Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ và Nhật Bản tăng
Giá phế Thổ Nhĩ Kỳ phục hồi trong tuần trước đạt 275 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu, tăng 7,5 USD/tấn so với tuần trước.
Một lô phế từ Baltic được bán vào đầu tuần trước với giá trên 270 USD/tấn CFR, mức giá này nhanh chóng được thị trường chấp nhận rộng rãi. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã xoay sở để có được mức giá cao hơn trong tuần trước, với định giá từ Platts tăng lên 441 USD/tấn FOB.
Phế của Nhật bắt đầu tăng trong tuần trước. Tokyo Steel Manufacturing nâng giá cho tất cả các loại phế ở Utsunomiya, miền bắc Kanto thêm 1.000 Yên/tấn (8,4 USD/tấn) và Takamatsu Steel Center thêm 500 Yên/tấn áp dụng từ ngày 21/4. Một số nhà máy mini ở Kanto cũng tăng giá mua phế lên theo từ 500-1.000 Yên/tấn với thời gian giống vậy.
Các thương nhân Nhật Bản mua với giá 24.500 Yên/tấn (205 USD/tấn) FAS ở khu vực Tokyo Bay để mua phế H2 xuất khẩu, tăng từ 24.000-24.500 Yên/tấn FAS trong tuần trước.
Nhưng các khách hàng ở nước ngoài dường như ít muốn mua phế của Nhật và đã hạ giá mua xuống, khách hàng của Đài Loan đang đặt giá mục tiêu 230-235 USD/tấn CFR cho phế H2 trong suốt tuần này, tương đương 195-200 USD/tấn FOB, giảm 15 USD/tấn so với tuần trước.
Hyundai Steel (Hàn Quốc) đã đặt mua phế H2 của Nhật với giá 25.000 Yên/tấn FOB và 28.000 Yên/tấn FOB cho phế Shindachi , cả hai đều giảm 500 so với một tuần trước, trong suốt tuần trước.
Dongkuk Steel Mill cũng mua phế H2 với giá 25.200 Yên/tấn FOB, giảm 300 Yên/tấn. Ở thị trường Hàn Quốc, Hyundai và Dongkuk dự định sẽ giảm giá mua phế xuống 5.000 Won/tấn (4,6 USD/tấn) cho tất cả các loại phế từ ngày 27/4.
Thị trường phế nhập khẩu trầm lắng ở Đông Á. Chào giá rất hạn chế. Hôm 24/4, Platts định giá phế HMS I/II (80:20) Đông Á là 255-260 USD/tấn CFR Đông Á, không đổi so với tuần trước đó.
Giá tấm mỏng của Mỹ bình ổn do người mua đợi xu hướng
Giá tấm mỏng của Mỹ vẫn duy trì ổn định hôm thứ Sáu do khách hàng chờ có ín hiệu an toàn mới bắt đầu mua.
“Tôi không tự tin giá sẽ tăng nhưng sức mua sẽ bắt đầu xuất hiện trở lại”, một người mua nói.
Một khách hàng ở West Coast cho biết ông tin là giá trong nước có thể vẫn đi xuống do sức ép nhập khẩu và chi phí đầu vào, mặc dù tồn kho trong thời gian gần đây không cao.
Platts định giá HRC 440-450 USD/tấn ngắn và 570-590 USD/tấn ngắn cho CRC. Tất cả các giá này đều xuất xưởng ở Midwest (Indiana).
Giá thép cây của Nga giảm do thiếu động lực hỗ trợ
Giá thép cây của Nga tiếp tục giảm trong tuần trước, từ ngày 24/2 đến 24/4, giá đã giảm tổng cộng 4.000 rubles/tấn. Tuy nhiên, nhờ đồng Ruble tăng mạnh, giá bán trong nước tính bằng đôla đã tăng ít nhất 15 USD/tấn trong cùng thời gian này.
Giá từ các nhà máy đã giảm còn 24.700-24.800 rubles/tấn (488-490 USD/tấn) cho thép cây loại đường kính 12mm và 24.300-24.400 rubles/tấn (480-482 USD/tấn) cho loại đường kính 14mm, vận chuyển tới Moscow. Nếu không tính 18% VAT, thì giá này tương đương lần lượt 20.930-21.020 rubles/tấn (414-416 USD/tấn) và 20.600-20.680 rubles/tấn (407-409 USD/tấn).
Hôm thứ Sáu, Platts giảm giá thép cây đường kính 12-14mm của Nga xuống 275 rubles/tấn (5 USD/tấn) so với tuần trước. Mức giá này giảm từ 20.900-21.300 rubles/tấn (421-429 USD/tấn) với tỷ giá hối đối của ngày 17/4) xuống còn 20.650-21.000 rubles/tấn (408-415 USD/tấn) CPT Moscow.
Giá phế từ tàu cũ ở Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh
Giá mua phế tàu tính bằng đôla Mỹ từ một số nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ tăng thêm 5 USD/tấn hôm thứ Sáu, phản ánh giá phế nhập khẩu mạnh hơn, mặc dù xu hướng đồng đôla sắp tới mạnh hơn so với lira.
Phế nấu chảy từ tàu cũ bắt đầu được chào bán tới hầu hết các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ozkanlar, Habas, IDC, Ege Celik) với giá 270 USD/tấn tính đến ngày thứ Sáu, cao hơn 5 USD/tấn so với đầu tuần trước.
Tuy nhiên, giá tính bằng lira của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế DKP phần lớn vẫn duy trì ổn định trong tuần trước.
Isdemir, nhà máy thép liên hợp của tập đoàn Erdemir ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, đã duy trì giá mua cho phế DKP là 740 TRY/tấn (270 USD/tấn) kể từ ngày 17/4, nhà máy thuộc tập đoàn này ở Eregli cũng giữ giá mua ở mức này.
Giá mua phế DKP của Kardemir là 725 TRY/tấn (265 USD/tấn) kể từ ngày 21/4.
Thép hình EU không thay đổi trên thị trường trì trệ
Thị trường thép hình của Châu Âu không đổi trong tuần trước do nhu cầu vẫn còn trì trệ. Mặc dù một số nỗ lực của các nhà máy nhằm tăng giá nhưng các giao dịch không đổi khi đối mặt với sức mua hạn chế. Do đó, Platts vẫn giữ nguyên định giá ở mức 525 EUR/tấn cho thép hình của Châu Âu.
Ở Pháp, một nhà phân phối cho biết ông đã được chào bán ở mức giá mới 520-530 EUR/tấn gồm phí vận chuyển, nhưng 520 EUR/tấn vẫn có thể xuất hiện trên thị trường và ông xác nhận đã mua ở mức giá này. Các nhà máy đang cố gắng tăng giá nhưng nhu cầu và hoạt động thị trường không đủ để duy trì đà tăng này.
Một nhà phân phối ở Benelux cho biết ông vẫn đang mua ở mức giá tương tự như vậy vào đầu tháng 04, mặc dù nhà máy nỗ lực nâng giá. Giá giao dịch vẫn còn khoảng 520-525 EUR/tấn, không đổi kể từ tuần trước, với 530 EUR/tấn được nghe nói cho khối lượng rất nhỏ. “Các nhà máy không thành công với việc tăng giá, nhu cầu vẫn còn quá yếu. Tôi không nhìn thấy bất kỳ lý do gì để tăng giá”.
Phôi thanh tiếp tục tăng mạnh ở Thổ Nhĩ Kỳ cùng với phế
Giá phôi thanh trong nước và nhập khẩu ở Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh cùng với giá phế nhập khẩu cao hơn tuần trước.
Phôi thanh trong nước có giá 400-420 USD/tấn xuất xưởng tuần trước. Dự báo Kardemir sẽ mở bán phôi thanh ra thị trường trong nước một lần nữa trong những ngày tới với giá cao hơn.
Chào giá phôi thanh từ CIS cũng đạt mức 385-390 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ tuần trước, còn tùy vào cảng đến, cao hơn khoảng 5 USD/tấn so với tuần trước; chỉ một vài giao dịch được nghe nói trên thị trường có giá 382-386 USD/tấn CFR.
Tuy nhiên, người mua ở Thổ Nhĩ Kỳ phần lớn vẫn còn muốn đứng ngoài thị trường trong tuần trước do vấn đề tiền mặt trong bối cảnh đồng đôla tăng mạnh so với lira.
Giá phế HMS 1&2 80:20 nhập khẩu cũng tăng lên 275 USD/tấn CFR vào cuối tuần trước, trong khi phế từ tháo dỡ tàu bắt đầu được chào bán tới hầu hết nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, Ozkanlar, IDC và Habas) là 270 USD/tấn, cao hơn 5 USD/tấn so với tuần trước.
Trong khi đó, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá thép cây xuất khẩu và trong nước vào tuần trước, nhờ giá phôi thanh và phế nhập khẩu mạnh hơn. Xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ được chốt ở mức 441 USD/tấn , với chào giá cao 445-455USD/tấn FOB.
Định giá HRC EU
Platts tiếp tục duy trì định giá cho HRC Tây Bắc Âu ổn định ở mức 407,5 EUR/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu.
Các nguồn tin Benelux cho biết thị trường có giá cơ bản 400-410 EUR/tấn, nhưng nguồn tin Đức đưa ra thị trường mức giá 405-410 EUR/tấn và 410-415 EUR/tấn.
Chào giá Trung Quốc cho HRC là 375-380 EUR/tấn CIF Antwerp.
Giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ bị sức ép do sức mua thấp và chi phí cao
Chào giá từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho CRC trong nước và xuất khẩu vẫn bị sức ép từ nhu cầu thấp và thép nhập khẩu. Tuy nhiên, họ phải cố gắng và duy trì chào giá do chi phí phế tăng.
“Đồng đôla tăng mạnh so với lira, tiếp tục hạn chế giao dịch trên thị trường. Do sức mua vẫn còn trì trệ nên chúng tôi muốn trì hoãn việc đặt hàng của mình và giữ mức tồn kho thấp”, một giám đốc công ty trao đổi với Platts.
Do lợi nhuận của nhà máy bị thu hẹp tới mức cực độ bởi vì giá phế tăng mạnh, họ đã ngưng đưa ra bất cứ khoản chiết khấu đáng kể nào trong những ngày gần đây. Chào giá HRC của họ phổ biến ở mức 425-440 USD/tấn cho thép sản xuất tháng 06 và 07, trong khi chào giá xuất khẩu thấp hơn chỉ có 395-410 USD/tấn FOB trong bối cảnh sự cạnh tranh gia tăng từ CIS và Trung Quốc.
Thép nhập khẩu giá thấp từ CIS, được hỗ trợ bởi giá quặng sắt gần đây vẫn tiếp tục gây sức ép lên giá niêm yết trong nước. Các nhà máy Ukraina đang chào bán HRC với giá 370-380 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu, trong khi chào giá của Nga là 380-390 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, vấn đề tiền mặt cũng tiếp tục gây ảnh hưởng đến đơn hàng nhập khẩu.
Tuy giá HRC bị sức ép nhưng nhiều nguồn tin nhìn chung vẫn dự đoán giá sẽ đi ngang cho đến cuộc tổng bầu cử vào ngày 07/6, với chi phí sản xuất tăng có thể ngăn không cho giá rớt xuống thêm.
Giá phế Mỹ giảm do thép cây Đài Loan suy yếu
Giá nhập khẩu phế ở Đài Loan tuần trước giảm, phần lớn là do thị trường thép cây ảm đạm. Giá HMS I/II 80:2 hôm thứ Sáu giảm 2-5 USD/tấn so với tuần trước còn 225-228 USD/tấn CFR. Khối lượng được ký kết nhỏ do một nhà máy lớn của Đài Loan mua hạn chế và có thể đẩy giá đi xuống.
Platts định giá phế Mỹ là 205 USD/tấn FAS cảng Los Angeles hôm thứ Sáu. Mức giá trung bình thấp hơn 2,5 USD/tấn so với tuần trước.
“Nhu cầu thép cây rất ảm đạm. Giá thép cây suy yếu do nguồn cung thép cây quá lớn”. Điều này do thiếu hụt các dự án xây dựng mới trong hai năm qua.
Lý do khác khiến sức mua suy yếu là do giá điện mùa hè cao hơn trong tháng 05.
“Lý do chính khiến phế suy yếu là thị trường thép cây trì trệ. Tất nhiên, lý do khác là quặng sắt tiếp tục suy yếu và sự ảnh hưởng của việc hạn chế năng lượng trong thời gian mùa hè”.
Thị trường phế nhập khẩu lô lớn cũng trầm lắng, không có bất cứ chào giá nào được nghe nói bởi các nguồn tin giao dịch ở Đông Á. Chào giá phế hỗn hợp 80:20 và phế vụn từ Australia phổ biến ở mức 260-265 USD/tấn CFR Thái Lan. Ông cho biết mức giá thấp hơn 260 USD/tấn cho HMS 80:20, HMS 50:50 có giá cao hơn 265 USD/tấn CFR.
Một thương nhân Việt Nam cho biết rất ít chào giá lô lớn được nghe nói ở mức giá 270 USD/tấn CFR (80:20). “Giá quặng sắt và phôi thanh đang tăng. Lô lớn trước đó được nghe nói ở Việt Nam khoảng 260 USD/tấn CFR”.
Một giám đốc nhà máy Malaysia cho biết ông chỉ nghe nói một lô lớn 15.000 tấn phế 80:20 từ Australia có giá 279 USD/tấn CFR.
Hôm thứ Sáu, Platts duy trì phế HMS I/II (80:20) có giá 255-260 USD/tấn CFR Đông Á, không đổi so với tuần trước.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á thấp hơn với nhu cầu trì trệ
Platts định giá giao ngay của CRC không gỉ của Đài Loan và Hàn Quốc loại 304 2B 2mm là 2.100-2.200 USD/tấn CFR cảng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ sáu tuần trước, thấp hơn so với 2.150-2.200 USD/tấn CFR của tuần trước đó trong bối cảnh nhu cầu trì trệ và sự cạnh tranh từ thép Trung Quốc.
Chào giá và giá bán của CRC Đài Loan và Hàn Quốc phần lớn được nghe nói là 2.170-2.200 USD/tấn CFR. Nhưng giá giao dịch trong khoảng 2.100-2.200 USD/tấn CFR. Có nhiều cuộc thương lượng cho CRC Đài Loan và Hàn Quốc được chốt vào tuần trước với giá 2.100 USD/tấn CFR Trung Quốc, mức giá được cho là thấp nhưng có thể giao dịch.
Trong khi các nhà máy sẽ thấy thật khó để chấp nhận giá đặt mua 2.100 USD/tấn CFR thì một số thương nhân sẽ có thể chấp nhận mức giá này. Mức giá mà người mua muốn hiện nay khoảng 2.050 USD/tấn CFR, bằng với giá của thép Trung Quốc- nhưng mức này vẫn chưa thể giao dịch đối với thép nhập khẩu
Một nhà nhập khẩu ở Seoul cũng cho biết 2.100 USD/tấn CFR là có thể giao dịch cho CRC Đài Loan và Hàn Quốc do sự cạnh tranh từ thép Trung Quốc có giá thấp. Giá có thể giao dịch cho CRC loại cao cấp 304 2mm 2B của Trung Quốc là 2.070-2.100 USD/tấn FOB Trung Quốc, chào giá từ một nhà máy lớn của Trung Quốc nghe nói là 2.125 USD/tấn CFR Đông Nam Á tuần trước. Mức giá này so với chào giá 2.100-2.170 USD/tấn CFR Trung Quốc của tuần bắt đầu ngày 06/4.
Tuy thép Trung Quốc có giá cạnh tranh nhưng sức mua chậm chạp vì người mua thậm chí còn tìm mức giá thấp hơn hay không hào hứng thu mua do giá niken biến động. Một thương nhân ở Quảng Châu cho biết khách hàng của ông đang tìm mua với giá 2.050-2.060 USD/tấn FOB Trung Quốc nhưng mức giá như vậy không thể giao dịch. “Chi phí của chúng tôi là 2.100 USD/tấn FOB nên không thể bán dưới mức này được”.
Sản lượng ống hàn của Trung Quốc đạt mốc cao kỷ lục trong tháng 03
Sự cải thiện trong nhu cầu thép, nhất là thép xây dựng trong đó có ống hàn cacbon đạt chuẩn, có vẻ như đã khuyến khích các nhà sản xuất ống hàn tăng cường sản xuất trong tháng trước.
Số liệu được công bố bởi Cục Thống kê quốc gia (NBS) cho thấy sản lượng ống hàn cả nước cao kỷ lục đạt 5,59 triệu tấn trong tháng 03, tăng 32% so với năm ngoái.
Sản lượng trung bình theo ngày đạt 180.226 tấn trong tháng 03, tăng đột biến 35% so với tháng 02. Sự sụt giảm trong sản lượng tháng 02 dưới mức 5 triệu tấn trong quý 4 năm ngoái là hệ quả từ đợt nghỉ Tết Nguyên đán.
Trong quý 1 năm nay, tổng sản lượng ống hàn của Trung Quốc tăng 17% so với năm ngoái lên 13,59 triệu tấn. Sự gia tăng này là nhờ dây chuyền mới đi vào hoạt động.
Các nhà máy thép ống ở thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc hiện đang chào giá xuất xưởng ống hàn cacbon khoảng 2.460 NDT/tấn (397 USD/tấn) gồm VAT, giảm 140 NDT/tấn (23 USD/tấn) so với một tháng trước, sau khi tăng mạnh 220 NDT/tấn (36 USD/tấn) trong tháng 03 cùng với thị trường thép rộng hơn.
Giá thép cây miền bắc Trung Quốc bật tăng hôm thứ Sáu
Giá thép cây miền bắc Trung Quốc tăng hôm thứ Sáu sau khi giảm gần cả tuần. Sự phục hồi đã khích lệ một số hoạt động thị trường và khuyến khích nhiều người hơn dự báo một sự gia tăng trong tháng 05 do suy đoán nhu cầu mạnh hơn.
Tại thị trường Bắc Kinh hôm thứ Sáu, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ Hebei Iron and Steel (Hegang) có giá 2.300-2.310 NDT/tấn (371-373 USD/tấn) trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT, tăng 30-40 NDT/tấn (5-6 USD/tấn) so với thứ Năm tuần trước. Mức giá này cao hơn khoảng 30 NDT/tấn so với một tuần trước đó.
Các đại lý mà Platts liên hệ cho biết nguyên nhân khiến giá thứ sáu tăng là do giá giao sau phục hồi cùng với phôi thanh ở thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc. Phôi thanh tăng 40 NDT/tấn so với ngày trước đó, sau khi quặng sắt lên cao hơn. Nhiều người suy đoán Hegang có thể sẽ nâng giá hợp đồng tháng 04.
Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn Shanghai Futures Exchange được chốt với giá 2.378 NDT/tấn hôm thứ Sáu, tăng 55 NDT/tấn tức 2,37% so với ngày giao dịch trước đó. Hợp đồng thép cây giao sau cũng tăng 2,9% tương đương 67 NDT/tấn so với tuần trước đó.
Việc thu mua phôi thanh Đông Á tạm ngừng do giá Trung Quốc tăng
Chào giá phôi thanh Trung Quốc tăng đang làm chậm lại việc thu mua nhập khẩu ở Đông Á, do người mua trì hoãn đặt hàng vì kỳ vọng giá sẽ giảm sâu thêm.
Sự leo thang gần đây trong giá quặng sắt đã khiến giá phôi thanh từ Trung Quốc cao hơn. Chào giá nguyên liệu của Trung Quốc là 375 USD/tấn CFR, trong khi giá mua chỉ có 360 USD/tấn CFR.
Một vài nhà cung cấp Trung Quốc đang tăng chào giá cho phôi thanh chứa cr 130mm là 375-380 USD/tấn CFR Manila, mặc dù cũng có chào giá ở mức 370-375 USD/tấn CFR. Các giao dịch trước đó được thực hiện ở mức giá 360-365 USD/tấn CFR trong nửa đầu tháng 04.
Một vài thương nhân ở Manila nghe nói một nhà cán lại đặt mua thử nghiệm một lô phôi vuông Q275 150mm 10.000 tấn giao tháng 06 với giá 350 USD/tấn CFR Davao. Tuy nhiên, số khác cho biết giá này là quá thấp.
Ở Đài Loan, chào giá Trung Quốc đã tăng lên 370-375 USD/tấn CFR.
Sự xuất hiện gần đây của phôi thanh chứa titan của Trung Quốc được chào giá 370 USD/tấn CFR vẫn chưa thuyết phục được người mua ở Đài Loan. Phôi thanh Đài Loan có giá tương đương 370 USD/tấn CFR cạnh tranh hơn.
Hôm thứ Sáu, Platts hạ giá niêm yết cho phôi thanh Đông Á nhập khẩu còn 370-380 USD/tấn CFR, từ mức 365-380 USD/tấn CFR của tuần trước, tăng từ mức 372,5 USD/tấn CFR trước đó.
HDG Ấn Độ xuất khẩu tới Mỹ giảm do chào giá trong nước thấp hơn
Các nhà xuất khẩu Ấn Độ HDG tiếp tục bị thách thức bởi sức mua trì trệ và giá trong nước cạnh tranh.
Chào giá Ấn Độ của thép cuộn loại dày 0.3mm, phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông, nghe nói khoảng 700-725 USD/tấn CFR Mỹ tuần trước, không đổi so với đầu tháng này.
Khi phí vận chuyển bằng đường bộ đến Mỹ là 20 USD/tấn, giá bán lên tới 730 USD/tấn khiến thép của Ấn Độ trở nên ít cạnh tranh hơn so với HDG ở Mỹ. “Đây là thời gian rất khó khăn đối với việc xuất khẩu HDG, và tình hình sẽ ngày càng xấu hơn”. Đại diện một nhà máy ở New Delhi cho biết đó là lý do khiến khối lượng xuất khẩu của ông trong năm tài khóa 2014 giảm còn 20.000 tấn từ 30.000 -35.000 tấn của năm trước đó.
Xuất khẩu tới Mỹ bị ảnh hưởng trong suốt hai tháng qua do khách hàng lưỡng lự ký kết hợp đồng khi giá đang giảm.
Xuất khẩu HDG và tấm mỏng của Ấn Độ tới Mỹ giảm 8% so với năm ngoái còn 323.260 tấn từ tháng 4/2014 đến tháng 3/2015.
Tương tự, nhu cầu từ Châu Âu vẫn còn trì trệ. Người mua đang giảm bớt hàng dự trữ và chỉ mua đủ khối lượng họ có thể bán ngay. Ngoài ra, đồng rupee tăng giá, trong khi Euro bị mất giá mạnh trong năm ngoái cũng là một nguyên nhân khác dẫn đến xuất khẩu sụt giảm.
Các nhà sản xuất thép Ấn Độ đang xem xét việc giảm bớt xuất khẩu, thay vào đó sẽ tập trung vào thị trường nội địa.
HRC Thượng Hải tăng ngày thứ ba, giá xuất khẩu cũng nhích lên cao hơn
Giá giao ngay của HRC ở Thượng Hải tăng ngày thứ ba liên tiếp hôm thứ Sáu, do giá quặng sắt duy trì phục hồi. Giá cũng tăng cao hơn trong bối cảnh sức mua ở nước ngoài cao hơn trong tháng 05.
Platts định giá HRC Q235 dày 5.5mm ở Thượng Hải ở mức 2.400-2.430 NDT/tấn (387-392 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Sáu, tăng 30 NDT/tấn so với ngày trước đó. Đây là mức cao nhất kể từ ngày 02/4.
Giá trong nước tăng do giá nguyên liệu và cả các nhà máy và thương nhân do dự bán với giá thấp.
HRC Q235 5.5mm được sản xuất từ Yanshan Iron & Steel và Rizhao Iron & Steel có giá lần lượt 2.400 NDT/tấn và 2.410 NDT/tấn xuất xưởng. Còn loại thép này từ Anshan Iron & Steel và Shagang được giao dịch với giá 2.430 NDT/tấn.
Nhờ giá trong nước cao hơn nên kéo giá xuất khẩu nhích lên theo. Một số nhà máy đã nhận đủ đơn đặt hàng. Hầu hết các giao dịch là thép cuộn vận chuyển vào tháng 06. HRC SS400 dày từ 3mm trở lên được định giá hôm thứ Năm là 357-365 USD/tấn FOB Trung Quốc.