Niềm tin vào phôi thanh CIS cực kỳ tiêu cực tại Irepas
Những người tham dự cuộc họp Irepas tại Vienna đã vô cùng bi quan về giá xuất khẩu phôi thanh Biển Đen, do chào giá cao hơn đã bắt đầu bị cắt giảm một phần bởi những mức giá cạnh tranh hơn hôm thứ Hai.
Một nhà sản xuất tích hợp Ukraine được cho là đã bán một số lượng lớn đến Ai Cập tại mức 335usd/tấn CFR, tương đương 315usd/tấn FOB, hoặc ít hơn một chút, cho hàng giao tháng Mười, theo một vài thương nhân. Cũng nhà máy này cđược cho là đang báo giá 330usd/tấn FOB đối với thép cây và 350usd/tấn FOB đối với cuộn trơn, được xem là rất thấp bởi một số nguồn tin.
Một nguồn tin nhà máy CIS cho biết không có chào giá phôi thanh dưới 320usd/tấn FOB Biển Đen một cách chính thức, nhưng vật liệu thực tế có thể được bán với giá 315usd/tấn FOB với một chào mua chắc chắn. Áp lực chính về giá là đến từ người mua lớn nhất của phôi thanh CIS, Thổ Nhĩ Kỳ. Khi giá phế HMS ở mức 210usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ và thấp hơn, kỳ vọng cho giá nhập khẩu phôi thanh giảm tối đa còn 310usd/tấn FOB Biển Đen. Và đối vơi những nhà cán lại, xu hướng giảm hơn trong giá xuất khẩu thép cây đang làm cho các báo giá phôi thanh hiện nay ít được chấp nhận hơn.
Không có sự đồng tình giữa các thành phần thị trường cho triển vọng giá trong quý tư, chủ yếu là do sự bất trắc của biến động giá của Trung Quốc. Một số thương nhân sợ phôi thanh Trung Quốc đang lao dốc về phía 300usd/tấn FOB Trung Quốc, bất chấp phôi thanh Trung Quốc đang phục hồi lại mức 325-330usd/tấn FOB trong mấy ngày vừa qua.
Tuy nhiên, giá than luyện cốc leo thang và một khoảng công suất tạm ngừng ở Trung Quốc dẫn một số nguồn tin thị trường tin rằng giá phôi thanh Trung Quốc sẽ duy trì ổn định, một thương nhân tin tưởng.
Platts định giá phôi thanh hàng ngày ở mức 315usd/tấn FOB Biển Đen thứ Hai, giảm 2,5usd/tấn từ mức thứ Sáu.
Người mua tấm mỏng Mỹ tập trung tìm kiếm mức sàn của giá trong nước
Người mua ở thị trường tấm mỏng Mỹ đang tìm kiếm mức đáy của giá trong nước trước khi họ bắt đầu mua vào và một số nguồn thị trường cho biết hôm thứ Hai rằng không thấy có lý do cho giá giảm nhiều hơn nữa.
Thị trường tấm mỏng suy yếu, và “ngày càng trở nên khó khăn hơn để duy trì [HRC] ở mức 520usd/tấn ngắn,” một nguồn tin nhà máy cho biết.
Mills đang kéo dài đóng cửa sản xuất để duy trì thời gian giao hàng và họ đang nỗ lực để giữ giá không xuống quá nhanh, ông cho biết.
Người mua đang bỏ qua chào giá nhập khẩu do giá trong nước đã giảm xuống. Thành công chung của các vụ kiện tấm mỏng trong việc ngăn chặn hàng nhập khẩu và các cáo buộc gian lận nhập khẩu thép cuộn cán nguội và thép tấm mỏng mạ kẽm từ Việt Nam đã giới hạn số lượng các nhà cung cấp nước ngoài vào thị trường Mỹ.
Một nguồn tin trung tâm dịch vụ cho biết ông hy vọng thị trường sẽ sớm ở đáy. Các cuộc điều tra gian lận “có thể gây sợ hãi một số người,” ông nói.
Hai thương nhân hôm thứ Hai cho biết rằng họ không cập nhật chào giá liên tục, nhưng một người nói rằng các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cố gắng tăng giá tấm mỏng.
Nguồn trung tâm dịch vụ này nghe được từ một nhà máy rằng phía nhà sản xuất này muốn giữ giá HRC tại 520usd/tấn ngắn, nhưng ông đã không đưa ra một đơn hàng đáng kể để kiểm tra.
Một nhà phân phối khác cho rằng giá có thể đã bị điều chỉnh quá mức vì ban đầu giá đã tăng lên quá nhanh. “Các trung tâm dịch vụ không muốn trả lại hầu hết những lợi ích mà họ đã nhận được trong năm nay,” ông nói.
Một nguồn tin bên mua cho biết đã nhìn thấy hầu hết giá giao ngay HRC trong phạm vi 520-540usd/tấn ngắn, và ông vẫn chưa nhìn thấy giá thấp nhất 500usd/tấn ngắn.
Dựa trên phản hồi của thị trường hôm thứ Hai, Platts duy trì định giá HRC và CRC hàng ngày ổn định ở mức 520-560usd/tấn ngắn và 750-780usd/tấn ngắn, tương ứng. Cả hai định giá được chuẩn hóa theo cơ sở giá xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá HRC EU
Platts tăng trung điểm của định giá HRC châu Âu thêm 5euro/tấn thứ Hai, theo đó phạm vi giá HRC là 440-450euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Với chào giá lên đến 480euro/tấn, ArcelorMittal có giá đắt nhất trong thị trường nhưng cũng một trong vài nhà máy với còn nguồn cung cho quý tư. Những nhà sản xuất khác đã có đủ đơn hàng kéo dài cho đến khi hàng đến vào tháng Một.
Một nguồn tin nhà máy cho biết công ty của ông đã không còn bán dưới 450euro/tấn, mặc dù các nguồn bên mua đã đưa thị trường ở mức 440euro/tấn.
Một người mua khối lượng lớn ở Đức đưa thị trường trong phạm vi 430-435euro/tấn nhưng đối với khối lượng lớn hơn so với mức dùng điể tính toán giá của Platts. Thông thường người mua này có mức giá thấp hơn mức thị trường 10usd/tấn, trong khi những người mua khác cho biết giá 440euro/tấn ở trên thị trường.
Người mua kháng cự tăng giá HDG, chiết khấu phổ biến trong thị trường Thổ Nhĩ Kỳ
Do người mua ở thị trường trong nước đã chống lại mức tăng đáng kể của những nhà sản xuất cuộn mạ của Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần trước, một số nhà máy đã bắt đầu cung cấp chiết khấu, trong khi một số nhà máy khác giảm giá niêm yết 10usd/tấn đối với một số phẩm cuộn mạ kẽm nhúng nóng.
Một nhà sản xuất cuộn mạ lớn, đã tăng giá niêm yết 30usd/tấn trong tuần trước, đã hạ giá hôm thứ Hai. “Chúng tôi giảm giá niêm yết 10-15usd/tấn đối với một số loại HDG. Nhu cầu tiêu thụ là rất chậm trong thị trường nội địa, trong khi nhu cầu xuất khẩu cũng bắt đầu chậm lại trong những tuần gần đây, thậm chí từ Mỹ,” một quan chức bộ phận kinh doanh của nhà sản xuất nói.
Với mức giảm giá và chiết khẩu của nhà sản xuất, chào giá cho thị trường trong nước của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho HDG dày 0.5mm cuộn giảm còn 615-635usd/tấn xuất xưởng trong tuần này, trong khi chào giá trong nước cho PPGI 9002 dày 0.5mm 9002 giảm xuống còn 710-730usd/tấn xuất xưởng.
“Một số nhà tích trữ hiện đang bán HDG thấp hơn chào giá của các nhà máy do vấn đề dòng tiền, mặc dù chi phí thay thế của họ sẽ có thể cao hơn,” một giám đốc điều hành trung tâm dịch vụ cho biết.
“Biến động tỷ giá hối đoái tăng trở lại gần đây. Người mua muốn giữ tiền mặt trong tình cảnh này và điều này đang nâng cao vấn đề về dòng tiền mặt cũng như hạn chế thương mại trên thị trường,” ông lưu ý.
Chào giá HRC của các sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cũng dịu nhẹ vào cuối tuần trước, do nhu cầu tiêu thụ thấp và giá phế suy yếu hơ. Chào giá HRC của nhà máy nói chung trong khoảng 430-450usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Hai.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 370-375usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ thứ Hai, với trung điểm là 372,50usd/tấn FOB giảm 2,50usd/tấn trong ngày.
Các nguồn cho biết giá bán gần đây tới Mỹ là 385usd/tấn CIF Houston trọng lượng lý thuyết, tương đương 370-372usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế, tùy thuộc vào thông số kỹ thuật. Chào giá tích cực hơn đã được nghe nói đến cho thị trường UAE, với giá trị thấp nhất là 355-360usd/tấn CFR Dubai cho số lượng lớn và trên cơ sở trọng lượng lý thuyết. Mức giá 375usd/tấn FOB được cho là đại diện củamức giá cao nhất có thể đạt được cho xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vào những thị trường nhất định.
Xuất khẩu HRC của Trung Quốc giảm nhưng CRC lại tăng trong tháng 8
Theo thống kê từ Hải quan Trung Quốc, trong tháng 8 cả nước đã xuất khẩu 1,32 triệu tấn thép cuộn và tấm mỏng cán nóng, giảm 16% so với tháng 7 sau khi tăng 21% vào tháng trước đó. Khối lượng xuất khẩu thép cuộn và tấm mỏng cán nóng cũng giảm 2% so với năm ngoái nhưng vẫn ở mức cao thứ 3 tính cho tới nay.
Cũng trong tháng 8, khối lượng xuất khẩu thép cuộn và tấm mỏng cán nguội của Trung Quốc đạt 471.113 tấn, tăng 13% so với tháng 7, nhưng vẫn giảm 22% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu thép cuộn và tấm mỏng cán nóng đạt 10,35 triệu tấn, tăng 6% so với năm ngoái, trong khi thép cuộn và tấm mỏng cán nguội giảm 34% xuống còn 2,73 triệu tấn.
Các nhà xuất khẩu đều cho biết xuất khẩu thép cuộn và tấm mỏng cán nguội tăng hồi tháng 8 không làm thay đổi sự thật là thị trường xuất khẩu CRC vẫn còn trì trệ bởi vì nhu cầu ở nước ngoài suy yếu và mâu thuẫn thương mại quốc tế đối với CRC xuất xứ Trung Quốc. Họ lập luận rằng xuất khẩu thép cuộn và tấm mỏng cán nguội năm 2016 có thể giảm đáng kể so với 2015.
So với xuất khẩu HRC, khối lượng xuất khẩu thép cuộn và tấm mỏng cán nguội đã rất ít, vì vậy ngay cả khi tăng 13% so với tháng trước thì cũng không có nghĩa là cải thiện nhiều về khối lượng”, một nhà xuất khẩu ở miền đông cho hay. Ông nói thêm rằng thực ra, đơn hàng xuất khẩu của cả HRC và CRC đều ít đi trong vài tháng qua và vẫn không có dấu hiệu cải thiện vào tháng 9.
Một nhà máy lớn ở miền đông cũng thừa nhận rằng đơn hàng xuất khẩu HRC nhận được hồi tháng 9 đã giảm hơn nữa so với tháng 8, trong khi doanh số ở thị trường trong nước thì lại tăng.
Xuất khẩu thép ống Thổ Nhĩ Kỳ giảm mạnh do nhu cầu tiêu thụ suy thoái
Xuất khẩu thép ống hàn trong tháng Bảy của Thổ Nhĩ Kỳ giảm 32,7% so với cùng kỳ năm trước còn 97.174 tấn, trong khi kim ngạch giảm mạnh hơn, khoảng 36,1%, còn 63,5 triệu USD, theo dữ liệu mới nhất của HIệp hội Các nhà Sản xuất ống thép Thổ Nhĩ Kỳ (CEBID) hôm thứ Hai.
Iraq đã trở thành thị trường xuất khẩu thép ống hàn chính của Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng Bảy với 16.500 tấn, mặc dù giảm 18,6% ngoái khối lượng xuất khẩu sang nước này so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi nhu cầu tiêu thụ từ các thị trường xuất khẩu lớn khác của Thổ Nhĩ Kỳ - Mỹ - giảm mạnh hơn. Mỹ mua 9.406 tấn ống thép từ Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng đó, giảm đáng kể 55% so với cùng kỳ năm trước.
Romania đã trở thành người mua thép ống lớn thứ hai của Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng Bảy, mua 14.501 tấn, cũng giảm 4,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Ống xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đến Mexico, tuy nhiên, tăng mạnh lên tới 12.559 tấn, trong khi xuất khẩu sang Georgia cũng tăng 41,2% lên mức 6.714 tấn trong tháng đó.
Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã xuất khẩu 3.748 tấn thép ống đến Ai Cập trong tháng Bảy, giảm đáng kể 76% so với cùng kỳ năm trước, trong khi xuất khẩu sang Georgia đã giảm 38,4% xuống còn 3.464 tấn.Thép ống xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đến Ba Lan, tuy nhiên, tăng vọt lên 452% so với cùngkỳ năm ngoái lên mức 2.752 tấn trong tháng Bảy, trong khi xuất khẩu sang Tây Ban Nha đạt 2.470 tấn.
Xuất khẩu thép ống hàn Thổ Nhĩ Kỳ đến những thị trường xuất khẩu lớn khác, Anh, cũng giảm đáng kể 89% so với cùng kỳ năm trước trong tháng Bảycòn 2.327 tấn, trong khi xuất khẩu sang Italy giảm 49% xuống còn 2.150 tấn. Thị trường xuất khẩu thép ống khác của Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng Bảy là Algeria (1.915 tấn), Syria (1.818 tấn) và Israel (1.440 tấn).
Do đó, xuất khẩu ống hàn Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm 8,3% còn 980.278 tấn trong 7 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi kim ngạch xuất khẩu cũng giảm mạnh 23% còn 600 triệu USD, số liệu cho thấy.
Chuẩn ferrochrome châu Âu Q4 đạt mức cao 2 năm
Giá chuẩn ferrochrome châu Âu chốt ở mức 110cents/lb cho quý tư năm 2016, tăng 12,2% từ mức 98 cents/lb trong quý ba, nhà sản xuất Merafe Resources của Nam Phi cho biết hôm thứ Hai.
Giá chuẩn cho Q4 năm nay có mức ao nhất kể từ Q4 2014, thời điểm giá chốt ở mức 115 cents/lb. Đang duy trì ổn định ở mức trên 1usd/lb trong suốt năm 2015, thì giá chuẩn theo quý đã giảm mạnh trong quý đầu năm nay, ở mức thấp nhất là 82 cents/lb trong Q2.
Merafe có 20,5% cổ phần trong liên doanh Glencore-Merafe Chrome Venture ở Nam Phi – nhà sản xuất ferrochrome lớn nhất thế giới – với phần còn lại thuộc sở hữu của Glencore.
Sản lượng ferrochrome của Merafe trong cổ phần của công ty liên doanh Glencore-Merafe Chrome Venture là 196.000 tấn trong 6 tháng đầu năm.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS ngày ở mức 315usd/tấn FOB Biển Đen thứ Hai, giảm 2,50usd/tấn trong ngày.
Chào giá cho hàng giao tháng 10 và tháng 11 tối thiểu ở mức 320usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov, một nguồn tin nhà máy cho biết. Các thương nhân cho hay một giao dịch gần đây được chốt bởi một nhà sản xuất Ukraine trực tiếp đến một người dùng cuối ở mức 335usd/tấn CFR Ai Cập, tương đương 315usd/tấn FOB Biển Đen. Một nhà sản xuất thép cũng cho rằng mức giá thực tế thì gần mức 315usd/tấn FOB hơn là 320usd/tấn FOB.
Nhập khẩu thép của Mỹ giảm 8,5% trong tháng Tám
Theo số liệu sơ bộ của Bộ Thương mại Mỹ hôm thứ Hai cho thấy nhập khẩu thép vào Mỹ đã giảm 8,5% trong tháng Tám như cuộn cán nóng và thép cây nhập khẩu mỗi loại giảm hơn 20%,.
Mỹ nhập khẩu 2,71 triệu tấn thép trong tháng Tám, theo tính toán sơ bộ, giảm so với số liệu cuối cùng của tháng Bảy là 2.96 triệu tấn.
Nhập khẩu thép carbon và thép hợp kim bán phẩm đã giảm 9% so với tháng trước còn 608.356 tấn, với Brazil tiếp tục là nhà cung cấp lớn nhấở mức 259.809 tấn.
HRC nhập khẩu giảm 25% còn 224.135 tấn trong tháng Tám, với hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc chiếm 63.881 tấn, giảm từ mức 119.338 tấn trong tháng Bảy.
Nhập khẩu thép cuộn cán nguội đã tăng 3% so với tháng trước lên mức 188.084 tấn trong tháng Tám, trong khinhập khẩu thép tấm nhúng nóng thép tấm mạ kẽm và thép dải hẹp giảm 2% còn 231.295 tấn.
Thép cây nhập khẩu của Mỹ giảm 23% còn 202.628 tấn trong tháng Tám, với hàng nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ giảm từ mức 200.708 tấn trong tháng Bảy còn 106.182 tấn.
Nhập khẩu thép tấm rời giảm 15% còn 96.160 tấn trong tháng Tám, trong khi cuộn trơn nhập khẩu tăng 25% lên mức 141.552 tấn. Canada chiếm 33.303 tấn, trong khi cuộn trơn nhập khẩu từ Ukraine là 17.925 tấn.
Nhập khẩu ống thép dầu khí (OCTG) giảm 15% còn 75.022 tấn trong tháng Tám; nhập khẩu ống thép tiêu chuẩn tăng vọt 33% lên mức 60.210 tấn.
Nhập khẩu thép không gì tăng 1% lên mức 77.323 tấn trong tháng Tám.
Viện Sắt thép Mỹ (AISI) ước tính nhập khẩu chiếm 25% thị trường thép thành phẩm của Mỹ trong tháng Tám và 25% trong năm nay.
Nhập khẩu thép của Nhật tăng trong tháng 8
Theo số liệu sơ bộ từ Bộ Tài chính, nhập khẩu thép của Nhật trong tháng 8 tăng gần 7% so với năm ngoái lên 683.066 tấn.
Một thương nhân ở Tokyo cho biết nhập khẩu đã tăng lần đầu tiên kể từ tháng 3.
Nhu cầu thép trong nước đã suy yếu, tồn kho còn nhiều và khách hàng đã và đang tỏ ra ít quan tâm đến chuyện thu mua. “Nhưng đồng Yên mạnh lên và có lẽ đã khiến cho các nhà cung cấp ở nước ngoài trở nên xông xáo hơn để xuất khẩu tới Nhật Bản”.
Hàng cập cảng tháng 8 chủ yếu đã được đặt mua hồi tháng 6, và trong khi đồng Yên đạt mức trung bình 109,13 Yên đổi 1 USD hồi tháng 5, thì tháng 6 đã tăng thêm 3,1% lên 105,73 Yên đổi 1 USD.
Một người khác cho biết tổng khối lượng nhập khẩu trong tháng 8 gia tăng nhưng kim ngạch nhập khẩu tính bằng Yên lại giảm bởi vì giá sản phẩm từ năm ngoái và tỷ giá hối đoái thấp hơn. Kim ngạch nhập khẩu thép tháng 8 của Nhật đạt tổng cộng 56,56 ngành tỷ Yên (559,99 triệu USD), giảm 17% so với năm trước. Giá trung bình của mỗi tấn thép nhập khẩu tới Nhật hồi tháng 8 là 82.801 Yên/tấn, giảm 22,2% so với năm ngoái.
Ông này cũng khuyến cáo đồng Yên đã mạnh lên hơn và hiện đang dao động khoảng 101 Yên đổi 1 USD, và khả năng nhập khẩu tăng hơn nữa là rất lớn. “Tồn kho thép của Nhật cuối cùng đã gần mức đủ sau khi các nhà máy có nguồn cung điều chỉnh thấp hơn. Nhưng tôi sợ là thép nhập khẩu sẽ lại làm mất cân bằng cung cầu một lần nữa”.
Trong khi đó, xuất khẩu thép của Nhật trong tháng 8 tăng 2,3% lên 3,48 triệu tấn.
Số liệu thương mại cụ thể về sản phẩm sẽ được công bố vào ngày 29/9 bởi Liên đoàn sắt thép Nhật Bản.
NSSMC sẽ nâng giá ống thép trong nước cho tháng 10
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) đã quyết định sẽ nâng giá bán trong nước cho ống thép cacbon (cả ống hàn và ống đúc) từ tháng 10 để bù đắp chi phí nguyên liệu cao hơn.
NSSMC chưa quyết định biên độ tăng giá nhưng quay lại hồi tháng 7 nhà máy đã tăng 5-7% cho ống hàn và đúc cacbon, và đại diện nhà máy cho biết mức tăng giá lần này cũng sẽ tương tự.
Vào đợt đó giá tăng chỉ áp dụng cho các khách hàng lâu năm chứ không phải để giao ngay. Nhưng lần này nhà máy áp dụng cho cả hai.
Bà giải thích có khoảng cách giá giữa các khách hàng có hợp đồng dài hạn với khách mua giao ngay, vì vậy đợt tăng trước kéo giá cả hai giá về ngang hàng . “Chúng tôi vẫn đang thương lượng với một số khách hàng lâu năm để chấp nhận mức tăng trước đó nhưng chúng tôi phải đảm bảo mức tăng thêm càng sớm càng tốt”.
NSSMC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết cho thép ống nhưng giá thị trường hiện nay của ống thép STK400 (48.6x2.3mm) ở Tokyo vào khoảng 100.000-102.000 Yên/tấn (990-1.099 USD/tấn), giảm 3.000-5.000 Yên/tấn so với tháng 6 và 6.000-8.000 Yên/tấn so với đầu năm nay.
Một thương nhân ở Tokyo lưu ý là các nhà máy liên hợp vẫn đang tiêu thụ than đá mà họ đã mua trước khi giá tăng vì vậy việc than phiền về những lần tăng gần đây của chi phí để biện minh cho việc nâng giá hiện nay đang có một chút cơ hội.
Nhưng các nhà máy sẽ phải bắt đầu tiêu thụ than đá với giá cao hơn từ cuối năm nay và sẽ cần vượt qua gánh nặng gia tăng một cách nhanh chóng. “Nhu cầu ống thép trong nước đã không cải thiện nhiều nhưng các nhà sản xuất sẽ có một lập luận mạnh mẽ do chi phí đầu vào tăng dữ dội vì vậy các khách hàng sẽ phải chấp nhận mức giá cao hơn để có được nguyên liệu”.
NSSMC đã xác nhận là muốn nâng giá thép tấm dày bởi vì giá than đá cao hơn.
Việc giảm giá thép cây và giá mua phế của Feng Hsin phản ánh thị trường suy yếu
Thị trường thép cây Đài Loan tiếp tục bị kéo xuống bởi nhu cầu thép dài suy yếu, do sự trì trệ của lĩnh vực xây dựng trong nước.
Feng Hsin Steel đã hạ giá niêm yết cho các sản phẩm thép cây và giá mua phế trong nước xuống 300 Đài tệ/tấn (9,5 USD/tấn). Trong tuần này, giá niêm yết cho thép cây của Feng Hsin là 12.400 Đài tệ/tấn xuất xưởng. Giá mua phế HMS 1&2 80:20 của Feng Hsin là 5.400 Đài tệ/tấn.
Giá giảm cho thấy thị trường bất động sản và xây dựng suy yếu. “Các dự án nhà ở đang chậm lại”, một thương nhân Đài Bắc cho biết. Giá nhà ở đã và đang giảm liên tục ở Đài Loan và thị trường bất động sản thì rất ảm đạm.
Ông và những người khác lưu ý rằng có ít dự án xây dựng và cơ sở hạ tầng chính phủ mới. Một thương nhân cho rằng điều này là do chính phủ mới được bầu chỉ vừa nhậm chức hồi tháng 5 năm nay. Nhu cầu thép dài xây dựng không nhiều. “Không có dấu hiệu tích cực nào trong ngắn hạn”.
Tính tới ngày 23/9, theo chỉ số giá S&P Global TSI mới đây, phế HMS 1&2 (80:20) có giá 196 USD/tấn CFR cảng Đài Loan, giảm 9 USD/tấn so với tuần trước đó.
Hồi tháng 5/2016, Hiệp hội các ngành công nghiệp sắt thép Đài Loan (TSIIA) dự báo tiêu thụ thép cây sẽ tăng 3,4% lên 5,85 triệu tấn cho năm tài khóa 2016. Cơ quan này lưu ý vào thời gian đó việc xây dựng bất động sản cũng như các dự án xây dựng mới đã chậm lại trong suốt thời gian diễn ra cuộc tổng bầu cử.
Giá thép cây giao ngay vẫn duy trì ổn định ở Châu Á
Hôm thứ Hai, giá thép cây giao ngay ở Châu Á vẫn duy trì ổn định trong ngày kinh doanh thứ 2 liên tiếp vì hầu hết các nhà máy Trung Quốc vẫn giữ chào giá không đổi, và tin giá trong nước sẽ không suy yếu trước Lễ Quốc khánh (1-7/10).
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 328-332 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với ngày trước đó.
Tại Hong Kong, một giao dịch được nghe nói chốt với giá 340 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cuối tuần trước, tương đương 331 USD/tấn FOB phí vận chuyển 9 USD/tấn. Nhưng không có thêm chi tiết nào được tiết lộ. Người mua đang muốn hỏi mua với mức giá 335 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (326 USD/tấn FOB) trong tuần này, nhưng các nhà xuất khẩu Trung Quốc do dự để hạ chào giá vì chi phí nguyên liệu đang tăng.
Một nhà máy ở miền đông vẫn duy trì chào giá ở mức 345 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế (336 USD/tấn FOB) và có thể chốt đơn hàng với giá khoảng 340 USD/tấn CFR.
Một nhà cán lại ở khu vực này đã nâng chào giá lên ít nhất 348 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (339 USD/tấn FOB) do giá phôi thép trong nước tăng 60 NDT/tấn (9 USD/tấn) trong suốt cuối tuần qua. Nhà máy này có thể chấp nhận đơn hàng với giá khoảng 340 CFR trong tuần trước.
Một nhà máy ở miền bắc cho biết thật vô nghĩa để đưa ra bất kỳ chào giá nào vào lúc này vì chào giá hiện nay sẽ khiến cho các nhà máy bị lỗ.
Chào giá thép cây vẫn còn khoảng 340-345 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết, tương đương 337-342 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 13 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Một thương nhân ở Singapore đã chứng thực điều này, và nói là ông tin giá sẽ ít thay đổi trước khi nghỉ lễ.
HRC Châu Á ổn định trong ngày thứ ba liên tiếp
Hôm thứ Hai, giá HRC giao ngay tại Châu Á ổn định trong ngày thứ 3 liên tiếp vì người mua tiép tục phản đối chào giá Trung Quốc cao hơn. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 367-373 USD/tấn FOB, không đổi so với tuần trước đó.
Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.750 NDT/tấn (412 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, tăng 15 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Benxi Iron & Steel duy trì chào giá cho SS400 HRC không đổi ở mức 380 USD/tấn FOB Trung Quốc giao tháng 12, nhưng không thu hút được bất kỳ ai. Nhà máy đã bán tổng cộng 250.000 tấn HRC giao tháng 11.
Một nhà máy khác ở miền đông chào giá 378 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn cùng loại để giao tháng 11, nhưng khách hàng vẫn còn lảng tránh. Một nhà máy khác ở miền đông chào giá 385-390 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển 8 USD/tấn), cũng để giao tháng 11.
Các nhà sản xuất thép khác duy trì chào giá không đổi. Tuy nhiên, các nhà máy thép Trung Quốc lạc quan về giá trong tương lai gần do giá trong nước mạnh lên.
“Nhưng người mua vẫn cần thời gian để tiêu hóa chào giá cao hơn của các nhà sản xuất Trung Quốc”, một thương nhân Hàn Quốc cho biết. Người mua Việt Nam cũng cần thời gian để xu hướng giá rõ ràng trong những ngày tới trước khi đặt hàng.
Chào giá Trung Quốc cho thép cuộn SAE là 385-390 USD/tấn CFR Việt Nam, không có giao dịch nào được ký kết. Một số giao dịch cho thép cuộn SAE được chốt với giá chỉ có 380 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ Sáu tuần trước để giao tháng 1. Tuy nhiên, thời gian vượt quá 4-8 tuần định giá của Platts.