Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 27/3/2014


Thị trường ferrochrome Trung Quốc đang đợi giá mua của các nhà máy

 

Giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (50% Cr) tại Trung Quốc hôm thứ Tư vẫn không đổi so với tuần trước và dừng tại 6.700-6.900 (82,5-85 cents/pound) gồm VAT 17% do thị trường đang đợi các nhà sản xuất thép không gỉ chủ chốt trong nước đưa ra giá mua tháng 04.

Các nhà sản xuất thép không gỉ hàng đầu trong nước như Shanxi Taigang Stainless Steel, Baosteel và Jiuquan Iron & Steel thường đưa ra giá mua mỗi tháng vào tháng trước đó và giá giao ngay trong nước thông thường sẽ đi theo những điều chỉnh giá mua hàng tháng của họ.

Các nhà máy thép không gỉ rất có thể sẽ giảm giá mua tháng 04 do cầu yếu và nguồn cung lớn trên thị trường. “Chúng tôi nghe nói các nhà máy sẽ giảm giá mua xuống 10-100 NDT/tấn”, đại diện một nhà máy thép không gỉ ở miền trung nói.

Các nhà máy vẫn chưa đưa ra giá mua mặc dù sắp hết tháng điều này cho thấy họ không vội thu mua thêm nguyên liệu.

Giá thép không gỉ và nhu cầu tiêu thụ tại Trung Quốc vẫn bình ổn mặc dù giá các nguyên liệu khác như gang thỏi chứa niken và kim loại niken đang tăng. “Nhu cầu  ferrochrome thậm chí có thể còn ít hơn nữa do có nhiều nhà máy có ý định giảm bớt sản lượng”, đại diện một nhà máy ở miền đông nói.

Taigang, Baosteel và Jiuquan Steel trước đây đều giảm giá mua tháng 03 xuống 50 NDT/tấn so với tháng trước còn lần lượt 6.600 NDT/tấn, 6.800 NDT/tấn và 6.700 NDT/tấn hồi cuối tháng 02.

 

Giá giao ngay của gang thỏi chứa niken Trung Quốc tăng

Giá gang thỏi chứa niken (NPI) loại chất lượng cao (10-15% Ni) tại Trung Quốc hôm thứ tư tăng lên 1.030-1.060 NDT/nickel unit (167-172 USD/unit) từ mức 1.000-1.040 ND/ unit của hai tuần trước do quặng niken và kim loại niken đều lên giá.

Hôm 25/3, giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt trên sàn LME của niken tăng thêm 1.000 USD/tấn so với hai tuần trước lên 16.215-16.225 USD/tấn.

“Các nhà cung cấp NPI đã có sẵn nguồn cung nhưng họ đang kỳ vọng và chờ cho giá NPI tăng lên cao hơn”, đại diện một nhà máy ở miền trung Trung Quốc nói.

Các nhà máy thép không gỉ chủ chốt ở trong nước cũng đã tăng giá mua tháng 04 cho NPI.  Điển hình như Jiuquan Iron & Steel đã tăng giá mua thêm 40 NDT/unit so với tháng trước lên 1.060 NDT/unit và Baosteel tăng 45 NDT/unit lên 1.035 NDT/unit.

Nhưng một số người tin rằng giá NPI khó mà tăng thêm nữa do các nhà máy thép không gỉ đã bắt đầu cắt giảm sản lượng do lực cầu và ngành thép không gỉ đều suy yếu. Các nhà sản xuất NPI và nhà máy thép không gỉ chẳng bao lâu nữa sẽ có khoảng cách với nhau về giá bán và mua.

“Các nhà sản xuất NPI muốn tăng giá nhưng nhà máy thì không thể chấp nhận mức giá cao hơn nữa. Nhu cầu NPI chẳng mấy chốc sẽ bị ảnh hưởng do sản lượng thép không gỉ cắt giảm”, đại diện một nhà máy ở miền đông nói.

 

NSSC tăng giá thép dây không gỉ

 

Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) thông báo hôm thứ Tư rằng họ sẽ tăng giá bán trong nước cho thép dây không gỉ áp dụng đối với những hợp đồng từ tháng 03 đến tháng 05. Cụ thể, thép dây austenite sẽ tăng thêm 20.000 Yên/tấn (196 USD/tấn) và 5.000 Yên/tấn (49 USD/tấn) cho thép dây ferrite.

Giải thích cho quyết định này, NSSC cho biết giá niken bình quân từ ngày 19/12 đến 25/3 đã tăng lên 6,66 USD/lb từ 6,29 USD/lb của 3 tháng trước và giá ferrochrome trong 3 tháng đầu năm nay cũng tăng mạnh lên 126 cents/lb từ mức 125,5 US cents/lb của quý trước đó.

Đồng thời, Yên Nhật suy yếu, tỷ giá lên 103,98 Yên đổi lấy 1 USD từ 101,2 Yên/1 USD của 3 tháng trước. “Với các yếu tố trên, chúng tôi đã chọn cách nâng giá bán cho phù hợp với công thức tính giá của mình” phát ngồn viên NSSC nói.

NSSC cũng sẽ tăng thêm phụ phí cho thép dây chứa hợp kim. Điển hình như giá của loại SUSMX7 và SUS303 sẽ tăng thêm 15.000 Yên/tấn; SUS316 và SUS310S tăng thêm lần lượt 25.000 Yên/tấn và 35.000 Yên/tấn.

“Nhu cầu thép dây không gỉ tăng và mức tăng 5.000 Yên/tấn trước đây của chúng tôi (cho những hợp đồng từ tháng 12 đến tháng 02) đối với thép dây austenite về cơ bản đã được chấp nhận”, ông nói. Nhưng ông nhấn mạnh rằng thép dây nhập khẩu đang tăng và xác định tình trạng nguồn cung dư thừa tại Trung Quốc là nguyên nhân chính.

Năm ngoái, Nhật Bản đã nhập khẩu 12.970 tấn cuộn trơn không gỉ, tăng 31% so với 2012. Trong đó, thép nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 8.178 tấn, tăng 38%, trong khi nhập từ Trung Quốc tăng 29% đạt 2.009 tấn. Nhập từ Đài Loan tăng 21% lên 2.168 tấn, theo số liệu thương mại Nhật Bản.

Dựa theo số liệu từ Liên đoàn sắt thép Nhật Bản, Platts ước tính rằng nước này trong năm ngoái đã sản xuất được khoảng 226.000 tấn cuộn trơn không gỉ, khiến cho lượng thép nhập khẩu chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ cỡ 5,7% so với sản lượng trong nước.

NSSC cho biết sản lượng thép dây không gỉ gần như đã đạt 100% công suất. Nhà máy này sản xuất thép dây tại các xưởng ở Hikari, phía tây Nhật Bản với công suất khoảng 130.000 tấn mỗi năm.

 

Hegang giảm giá hợp đồng thép cây tháng 03 xuống 25 NDT/tấn

Hebei Iron & Steel (Hegang) đã hạ giá hợp đồng thép cây tháng 03 xuống 160 NDT/tấn (25 USD/tấn) từ tháng 02.

Theo đó, giá thanh toán của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm giảm còn 3.040 NDT/tấn (490 USD/tấn) khối lượng lý thuyết gồm VAT 17%. Các đại lý của công ty cũng sẽ nhận được khoản chiết khấu 60 NDT/tấn cho các đơn đặt hàng trong tháng này nếu họ đạt từ 90% trở lên chỉ tiêu đặt mua cho tháng 04.

Các nguồn tin cho rằng việc trợ giá thanh toán mà Hegang đã cam kết cho các đơn hàng tháng 03 thực ra là để bù đắp những thiệt hại mà các thương nhân đã gánh chịu từ các đơn hàng đặt mua hồi tháng 02.

Như Platts đã đưa tin, Hegang đã thỏa thuận mức giá hợp đồng thép cây tháng 02 tại 3.200 NDT/tấn khối lượng lý thuyết và chiết khấu thêm 60 NDT/tấn với các điều kiện tương tự như trong tháng 03.

Tuy nhiên, giá giao ngay của thép cây tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh vẫn dao động quanh 3.200 NDT/tấn khối lượng thực hồi tháng 02. Với dung sai khối lượng dành cho khối lượng lý thuyết là 3%, điều này có nghĩa là giá hợp đồng tháng 02 của Hegang (chưa tính chiết khấu) cao hơn khoảng 100 NDT/tấn so với giá giao ngay bình quân của tháng 02.

Nếu không có thêm khoản chiết khấu từ các nhà máy thì giá sẽ giảm hơn nữa trong tháng 03 nghĩa là các thương nhân có lẽ phải chịu thua lỗ thậm chí còn lớn hơn cho các đơn hàng đặt mua hồi tháng 02.

Tại thị trường Bắc Kinh hôm 26/3, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm xuất xưởng từ nhà máy Hegang được chốt tại 3.130-3.150 NDT/tấn khối lượng thực, gồm VAT, cao hơn một chút so với mức 3.130-3.140 NDT/tấn của ngày thứ ba.

Hầu hết các thương nhân mà Platts đã liên hệ đều cho biết họ cảm thấy giá đang mất đà tăng. Không có sự  phục hồi nào đáng kể của giá được dự báo trong tháng 04, với lượng tồn kho tháng 03 đang giảm với tốc độ tương đối chậm.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE giảm 0,37% so với phiên giao dịch trước đó và chốt tại 3.275 NDT/tấn.

 

 

Dự báo giá HRC Ấn Độ sẽ giảm 3% trong tháng 04

Giá HRC Ấn Độ được dự báo là sẽ giảm mạnh 1.000 Rupee/tấn (16,6 USD/tấn) tức 3% cho những hợp đồng tháng 04. Các nhà máy thép trong nước đã kiên quyết từ chối hạ giá xuống thấp hơn mặc dù HRC nhập khẩu từ Trung Quốc đang rớt giá.

HRC IS 2062 loại A/B dày từ 3mm trở lên có giá giao dịch bình quân từ 37.000-38.000 Rupee/tấn xuất xưởng trong tháng 03. Mức giá này tương đương giá nhập khẩu cỡ 572-587 USD/tấn CFR Mumbai gồm thuế nhập khẩu 7.5%. Các chào giá HRC tiêu chuẩn thương mại loại SS400B dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc hiện đang phổ biến từ 540-545 USD/tấn CFR Mumbai.

Thép nhập khẩu từ Trung Quốc hiện nay cũng tương đương với chào giá của các nhà máy trong nước. Một thương nhân ở Mumbai cho biết do sự mạnh lên của đồng rupee trong những tuần gần đây nên các nhà máy trong nước sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải hạ chào giá xuống nếu họ muốn duy trì tính cạnh tranh. Hôm thứ Tư, đồng Rupee bắt đầu đạt mức cao trong 8 tháng, tỷ giá 1 USD đổi được 60,3 Rupee.

Ngoài ra, thị trường thường khá trầm lắng vào tháng 04 khi bắt đầu năm tài khóa mới và các nhà cung cấp thường cân nhắc việc đưa ra các khoản chiết khấu từ cuối tháng 04. Tuy nhiên, cho đến nay điều này vẫn chưa chắc chắn.

Một đại diện nhà máy ở Mumbai cho biết nhà máy của ông muốn giữ chào giá không đổi. Thép trong nước sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn so với thép nhập khẩu. Thép từ các nước như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ mất từ 3 đến 4 tháng mới cập cảng đến Ấn Độ.

“Sắp tới thị trường sẽ thiếu hàng trong tháng 04 bởi vì không có ai đặt mua hồi tháng 12”, đại diện nhà máy lý giải. Theo ông, hầu hết người mua Ấn Độ sẽ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải mua từ các nhà máy trong nước vào tháng tới.

 

Giá HDG Trung Quốc tiếp tục suy yếu mặc dù chào giá tăng

 

Giá HDG Trung Quốc tiếp tục suy yếu do sức mua chậm và sản lượng cao. Các nhà quan sát thị trường không tin là giá sẽ phục hồi trong tháng 04 do lực cầu trì trệ và tồn kho tại các nhà máy còn nhiều.

Hôm thứ Tư, HDG DX51D dày 1.0mm phủ 80 gram kẽm trên một mét vuông được được giao dịch phổ biến với giá từ 4.440-4.510 NDT/tấn (715-726 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT 17% tại Thượng Hải, không đổi so với giá niêm yết tại Platts hôm 19/3.

Giá của các loại thép chất lượng cao được sản xuất từ các nhà máy như Maanshan Iron & Steel đã giảm nhẹ ở Thượng Hải, trong khi các loại thép chất lượng kém hơn từ các nhà cung cấp như Jiuquan Iron & Steel lại tăng lên một ít trong tuần này.

Một thương nhân lớn ở Thượng Hải than phiền về việc kinh doanh ế ẩm trong tuần này, công ty ông đang mất tiền do thị trường suy yếu. Ông cho biết việc bán HDG lấy từ các nhà máy ở miền bắc là không có lời do thời gian giao hàng kéo dài và ông vẫn đang bán thép cuộn mua hồi tháng 01.

Ông cũng cho rằng sản lượng thép tồn kho cao là nguyên nhân chính khiến giá giảm và thị trường khó mà phục hồi trở lại trừ phi sản lượng giảm bớt. “Các nhà máy hiện nay đang sốt sắng tìm người mua trực tiếp khi tồn kho của họ cao nên sẽ càng khó khăn hơn cho việc kinh doanh của các thương nhân trong thời gian tới”, ông khuyến cáo.

Sản lượng thép tiếp tục dao động quanh mức cao và các động thái từ chính quyền trung ương để kiểm soát ô nhiễm môi trường thực sự không gây ảnh hưởng nhiều đến sản lượng thép của cả nước.

Một số nhà máy thép đã bị dỡ bỏ hoặc phải tạm ngưng hoạt động trong nhiều năm, nhưng theo quan sát cho thấy sản lượng tại tỉnh Hà Bắc (chiếm 1/3 sản lượng thép của cả nước) trong thời gian vừa qua không hề giảm.

 

Thị trường tấm mỏng Mỹ khởi sắc

Theo nguồn tin cho hay, thị trường tấm mỏng Mỹ đã bắt đầu khởi sắc mặc dù một số nguồn tin thị trường vẫn  còn hoài nghi về xu hướng này.

Nguồn tin này cũng cho biết thêm  thị trường HRC sẽ hoạt động tại mức 640-660 USD/tấn mặc dù giá chào 640 USD/tấn là dành cho các khách hàng có mối quan hệ đặc biệt và thời gian giao hàng ngắn.

Hai nhà máy lớn cho biết các giao dịch  HRC và CRC đã được chốt tại mức giá sàn 660 USD/tấn cà 790 USD/tấn mặc dù khối lượng đơn hàng còn nhỏ.

 

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC tại mức lần lượt 650-660 USD/tấn và 780-790 USD/tấn xuất xưởng Midwest.

Giá HRC Trung Quốc bật tăng theo giá giao sau

 

Giá HRC Trung Quốc tại thị trường nội địa hôm thứ Tư tăng theo đà phục hồi của giá giao kỳ hạn trên sàn SHFE. Tuy nhiên, đa số các thương nhân mà Platts liên hệ đều cho rằng đà phục hồi là không bền vững, điều này giống như là một sự điều chỉnh giá sau khi đã suy yếu đến mức thấp trong gần hết tháng 03.

Hôm thứ Tư, HRC Q235 5.5mm có giá 3.320-3.350 NDT/tấn (535-540 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 3.390-3.420 NDT/tấn tại Lecong (Quảng Đông), tăng lần lượt 10 NDT/tấn và 30 NDT/tấn so với ngày trước đó.

Nhiều thương nhân cho biết các giao dịch trên thị trường giao ngay ở mức sàn đã cải thiện kể từ chiều thứ ba nhờ giá giao sau tăng. Nhưng sau khi giá giao ngay tăng trong ngày hôm qua (26/3) thì sức mua ở mức giá trần lại chậm hơn.

Một thương nhân ở Thượng Hải vẫn khẳng định rằng ông không có ý định mua bổ sung thêm hàng hay tăng đơn đặt hàng từ các nhà máy do thị trường không có nhiều thay đổi và sự bật tăng của giá không thể kéo dài được.

Một thương nhân khác ở Lecong cho biết tình hình khan hiếm tiền mặt có thể vẫn còn tiếp diễn trong khi đó tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại khiến sự phục hồi của cầu là rất khó. Tất cả mọi người đều đang rất cẩn trọng để giữ tồn kho ở mức hợp lý nhằm tránh những rủi ro về thanh khoản.

Tuy nhiên, một nhà máy cho rằng trong khi các ngân hàng sẽ tiếp tục siết chặt cho vay đối với các thương nhân thì cả ngân hàng và chính quyền địa phương sẽ không thể khoanh tay ngồi ngó các nhà máy đi đến bờ vực phá sản. Ông cho biết số lượng lớn các vụ phá sản của nhà máy là không thể và thậm chí nếu điều này có xảy ra đi nữa thì các nhà máy bị ảnh hưởng cũng sẽ được tiếp quản bởi các công ty khác nên nhà máy bị ảnh hưởng sẽ vẫn tiếp tục hoạt động với những nhân viên còn lại.

 

Định giá phôi thanh CIS theo Platts dưới mức chào bán của các nhà máy

Định giá Platts đối với phôi thanh CIS vẫn ở dưới mức giá chào bán từ các nhà máy do  tình hình thị trường im ắng và người mua không quan tâm tới các đơn hàng lớn.

Trong ngày hôm qua,  giá Platts đối với phôi thanh CIS tăng 2 USD/tấn, đạt  mức 496 USD/tấn FOB Biển Đen trong khi giá chào từ các nhà máy vẫn đạt mức 500-505 USD/tấn FOB Biển Đen.

Các nguồn tin cho biết, nguồn hàng sẵn có không nhiều, tuy nhiên, mức giá 500 USD/tấn FOB Biển Đen vẫn không được chấp nhận .

Một khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ cho biết đã mua phôi thanh trong nước tại mức giá 517 USD/tấn xuất xưởng trong khi chào giá từ CIS là 515-520 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Ai Cập, các chào giá từ CIS vẫn ổn định tại mức 525 USD/tấn CIF Alexandria, tuy nhiên, các chào mua đạt mức 519-520 USD/tấn CIF.

Trong khi thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ hiện vẫn ổn định tại mức 370-375 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ  thì giá các mặt hàng thép thành phẩm lại không tăng  như mong đợi và do đó, giá phôi thanh bị kẹt giữa bối cảnh thị trường không chắc chắn tại thời điểm này.

 

Các nhà xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc dự đoán thị trường sẽ đi ngang trong tháng 04

 

Một số nhà xuất khẩu Trung Quốc đã giữ giá xuất khẩu cuộn trơn không đổi từ tuần trước trong bối cảnh có ít chào giá và giao dịch hơn trên thị trường. Nhiều người tin rằng giá sẽ khó mà giảm thêm nhiều nữa nhưng khả năng giá bật tăng mạnh là rất mong manh.

Hôm thứ Tư, các chào giá cuộn trơn SAE1008 đường kính  6.5mm Trung Quốc khoảng 480-500 USD/tấn FOB, thấp hơn so với giá 485-500 USD/tấn FOB của tuần trước.

Một vài người nghe nói các giao dịch được thực hiện với giá 480 USD/tấn FOB nhưng không có thêm chi tiết gì chẳng hạn như nơi đến. Một thương nhân đã có các hợp đồng với giá 480 USD/tấn FOB, giao tới biên giới các nước mà rất nhạy cảm về giá chẳng hạn như Việt Nam.

Một nhà máy tiết lộ đã chốt một hợp đồng với giá 490 USD/tấn FOB nhưng từ chối cho biết quốc gia nhập khẩu. Ông cũng nghe nói các thương nhân khác thực hiện giao dịch ở mức giá khoảng 485 USD/tấn FOB. Một thương nhân khác thì nghĩ rằng giá có thể giao dịch thực tế bằng với tuần trước ở khoảng 485-490 USD/tấn FOB, nhưng ông vẫn đang chào bán tại 495 USD/tấn FOB.

Nhu cầu trong nước vẫn đang “đi thụt lùi”, do các thương nhân và nhà máy chậm tích trữ thêm hàng. Do tình trạng này khó mà thay đổi nên giá xuất khẩu và trong nước có thể tiếp tục dao động quanh mức thấp hiện nay trong tháng 04.

Hôm 26/3, Platts định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm xuất xứ Trung Quốc khoảng 480-490 USD/tấn, giảm 2,5 USD/tấn so với thứ Tư tuần trước.

Tại thị trường nội địa, cuộn trơn Q195 6.5mm có giá giao ngay tại Thượng Hải giảm còn khoảng 3.150-3.160 NDT/tấn (507-509 USD/tấn) gồm VAT 17%, từ mức 3.170-3.190 NDT/tấn của ngày thứ Tư tuần trước.

 

Giá phế nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức cao 396 USD/tấn

Nhà máy tích hợp lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, Erdemir đã tăng giá thu mua phế DKP trong nước lên thêm 30 TRY/tấn, đạt mức 880 TRY/tấn (396 USD/tấn) kể từ ngày 26/3 do gia sphees nhập khẩu tăng và đồng Lira suy yếu.

Tương tự,  Kardemir cũng tăng giá thu mau thêm 30 TRY/tấn, đạt mức 845 TRY/tấn (381 USD/tấn) trong ngày 22/3. Nhà  máy hợp kim lớn Asil Celik tăng giá  thu mua loại phế này lên 850 TRY/tấn (383 USD/tấn) trong khi Colakoglu tăng giá lên mức 820 TRY/tấn (370 USD/tấn).

Tuy nhiên, giá phế tàu vẫn ổn định trong  tuần này. Phế HMS từ xác tàu thuyền được chào bán tới các nhà máy phía Tây Thổ Nhĩ Kỳ (IDC, Habas, Ozkan, Ege Celik) đạt mức 370 USD/tấn.

 

Thị trường thép cuộn Tây Bắc Âu bế tắc, giá không đổi

Thị  trường thép cuộn Châu Âu đã rơi vào bế tắc trong tuần này do các nhà máy đang cố gắng giữ giá chào ổn định sau khi người mua vẫn trong xu hướng chờ đợi.

Sau khi giá chào bán HRC và CRC giảm nhẹ 10 Euro/tấn, các nhà máy thép vẫn giữ nguyên giá chào và không chấp nhận hạ giá thêm nữa.

Một nhà môi giới tại Đức cho biết các nhà máy hàng đầu đã có sẵn hàng tháng 6 không vội mở cửa nhận các đơn hàng mới do bối cảnh thị trường trì trệ. Có thể khi sức mua tháng 6 được phục hồi, các nhà máy có thể áp dụng được mục tiêu tăng giá.

Giá chào bán HRC từ các nhà máy tích  hợp hiện tại có sẵn tại mức 430-440 Euro/tấn xuất xưởng mặc dù giá sàn cũng khó mà đạt được. Trong khi  đó, cũng có giá chào bán thấp hơn từ các nhà máy nhỏ Ý tại mức 410-420 Euro/tấn xuất xưởng.

Trong khi đó, giá CRC vẫn ổn định tại mức 500-630 Euro/tấn xuất xưởng Tây Bắc Âu. Gía chào bán  từ Ý tới các khách hàng Tây Bắc Âu là 510-515 Euro/tấn.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt ổn định tại mức 435 Euro/tấn và 520 Euro/tấn xuất xưởng.

 

 

 

 

 

 

 

Thị trường phôi tấm tại Đông Nam Á im ắng do giá thép suy yếu

 

 Thị trường nhập khẩu phôi tấm tại Đông Nam Á trong tháng này im ắng, có rất ít giao dịch được ký kết. Chênh lệch giá giữa người mua và người bán tiếp tục cản trở các giao dịch được thực hiện.    

 Các đơn hàng phôi tấm để làm thép cuộn tới Đài Loan và Hàn Quốc nghe nói được thực hiện với giá 530-535 USD/tấn CFR. Các nhà cán lại ở Đài Loan muốn mua phôi tấm làm thép cuộn ở mức giá 500-510 USD/tấn CFR bởi vì giá HRC trong khu vực suy yếu.

“Các nhà máy Đài Loan không thể có lời”, một thương nhân nói. Ông cho biết giá xuất khẩu HRC có thể giao dịch hiện nay là 550 USD/tấn FOB trong khi lợi nhuận của các nhà cán lại Đài Loan khoảng 60 USD/tấn.

Nghe nói một lô hàng 40.000 tấn phôi tấm cán lại của Nga được ký kết hồi giữa tháng này gần 550 USD/tấn CFR Indonesia. Phôi tấm cán lại từ Ukraine nghe nói được ký kết với giá 555 USD/tấn CFR Indonesia hồi cuối tháng 02.

Giá phôi tấm làm thép tấm hiện nay là 520 USD/tấn CFR. Phôi tấm làm thép tấm từ Nhật Bản được nghe nói ký kết với giá 555 USD/tấn CFR Malaysia hồi đầu tháng này.

Do giá nguyên liệu quặng sắt và than cốc suy yếu và nhu cầu thép thành phẩm trì trệ nên người mua cứ đang khăng khăng đòi mức giá thấp hơn. Tuy nhiên, những căng thẳng giữa Ukraine và Russia có thể gây ảnh hưởng đến nguồn cung trên thị trường phôi tấm.

 

Các nhà máy Nam Âu tăng giá chào thép cây nội địa mặc dù giá phế ổn định

Kể từ cuối tuần qua, các nhà máy Ý đã tăng giá chào bán thép cây nội địa nhằm phục hồi lại chút lợi nhuận sau khi giá thép đã giảm sâu trong mấy tuần gần đây.

Giá chào bán thép cây Nam Âu hiện đạt mức 220 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản (470 Euro/tấn giá giao thực tế), tăng so với mức giá thấp 190 Euro/tấn giá giao cơ bản cách đây 10 ngày. Mặc dù giá chào cao, tuy nhiên giá mua chỉ đạt mức 190-200 Euro/tấn giá giao cơ bản.

Trong khi đó, giá phế Ý vẫn ổn định trong suốt tháng 3 và dự báo sẽ không có sự phục hồi mạnh mẽ nào cho tới tháng 4, mặc dù tình hình tại Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng này đã có sự khởi sắc. Các nhà máy Ý hiện tại cũng đã giảm sản lượng sản xuất cho tháng 4 dựa vào các đơn hàng thời hạn giao hàng ngắn và nhu cầu tiêu thụ nhìn chung vẫn chậm. Gía phế vụn tại Ý vẫn đạt mức 380-385 Euro/tấn giá giao thực tế.

 Tại Tây Ban Nha, tình hình cũng tương tự. Trong khi giá phế vụn  vẫn ổn định tại mức 370-375 Euro/tấn giá giao thực tế, các nhà máy nội địa đã tăng giá chào lên mức 180-190 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản hoặc 460 Euro/tấn giá giao thực tế sau khi giá đã chạm đáy 170 Euro/tấn giá giao cơ bản giữa tháng 3.