USD/tấn CFR Việt Nam trong tuần 20/11.

HRC SAE1006 Trung Quốc cao hơn HRC SS400 tầm 10 USD/tấn.

Bản tin quặng tuần: giá khởi sắc theo giá thép

Thị trường quặng nhập khẩu Trung Quốc tăng trưởng trong tuần qua theo giá thép và vẫn dao động ở biên độ rộng.

Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá quặng giao ngay 62% sắt thêm 75 cents/tấn so với thứ năm lên 68.45 USD/tấn CFR Trung Quốc. Giá tăng 5.70 USD/tấn so với tuần trước đó.

Thị trường đầu tuần chậm chạp nhưng sau đó sôi động hơn vào giữa tuần. Sự cạnh tranh giữa các nhà máy có vẻ mạnh mẽ hơn do tồn kho tại các cảng Trung Quốc cũng như tại nhiều nhà máy đã giảm mạnh.

Tồn kho quặng Pilbara Blend Newman không cao. Đây là các loại dễ bán nên các thương nhân không ngại bổ sung thêm hàng dự trữ. Vài nhà máy còn ít hàng dự trữ vào đầu tháng này. Kể từ khi chính sách giảm sản xuất thép không tệ như dự báo, các nhà máy đã bổ sung thêm ít quặng dự trữ.

Trong khi đó, do giá thép tăng nên các nhà máy tiếp tục tăng sản xuất dù bị hạn chế về công suất. Kết quả là quặng cỡ trung bình tiếp tục phổ biến trong khi quặng cao và thấp ngày càng gặp áp lực mạnh hơn.

Các nhà máy cho biết chi phí quặng chất lượng cao không hiệu quả ở mức hiện tại trong khi họ đang cố gắng thu được đầy đủ giá trị từ quặng chất lượng thấp. Chênh lệch giá quặng 65% sắt và 62% sắt ở mức 16.75 USD/tấn, giảm từ mức 17.45 USD/tấn tuần trước đó. Chênh lệch giá quặng 62% sắt và 58% sắt mở rộng thêm 0.7 USD/tấn so với ngày thứ năm lên 13.45 USD/tấn vào thứ sáu.

Rõ ràng rằng các nhà máy ở phía đông và nam Trung Quốc đang thu mua mạnh hơn, nhờ hưởng lợi từ chính sách giảm sản xuất ở miền bắc.

Trong khi đó, quặng cục và viên gặp áp lực do các nhà tiêu thụ cuối chuyển sang các nguyên liệu năng suất và kinh tế hơn, như quặng tinh. Một nhà máy cho hay chỉ mua quặng cục theo hợp đồng dài hạn chứ không mua ngay.

Platts giảm chênh lệch giá quặng cục và cám giao ngay xuốn 0.1760 USD/tấn vào hôm thứ sáu, giảm 0.004 USD/tấn so với thứ năm và 0.019 USD/tấn so với tuần trước đó.

 Bản tin phế tuần: Thổ Nhĩ Kỳ bắt đầu hoạt động sau tuần lễ im ắng

Thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ khá im ắng trong suốt tuần qua với vài giao dịch chốt ở mức không đổi.
Một nhà cung cấp phế Châu Âu cho biết có sự khác biệt giữa hai thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Châu Âu. Nhu cầu tiêu thụ ở các thị trường như Tây Ban Nha và Morocco mạnh với giá tốt hơn ở vài thị trường so với Thổ Nhĩ Kỳ vào lúc này. Một nhà cung cấp khác cho biết giá ở Ý là 275 Euro/tấn xuất khẩu trong khi giá ở mức cao tương tự có sẵn từ Đức.

Tuy nhiên, các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ đang hoạt động sôi nổi hơn ở trên thị trường và giá cả dự báo tăng. Một đại lý của một nhà cung cấp phế Mỹ cho biết tất cả các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang ở trên thị trường tìm kiếm phế giao tháng 1.

Chào giá phế HMS chất lượng cao I/II (80:20) tăng lên 325 USD/tấn CFR, với một nhà máy Bắc Mỹ cho biết giá là 335 USD/tấn CFR, mức được cho là quá cao.

Hiện tại có một sự contango mạnh trên hợp đồng phế kỳ hạn LME (giá kỳ hạn tăng mạnh), với hợp đồng tháng 1 giao dịch ở mức 333 USD/tấn trong khi các nguồn tin cho rằng giá tăng nhờ vào các dự báo cắt giảm sản xuất từ Trung Quốc sẽ hỗ trợ giá thép và phế. Ngoài ra, sức mua từ Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng.

Trong khi đồng Lira giảm khiến giá nhập khẩu đắt hơn thì giá thép thanh và phôi thanh nội địa đang tăng, cộng với vài loại thép cây bị thiếu hụt.

Dù vậy, một người mua hoài nghi về giá tăng vì cho rằng không đủ lực hỗ trợ cho phế mà chỉ là yếu tố tâm lý. Thị trường sẽ suy yếu nhanh nếu giá tăng.

Giá phế Châu Á cũng tăng. Giá trong nước và xuất khẩu phế Nhật đều tăng.

Nhà máy Hyundai Steel đã mua 40.000 tấn phế Nhật tại mức 33.500 yên/tấn FOB cho phế H2 à 37.500 Yên/tấn cho phế Shindachi.

Trong thứ hai tuần trước, các thương nhân Nhật đang trả 32.000-32.500 Yên/tấn FAS cho phế H2 xuất khẩu từ phía đông, tăng 500 yên/tấn so với tuần trước đó.

Một nhà máy Việt Nam đã đặt mua 19.000 tấn phế H2 hồi đầu tuần trước ở mức giá 329.5 USD/tấn CFR giao tháng 2.

Tại Nhật Bản, nhà máy Tokyo Steel Manufacturing tăng giá mua phế thêm 500 Yên/tấn cho tất cả các xưởng à một trung tâm dịch vụ từ ngày 22/11. Đây là lần tăng giá thứ sáu trong tháng 11, với tổng mức tăng 3.500 Yên/tấn. Giá mua phế H2 tại các xưởng ở Utsunomiya là 34.500 Yên/tấn.

Platts tăng giá xuất khẩu phế H2 Nhật thêm 1.000 Yên/tấn lên 33.500 Yên/tấn (299 USD/tấn) FOB Vịnh Tokyo trong ngày thứ tư.

Thị trường phế HMS Châu Á cũng tăng trưởng. Trong khi không có chào giá chính thức ở Hàn Quốc và Việt Nam thì giá chào được cho là tầm 345-355 USD/tấn CFR Đông Á.

Trong khi các nhà máy vẫn từ chối trả thêm đầy đủ cho phế thì họ có thể chấp nhận giá 335 USD/tấn CFR.

Trong khi đó, nhà máy Hyundai Steel đã đặt mua ít hơn 10.000 tấn phế A3 Nga tại mức 317 USD/tấn CFR Hàn Quốc vào hôm thứ sáu tuần trước.

Sau Hyundai, DongKUK cũng chào mua phế A3 Nga tại mức 329 USD/tấn CFR nhưng chưa được chấp nhận.

Trong khi đó, các nhà máy Việt Nam đang chú ý tới phế Hồng Kông. Hồi đầu tuần trước, một nhà máy Việt Nam đã đặt mua phế Hồng Kông ở mức 330 USD/tấn CFR.

Platts tăng giá phế HMS I/II 80:20 Đông Á thêm 12.5 USD/tấn lên 335-350 USD/tấn CFR.