HRC Midwest Mỹ ổn định, thị trường phía Nam suy thoái
Trong khi giá HRC có chiều hướng ổn định tại Midwest thì tại phía Nam, giá lại xuất hiện dấu hiệu suy thoái.
Một người mua cho hay HRC hiện đạt mức 630 -650 USD/tấn ngắn xuất xưởng tùy vào khối lượng giao dịch. Trong khi đó, sự pha trộn giữa điều kiện thời tiết khắc ngiệt và các vụ kiện thương mại với thép ống dẫn dầu Hàn Quốc đã khiến tâm lý thị trường chùng xuống.
Platts vẫn duy trì định giá HRC và CRC lần lượt tại mức 640-650 USD/tấn ngắn và 760-770 USD/tấn ngắn xuất xưởng Midwest.
Giá xuất khẩu cuộn trơn/thép thanh CIS giảm 10-15 USD/tấn
Các nhà máy CIS đang hoàn thành việc bán các lô hàng cuộn trươn và phôi thanh còn lại của tháng 3 tại mức giá xuất khẩu thấp hơn tháng trước 20-25 USD/tấn.
Hai nhà máy CIS đã bán thép cây tháng 3 tới Châu Phi tại mức giá 510-520 USD/tấn FOB Biển Đen, thấp hơn giá nửa tháng trước 10-15 USD/tấn.
Cuộn trơn tháng 3 hiện cũng suy yếu 15-20 USD/tấn so với giữa tháng 2, với giá chào bán hiện tại tới Địa Trung Hải và Châu Phi là 530-540 USD/tấn FOB Biển Đen. Trong khi đó, cuộn trơn Trung Quốc bán tới Israel là 560 USD/tấn, các nhà máy CIS bán tại mức giá cao hơn 535 USD/tấn FOB Biển Đen trongkhi không có tin gì về chào bán của Ukraina đối với lô hàng tháng 3.
Thị trường Nga cũng không có nhiều chào bán. Các nhà máy CIS đã thành công trong việc tăng giá thép cây 12-14mm Nga trong tháng 2 và đang hướng tới mục đích nâng giá tháng 3, tối thiểu 1.000 Rub/tấn (28 USD/tấn) so với tháng trước, đạt mức 18.000 Rub/tấn (497 USD/tấn) chưa tính VAT. Mức tăng này vừa cho phép các nhà máy giữ giá thép tính bằng đồng USD bình ổn so với tháng trước do đồng Rub suy yếu đồng thời nâng cao lợi nhuận đã bị sụt giảm từ tỷ giá biến động trước đó.
Giá xuất khẩu PPGI Thổ Nhĩ Kỳ giảm
Nhu cầu tiêu thụ trong nước lẫn ngoài nước thấp, đặc biệt là trong ngành sản xuất xe hơi và hàng tiêu dùng lâu bền đã gây áp lực lên giá chào bán của các nhà máy.. Bên cạnh đó, các nhà máy cũng không nhận đủ đơn hàng xuất khẩu. Gía HRC suy yếu cùng sự mất giá của đồng Lira cũng là nguyên nhân dẫn tới giá PPGI sụt giảm. Gía chào bán PPGI 9002 0.5mm từ các nhà máy không đổi so với tuần trước, đạt mức 900 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu thấp hơn mức này 10-15 USD/tấn.
Sự mất cân đối trong cung cầu cũng tăng thêm trong những tháng gần đây. Những nhà máy sản xuất PPGI mới đi vào hoạt động đã khiến gia tăng công suất sản xuất. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ từ các nước CIS lại giảm.
Giá chào PPGI 9002 0.5mm hiện đạt mức 890-920 USD/tấn xuất xưởng, trong khi giá chào xuất khẩu đạt mức 880-900 USD/tấn FOB. Nguồn cung quá mức cũng kìm hãm thị trường HDG. Tuy nhiên, giá chào bán HDG 0.5mm vẫn bình ổn tại mức 780-790 USD/tấn xuất xưởng trong khi loại HDG 1mm đạt mức 750-760 USD/tấn xuất xưởng.
BDSV công bố : Giá phế tại Đức giảm 16 Euro/tấn trong tháng 2
Theo công bố của BDSV, giá phế tại Đức giảm mạnh trong tháng 2, nối tiếp đà tăng 2 tháng liên tục trước đó. Theo dự báo hồi đầu tháng, giá phế tháng 2 có thể giảm thêm 10-20 Euro/tấn so với tháng 1.
Mặc dù nhu cầu tiêu thụ vững chắc nhờ vào ngành xây dựng, thế nhưng BDSV dự báo phế Đức sẽ giảm 16 Euro/tấn trong tháng này. Trong khi đó, giá phế liệu cũ giảm mạnh nhất, mất 17.9 Euro/tấn còn 223.10 Euro/tấn.
Giá phế vụn loại E40 đạt mức 254.6 Euro/tấn, giảm 14.7 Euro/tấn so với tháng 1, trong khi phế liệu phái sinh đạt mức 250.30 Euro/tấn, giảm 15.20 Euro/tấn so với tháng 1.
Thị trường phế liệu Đức chịu tác động mạnh từ tình hình bất ổn tại Thổ Nhĩ kỳ- thị trường xuất khẩu chính của Đức.
Bất ổn chính trị Ukraina kìm hãm thị trường phôi thanh
Bất ổn chính trị tại Ukraina đang đẩy nước này tiến về nguy cơ vỡ nợ, bao trùm bóng đen lên thị trường phôi thanh xuất khẩu CIS . Nhiều thành viên thị trường hiện tại đã rút về vị trí quan sát và chờ đợi một viễn cảnh rõ ràng hơn.
Các nhà máy lớn cho biết họ đã bán sạch hàng tháng 3với giá chốt vài đơn hàng gần đây đạt mức 485 USD/tấn FOB Ukraina hoặc thấp hơn một ít. Đối với tháng 4, giá chào bán từ các nhà máy lớn Ukraina dự báo đạt mức 490 USD/tấn . Trongkhi đó, Platts tăng giá nhận định đối với phôi thanh xuất khẩu Biển Đen thêm 1 USD/tấn, đạt mức 485 USD/tấn FOB Biển Đen.
Trong khi thị trường vắng bóng các chào bán và chào mua thì các thương nhân thường xuyên mua phôi thanh Ukraina đang đàm phán với các nhà máy và các nhà tài chính trong nỗ lực giữ cho dòng lưu thông hàng hóa không bị gián đoạn.
Các thương nhân phàn nàn rằng các ngân hàng Tây Âu không sẵn sàng cung cấp tín dụng cho các giao dịch thanh toán trả trước tại Ukraina. Đối với các nhà máy nhỏ- những người chỉ có 1 nhà máy duy nhất nằm ở Ukraina hoặc có sản phẩm chưa đa dạng và trụ sở tài chính nằm ngoài nước, có thể sẽ đối mặt với khó khăn nếu tình hình trên vẫn cứ tiếp diễn.
Thanh toán trả trước cho các nhà máy 1 tháng để xoay vòng vốn. Họ có thể sử dụng 30-50% số tiền thanh toán trước để xoay vòng, mua nguyên liệu thô, chi phí năng lượng trước khi sản xuất và vận chuyển tới người mua.
Một lựa chọn khác là nếu không thanh toán trước thì phải thanh toán theo kiểu FRC với hàng được vận chuyển bằng đường xe lửa tới cảng và được trả tại nơi đến. Tuy nhiên, điều này sẽ khiến các nhà máy cạn tiền mặt trong 1 tháng rưỡi.
Tuy nhiên, FCR lại không được các ngân hàng ngoài nước chấp nhận vào thời điểm này nên có thể các thương nhân phải bỏ tiền túi của mình để thanh toán.
Thanh khoản thắt chặt có thể dẫn tới sự sụt giảm mạnh nguồn cung phôi thanh từ Ukraina trong những tuần tới. Điều này có thể có lợi chi các nhà máy thép Thổ Nhĩ Kỳ và Nga. Trongkhi đó, các khách hàng người Ý đặt mua gang thỏi Ukrian cũng đang lo lắng về các giao hàng kỳ hạn ngắn.
Gía phế lô nhỏ tăng, lô lớn vẫn ổn định
Giá xuất khẩu phế Ferrite khối lượng nhỏ từ Bờ Biển Tây Mỹ tới Đài Loan đã tăng trong tuần này, đảo ngược đà giảm 2 tháng trước trong khi các đơn hàng khối lượng lớn vẫn được chốt tại mức ngang bằng so với các đơn hàng tháng trước.
Giá bán phế khối lượng nhỏ đạt mức 339 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần này với giá chào hiện tại cao hơn một ít. Gía chào bán cũng như giá giao dịch đã tăng so với giá chốt 335 USD/tấn trước đó do các nhà cung phế từ chối bán hàng tại mức giá cũ. Trước khi giá có xu hướng tăng lên trong tuần này, giá phế khối lượng nhỏ đã giảm 37 USD/tấn kể từ cuối tháng 12.
Platts tăng giá phế HMS I/II (80:20) khối lượng nhỏ thêm 3 USD/tấn trong ngày 27/2, đạt mức 308-313 USD/tấn FAS cảng Los Angeles.
Giá chốt các đơn hàng phế khối lượng lớn trong tuần này vẫn ngang bằng so với tuần trước. Trong hai ngày đầu tuần, hai nhà máy Đài Loan đã đặt mua 25.000 tấn phế HMS 80:20 và phế vụn xuất xưởng Mỹ tại mức 364 USD/tấn CFR.
Tại Hàn Quốc, một nhà máy lớn đặt mua 20.000 tấn phế A3 Nga tại mức 355 USD/tấn CFR tuần này trong khi tuần trước, một nhà máy khác của Nga đã mua lô hàng phế tương tự tại mức giá 357 USD/tấn CFR.
Hồi đầu tuần, một nhà máy Việt Nam đã mua lô hàng phế vụn Mỹ khối lượng lớn tại mức 370 USD/tấn CFR.
Trong khi đó, giá chốt tại Đài Loan cũng đạt mức tương tự hoặc thấp hơn một ít.
Nhu cầu tiêu thụ thép tấm tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn yếu, giá giảm 5-10 USD/tấn
Nhu cầu tiêu thụ thép tấm tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chậm do tâm lý thị trường đã suy yếu từ các bất ổn chính trị trong nước và tỷ giá hối đoái dao động.
Hầu như các nguồn tin đều cho rằng cả giá và nhu cầu tiêu thụ sẽ không có tín hiệu phục hồi đáng kể nào cho tới khi cuộc bầu cử chính quyền diễn ra vào cuối tháng 3. Gía chào bán từ các nhà máy nội địa đối với thép tấm rộng 1.500mm dày 4-12mm đã giảm 5-10 USD/tấn trong tuần này cùng với đà suy yếu của thép dẹt, còn 590-600 USD/tấn xuất xưởng, chưa tính 18% VAT. Gía chào bán từ các nhà tích trữ hàng hóa chỉ cao hơn giá các nhà máy từ 5-10 USD/tấn.
Trong khi đó, giá chào bán thép tấm từ Ukraina tới Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định trong tháng 2. Gía chào cùng loại trên đạt mức 550-560 USD/tấn CFR Thỏ Nhĩ Kỳ đối với lô hàng giao cuối tháng 3. Tuy nhiên, hầu như người mua đã hoãn lại các đơn hàng nhập khẩu dựa vào rủi ro từ tỷ giá trong bối cảnh bất ổn chính trị.
Thép cây Trung Quốc xuất khẩu bị sức ép; xu hướng không rõ ràng
Thị trường thép cây Trung Quốc chịu sức ép từ giá nguyên liệu giảm và tâm lý bi quan trong tuần này. Tuy nhiên, giá thép cây giao sau tại Thượng Hải phục hồi hôm thứ Năm đã mang lại nhiều hy vọng là có thể giúp lấy lại niềm tin nếu giá cứ tiếp tục duy trì được đà tăng.
Các chào giá của thép cây trọng lượng thực tế xuất xứ Trung Quốc tới Hong Kong vẫn duy trì tầm 505-510 USD/tấn CFR Hong Kong (gồm phí vận chuyển cỡ 15 USD/tấn). Một số nguồn tin thị trường tin rằng giá đã gần mức đáy vì đà giảm giá nguyên liệu đã chậm lại. Nhưng một số người vẫn còn quan ngại rằng thanh khoản eo hẹp khắp cả thị trường có thể gây sức ép kéo dài cho giá giao ngay.
Một thương nhân nghe nói chỉ có một vài lô hàng nhỏ được giao dịch với giá 505 USD/tấn CFR Hong Kong bởi vì người mua không quan tâm đến việc đặt hàng trong bối cảnh giá thép trong nước và nguyên liệu đều đang suy yếu hơn. Một nhà máy ngụ ý rằng mức giá 500 USD/tấn CFR Hong Kong có thể thu hút được nhiều đơn hàng đáng kể.
Cũng không có giao dịch nào đến Singapore. Một nhà máy cho biết ngày càng khó để thuyết phục khách hàng chấp nhận mua thép cây trọng lượng lý thuyết xuất xứ từ Trung Quốc với giá 495 USD/tấn CFR Singapore, sau khi thép trong nước và nguyên liệu đều có xu hướng giảm giá. Mức giá này tương đương 490 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, căn cứ vào phí vận chuyển 20 USD/tấn và 3% dung sai khối lượng cho thép cây trọng lượng lý thuyết. Các giao dịch tuần trước có giá khoảng 495-500 USD/tấn CFR Singapore.
Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính16mm trọng lượng thực tế xuất xứ từ Trung Quốc có giá 488-492 USD/tấn FOB, giảm 2,5 USD/tấn FOB so với tuần trước.
Tại thị trường Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel (Hegang) giảm thêm 10 NDT/tấn so với ngày thứ Năm còn 3.190-3.200 NDT/tấn trọng lượng thực tế gồm VAT 17%. Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 05 trên sàn SHFE tăng 0,69% chốt tại 3.340 NDT/tấn, sau khi tăng 0,27% và giảm 2,4% trong hai ngày thứ Hai và thứ Ba.
Thị trường thép cuộn Biển Đen chìm trong u ám
Tuần này, thị trường thép cuộn Biển Đen vấp phải áp lực giảm giá từ sự suy yếu trở lại của thị trường Thổ Nhĩ kỳ, khủng hoảng tại Ukraina, nhu cầu tiêu thụ chậm chạp ở EU và tín hiệu không mấy quả quan từ Trung Quốc. Các nhà máy CIS đang vật lộn để giữ giá chào bán ổn định, tuy nhiên, giá đã cho thấy tín hiệu suy yếu ở một số trường hợp.
Metinvest vẫn đnag chào bán hàng tháng 3 tại mức 530-535 USD/tấn CFR Thỏ Nhĩ Kỳ. Một nguồn tin khác cho rằng giá chào bán từ nhà máy này là 520 USD/tấn FOB. Nhìn chung, giá chào hiện tại từ Metinvest thấp hơn giá đầu tháng 2 khoảng 10 USD/tấn.
MMK Nga đang tìm cách chào bán thép cuộn tháng 4 tại mức giá không đổi so với tháng trước-540 USD/tấn. Một thương nhân dự báo giá mà nhà máy này thu được tại thị trường Châu Âu là 530 USD/tấn và cũng có thể là 540 USD/tấn. Trong tuần cũng đã có vài giao dịch chốt tại mức giá cao, tuy nhiên, khối lượng đơn hàng còn hạn chế và không phải hàng cuả MMK.
Thị trường đang suy yếu và thực tế là giá chào từ Metinvest cũng giảm dựa vào sản lượng hàng tồn còn lớn hơn nhiều so với các nhà máy Nga. Tâm lý các nhà xuất khẩu CIS đang suy sụp từ bối cảnh suy yếu tại Thổ Nhĩ kỳ và tín hiệu không khả quan ở Trung Quốc. Vấn đề ở đâu là thị trường thiếu niềm tin và nhu cầu tiêu thụ không khởi sắc.
Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC FOB Biển Đen không đổi tại mức 520 USD/tấn và 595 usd/tấn trong ngày 27/2. Nhìn chung, HRC đã giảm 7.5 USD/tấn và CRC mất 5 USD/tấn trong suốt tháng 2.
Sản lượng thép thô ở Trung Quốc giảm nhưng không giúp giá HRC tăng
Sản lượng thép thô của Trung Quốc từ ngày 11-20/02 giảm còn 1,966 triệu tấn mỗi ngày, giảm 5% so với con số 2,066 triệu tấn/ngày trong 10 ngày đầu tiên của tháng 02, theo Hiệp hội sắt thép Trung Quốc (CISA) ước tính dựa trên sản lượng thép thô của các nhà máy thành viên trong 10 ngày. Sản lượng theo ngày của 86 nhà máy thành viên CISA đạt 1,689 triệu tấn trong 10 ngày giữa tháng 02, giảm 4% so với mức 1,761 triệu tấn/ngày hồi đầu tháng này.
Mặc dù sản lượng có giảm nhưng lượng thép thành phẩm tồn kho tại các nhà máy thành viên CISA vẫn đạt mức cao tính đến ngày 20/02 đạt 17,27 triệu tấn, tăng 937.500 tấn tức 6% so với 16,33 triệu tấn hôm 10/02.
Tuy sản lượng giảm nhưng không mang lại ảnh hưởng tích cực nào cho giá HRC giao ngay do tâm lý thị trường vẫn còn bi quan. Hôm thứ Năm, HRC Q235 5.5mm tại Thượng Hải có giá 3.400-3.430 NDT/tấn (555-560 USD/tấn) gồm VAT 17%, không đổi so với ngày trước đó. Nhiều thương nhân trong nước không nghĩ là giá có thể bật tăng ít nhất là trong khoảng thời gian từ đây cho đến cuối tháng 03 do hầu hết đều đang tìm cách giảm bớt hàng tồn để giảm thiểu rủi ro.
Về phía thị trường xuất khẩu, nhiều thương nhân cho biết các giao dịch HRC SS400B dày từ 3mm trở lên được thực hiện quanh mức 525-527 USD/tấn FOB trong tuần này, gần như không đổi so với tuần trước. Một số nhà xuất khẩu cho hay không có nhiều giao dịch tại mức giá này vì người mua vẫn đang chờ giá thấp hơn.
Một nhà xuất khẩu ở Thượng Hải nói rằng khách hàng của ông đang đưa ra giá 520 USD/tấn FOB nhưng nhà máy đã từ chối, mức giá thấp nhất mà họ có thể bán là 525 USD/tấn FOB. Việc thuyết phục các nhà máy giảm xuống 520 USD/tấn FOB là cực kỳ khó.
Theo một nhà máy khác thì giá xuất khẩu không thể giảm sâu hơn nữa trong tháng 03 vì nhu cầu trong nước sẽ giúp giá phục hồi trở lại và nhờ đó cũng sẽ hỗ trợ cho giá xuất khẩu.
Người mua dửng dưng, thị trường trầm lắng
Người mua tại thị trường thép cây Tây Bắc Âu vẫn đang trì hoãn các đơn hàng do dự báo giá có thể sẽ giảm thêm trong tháng 3 sau khi giảm xuyên suốt trong tháng 2. Gía tại Đức đạt mức 230-240 Euro/tấn giá cơ bản, tuy nhiên, giá giao dịch chỉ ở tầm 225-230 Euro/tấn.
“Thị trường thép cây đang chịu sức ép giảm giá, tương tự như giá phế. Nhu cầu tiêu thụ hiện tại rất thấp và các khách hàng đang chờ giá giảm trong tháng 3”, một nhà máy thép cây Đức cho biết.
Giá phế tại Đức trong tháng 2 giảm 15-18 Euro/tấn phục thuộc vào từng giao dịch. Do dự báo giá phế có thể giảm nữa trong tháng 3 nên hiện người mua đang rất cảnh giác với thị trường.
Dù vậy, nhiều thương nhân cho rằng thị trường Đức vẫn tốt. Trong tháng 3 và tháng 4 tới sẽ có nhiều dự án xây dựng được khởi công trong khi hàng tồn thấp sẽ giúp các nhà máy đạt được giá cao hơn.
Bên cạnh đó, người mua cũng dửng dưng với thị trường nhập khẩu. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có giá bán thấp nhất thị trường (tầm 555 USD/tấn FOB), tuy nhiên, do chỉ có vài người mua có khả năng mua các đơn hàng 2.000 tấn nên có rất ít giao dịch diễn ra. Theo một thương nhân nhập khẩu từ Ba Lan, chỉ có thép cây 12mm thu hút được người mua do cước phí vận chuyển thép cây 15mm quá cao.
Trong khi đó, tình hình thị trường tại Pháp cũng trầm lắng. Tâm lý thị trường cũng yếu hơn so với tại Đức. Gía tại đây đã giảm trong tuần qua với giá chào chính thức từ Riva đạt mức 220-230 Euro/tấn giá cơ bản.