Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 28/07/2014

Thị trường phế Châu Á trì trệ

Thị trường phế khu vực Đông Á diễn biến trì trệ trong tuần qua. Cụ thể tại Nhật Bản, nhiều nhà máy mini đang lên kế hoạch đóng cửa vào mùa hè từ tuần cuối cùng của tháng 07. Vì các nhà máy sẽ tiếp tục thu gom phế để dành nguyên liệu cho kế hoạch sản xuất cao hơn vào giữa tháng 08 nên nhiều thương nhân dự đoán giá phế Nhật sẽ không thay đổi nhiều.

Tokyo Steel Manufacturing mới đây đã giảm giá mua phế áp dụng cho các lô hàng đến từ ngày 17/7, theo đó giá mua phế H2 tại Utsunomiya, phía bắc Kanto là 32.500 Yên/tấn (319,25 USD/tấn). Các thương nhân trong nước hiện đang phải trả 32.000-32.500 Yên/tấn (314,34-319,25 USD/tấn) FAS để thu gom phế để xuất khẩu từ Vịnh Tokyo, mức giá này không đổi so với tuần trước đó.

Hoạt động thu mua tại Hàn Quốc tuần qua vẫn diễn ra im ắng sau khi Dongkuk Steel Mill đặt mua 10.000 tấn phế H2 với giá 33.000 Yên/tấn FOB trong ngày 18/7. Hyundai Steel đã cố gắng mua phế H2 với giá 32.500 Yên/tấn FOB trong suốt tuần kết thúc ngày 25/7, giảm 800 Yên/tấn từ hơn hai tuần trước, nhưng cho đến cuối ngày thứ sáu vẫn không có hợp đồng nào được xác nhận.

Giá nhập khẩu của phế Mỹ tại Đông Á suy yếu trong lúc thị trường trầm lắng. Hyundai Steel đã mua 40.000 tấn phế HMS 1 lô lớn để vận chuyển vào cuối tháng 08 với giá 372 USD/tấn CFR. Mức giá này thấp hơn 7 USD/tấn so với đơn hàng trước đó từ cùng một nhà cung cấp của Mỹ hồi hai tuần trước.  

Thị trường phế lô nhỏ nhập khẩu ở Đài Loan suy yếu nhẹ với các giao dịch có giá 346-348 USD/tấn CFR, giảm 2 USD/tấn so với tuần trước. Tại Platts, phế  HMS 80:20 lô nhỏ giảm 2 USD/tấn trong ngày thứ Năm còn 321-326 USD/tấn FAS cảng Los Angeles.

   Giá quặng sắt tiếp tục lao dốc do giao dịch thưa thớt  

 

Thị trường giao ngay của quặng sắt nhập khẩu kéo dài đà giảm từ tuần trước do người mua lưỡng lự cam kết mua tại chỗ với sự không chắc chắn trên thị trường thép.   

 

Giá tham khảo của TSI cho quặng cám 62% Fe kết thúc tuần trước chốt ở mức 94,3 USD/tấn CFR Thiên Tân, giảm 2% so với thứ sáu tuần trước đó. Hôm thứ Sáu, Platts định giá 62% Fe IODEX là 94 USD/tấn CFR miền bắc Trung Quốc, giảm 1,75 USD/tấn hay 1,8% so với tuần trước đó.   

Với một tuần giao dịch giao ngay thưa thớt trong bối cảnh giá quặng sắt và thép cây giao kỳ hạn tại Trung Quốc tiếp tục trì trệ thì các nguồn tin cho hay người tiêu thụ trực tiếp tỏ ra lưỡng lự để cam kết mua quặng sắt tại chỗ vì họ sợ rằng giá nguyên liệu lại một lần nữa sẽ vượt qua giá thép thành phẩm.  

 

Những người mua mà đang có lượng tồn kho dồi dào thì bằng lòng quan sát thị trường. Nguồn cung quặng rẻ hơn tại các cảng được xem như một nguồn nguyên liệu thay thế khác cho các nhà làm thép, người mà muốn mua những lô nhỏ hơn từ cảng.

Tuy nhiên, sự quan tâm đặt mua có vẻ như tăng lên trong ngày thứ Sáu sau khi giao dịch quặng cám Pilbara Blend và Carajás trên sàn giao dịch mạnh hơn đã hỗ trợ cho giá. Nhiều nhà kinh doanh đã quay lại thu mua khi giá quặng sắt giảm đủ mạnh cho những nhà tiêu thụ trực tiếp tái bổ sung thêm nguyên liệu dự trữ. 

Các nhà máy Nga  tăng giá thép cây để ngăn chặn sự suy thoái

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã nỗ lực tăng giá thép cây tháng 8 thêm 1%, tức 220 Rub/tấn (6 USD/tấn). Đây không phải là một động thái tăng giá mà chỉ là bước ngăn cản không cho giá giảm thêm nữa. Lần tăng này cũng đã phá vỡ xu hướng tăng liên tiếp 1.000 Rub/tấn tại thị trường thép cây Nga duy trì  trong suốt 5 tháng qua ( tháng 2-7) với mức tăng tổng cộng 5.030-5.040 Rub/tấn ( 144 USD/tấn).

Một vài nhà phân phối thép ở nhiều khu vực như Volga, Southern và các tỉnh  liên bang  Urals vẫn đang cố gắng thu được giá tăng trong tháng 7 và thậm chí còn thêm vào 1.5-2% lợi nhuận.

Tại thị trường Maxcova, giá bán  thép cây 12mm và 14mm tới các nhà tiêu thụ cuối hiện đạt mức 25.700-25.200 Rub/tấn, chỉ cao hơn một ít so với mức 25.550-25.960 Rub/tấn bán cho các nhà phân phối đối với lô hàng đã được đặt vào đầu tháng 7. Gía thu mua thực tế thấp hơn giá bán là 200 Rub/tấn. Tuy nhiên, doanh số bán ra đã chậm lại trong khi các hoạt động thu mua vẫn đang tái diễn như thường lệ.

Các nhà phân phối và nhà tiêu thụ cuối đang phản đối bất cứ thông báo tăng giá nào từ các nhà máy cà đang đàm phán để cắt giảm giá.  Trong khi đó, các nhà máy vẫn cố gắng tăng giá để ngăn giá suy yếu . Nếu khách hàng tăng áp lực thì họ có thể giảm nhẹ giá xuống nhưng chỉ ở mức tháng 7 chứ không thấp hơn.

Các nhà máy đang chào bán thép cuộn tháng 8 tại mức 26.150-26.250 Rub/tấn (744-747 USD/tấn) đối với loại 12mm và 25.750-25.850 Rub/tấn (733-736 USD/tấn) với loại 14mm giao tại Maxcova đã gồm thuế VAT 18%.

Giá nhập khẩu FeCr vào Trung Quốc đi ngang trong bối cảnh sức mua mỏng

Platts định giá giao ngay cho ferrochrome hàm lượng cacbon cao của Ấn Độ (58-60% Cr) và quặng chrome nguồn gốc Nam Phi 48-52% Cr) hôm thứ Sáu lần lượt là 82-84 cents/lb CIF và 81-82 cents/lb CIF Trung Quốc, cả hai đều không đổi so với tuần trước đó trong bối cảnh thiếu vắng các giao dịch cũng như lời hỏi mua trên thị trường.

Sự quan tâm từ phía người mua trong nước vẫn còn ít, một vài người nói rằng họ không nhận được bất cứ yêu cầu nào cho nguyên liệu nhập khẩu vào tuần trước. Hầu hết người mua đều đưa ra mức giá 80 cents/lb CIF hay thấp hơn, một mức giá không thể chấp nhận đối với các nhà cung cấp Ấn Độ và Nam Phi. Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là giá đặt mua chắc chắn.

Các nhà sản xuất Ấn Độ khẳng định rằng chi phí sản xuất còn cao và họ đã hạn chế bán giao ngay do thiếu hụt quặng chrome và giá quặng chrome ở trong nước cao. Các nhà cung cấp Nam Phi hiện không hạ giá bán do giá điện trong mùa đông lên giá.

Ngoài ra cũng thiếu vắng đơn đặt hàng trên thị trường. Chỉ có duy nhất đại diện một nhà máy thép không gỉ ở miền đông là nghe nói tuần trước đã đặt mua ferrochrome của Ấn Độ với giá 81-82 cents/lb CIF và 82-83 cents/lb CIF cho quặng chrome.

Các nhà cung cấp không hứng thú chào bán tới Trung Quốc vì họ sợ giá mua thấp, trong khi những thị trường khác lại đưa ra mức giá cao hơn. “86 cents/lb CIF là mức giá thấp nhất mà chúng tôi có thể chấp nhận. Mức giá này có thể đạt được trên những thị trường như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan”, đại diện một nhà sản xuất Ấn Độ cho biết. 

Baosteel giảm giá bán tháng 08 cho thép cuộn không gỉ ở trong nước 

Baosteel thông báo sẽ giảm giá bán trong nước cho thép cuộn không gỉ loại 300-series xuống 1.400 NDT/tấn (227 USD/tấn) từ tháng 08 để kéo giá của nhà máy lại gần hơn mức giá hiện nay trên thị trường giao ngay.

Sau xem xét hôm thứ sáu, giá bán của nhà máy cho HRC loại 304 3mm và CRC 2B 2mm còn lần lượt là 16.100 NDT/tấn (2.613 USD/tấn) và 17.600 NDT/tấn xuất xưởng Thượng Hải.

“Giá bán trước đây của chúng tôi cao hơn so với giá trên thị trường. Do đó, chúng tôi muốn giá của mình gần sát với thị trường hơn, thêm vào đó nhu cầu tháng này cải thiện hơn so với tháng trước khi giá đi xuống. Các khách hàng hiện đang thu mua bình thường. Một vài người nghĩ rằng giá sẽ tăng trước cuối năm nay”, đại diện nhà máy cho biết.

Baosteel tiếp tục giữ giá loại 430 không đổi cho tháng 08. Giá của CRC loại 430 vẫn còn ở mức 8.800 NDT/tấn xuất xưởng Thượng Hải và 9.500 NDT/tấn xuất xưởng tại nhà máy liên doanh Ningbo Baoxin Stainless Steel nằm ở phía đông tỉnh Chiết Giang.

Giá trên thị trường giao ngay của thép cuộn ferrite hầu như không đổi, với nhu cầu loại 400-series từ các khách hàng của Baosteel cũng vẫn ổn định.

Sản lượng thép không gỉ tại Baosteel được dự kiến sẽ đạt khoảng 80.000 tấn trong tháng 07, không đổi so với tháng 06. 

Thị trường phôi thanh CIS ổn định

Thị trường phôi thanh CIS ổn định trong mấy ngày qua do thị trường Trung Đông đã bắt đầu bước vào một tuần lễ Eid kéo  dài theo sau sự  kết thúc Lễ Ramadan.

Các nguồn tin cho biết giá chào từ Ukraina và Nga hiện đạt mức 505 USD/tấn FOB Biển Đen giao tháng 9. Tuy nhiên, giá giao dịch vẫn dưới mức giá chào bán. Một nhà máy xác nhận đã có một đơn hàng xuất từ Mariupol sang Jordan đạt mức 500 USD/tấn FOB Mariupol.

Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục dự thầu tại mức 510-515 USD/tấn CIF Aliaga mặc dù giá chào bán là 515-520 USD/tấn CIF Aliaga đã gồm phí vận chuyển 15-17 USD/tấn.

Các nguồn tin đồng tình rằng mức giá phổ biến trên thị trường hiện tại là 502 USD/tấn FOB Biển Đen mặc dù vẫn còn các giá chào mua thấp. 

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á giảm với mức tiêu thụ suy yếu

Giá giao dịch của CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm hôm thứ sáu giảm còn 2.700-2.800 USD/tấn CFR tại các cảng ở Đông Á và Đông Nam Á, từ mức 2.800-2.850 USD/tấn CFR của tuần trước, do người bán hạ chào giá xuống thấp hơn vì sức tiêu thụ chậm chạp.

Tuần trước, một thương nhân ở Hong Kong đã mua CRC 0.5mm của Hàn Quốc với giá khoảng 2.950 USD/tấn CFR Hong Kong. Mức giá này tương đương 2.800 USD/tấn CFR cho CRC  2mm. Ông cho biết mức giá này có thể giao dịch nhưng được xem là cao trên thị trường.

Một nhà kinh doanh ở Seoul giảm giá chào bán CRC Hàn Quốc còn cỡ 2.700 USD/tấn CFR  trong ngày thứ sáu, giảm so với mức 2.900 USD/tấn CFR của hai tuần trước. Một nhà sản xuất lớn ở Hàn Quốc đã giảm chào giá xuống 2.650 USD/tấn FOB để cạnh tranh với chào giá tương tự từ một nhà máy hàng đầu Trung Quốc.

Chào giá CRC 2mm Đài Loan nghe nói vẫn quanh mức 2.900 USD/tấn CFR nhưng theo các nguồn tin cho biết giá giao dịch cao nhất có thể cho loại thép này là 2.800 USD/tấn CFR. Nhưng bây giờ cũng không dễ gì để bán với giá này.

Sức mua thường chậm hơn trong quý III do mùa hè ở Châu Âu và Mỹ, ngoài ra đây cũng là thời gian diễn ra lễ chay Ramadan ở khu vực Trung Đông và một số nước ở Đông Nam Á.

Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn LME hôm 24/7 chốt tại 19.075-19.080 USD/tấn, hầu như không đổi so với tuần trước đó. 

Giá thép cây Trung Quốc giảm do sức mua tiếp tục nhỏ giọt 

Giá thép cây tại thị trường Trung Quốc nhìn chung vẫn còn suy yếu trong suốt tuần trước do thị trường bất động sản trì trệ tiếp tục làm hạn chế nhu cầu thép của ngành xây dựng. Ngoài ra, thời tiết đang vào mùa mưa cũng làm giảm bớt sức mua. Tính đến ngày 25/7, giá giao ngay tại thị trường Thượng Hải cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm đã giảm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) so với tuần trước đó và quay lại mức giá 3.020-3.050 NDT/tấn (488-493 USD/tấn) hồi đầu tháng 07, giá tính theo trọng lượng lý thuyết, gồm VAT 17%.

Một thương nhân cho hay sức mua trực tiếp trong tháng này yếu hơn so với dự đoán. Nhưng nhờ tồn kho thị trường thấp nên giá giao ngay có khả năng phục hồi trong tháng tới. Thế nhưng những người khác thì tỏ ra bi quan hơn và nói rằng giá giao ngay tại Thượng Hải sẽ rớt xuống dưới 3.000 NDT/tấn.

Tại Bắc Kinh, một thương nhân nhấn mạnh rằng ngày càng có nhiều chính quyền địa phương bắt đầu nới lỏng sự hạn chế trên thị trường bất động sản nhằm giải quyết tình trạng doanh số nhà bán ra ì ạch. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng ngay cả khi có các biện pháp như vậy giúp kích thích sức mua nhà nhưng không làm gia tăng việc khởi công xây nhà mới ngay lập tức do quyết định đầu tư mới sẽ mất thời gian để hiện thực hóa. Do đó, ông dự đoán sẽ không có bất kỳ sự cải thiện lớn nào trên thị trường thép cây trong tháng 08.

Giá giao ngay ở Bắc Kinh hôm thứ sáu cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel giảm nhẹ 10 NDT/tấn so với tuần trước đó còn 3.135-3.140 NDT/tấn trọng lượng thực gồm VAT, sau khi tăng khoảng 20 NDT/tấn trong tuần kết thúc ngày 18/7.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 01 trên sàn Shanghai Futures Exchange thứ sáu tuần trước chốt ở mức giá 3.048 NDT/tấn, tăng 0,46% so với phiên giao dịch trước đó nhưng lại giảm 0,1% so với tuần trước. 

Các nhà máy HRC Nga duy trì giá không đổi

Như đã dự báo hồi giữa tháng 7, sau khi tăng nhẹ giá tấm cán nóng do sức mua nội địa cải thiện và doanh số xuất khẩu thoả mãn, các nhà máy Nga đã quyết định giữ nguyên giá thép tấm tháng 8.

Sức mua hiện tại vẫn chưa được hồi phục về mức cùng kỳ năm ngoái phần lớn do nhu cầu tiêu thụ từ các ngành tiêu dùng cuối suy yếu mạnh như sản xuất máy máy móc và xe hơi.

Trong tháng 8, giá các lô hàng trọng tải lớn dự báo vẫn giữ nguyên ở mức tháng trước. Đối với các khách hàng tại Maxcova, giá tấm mỏng dự báo đạt mức 23.910-24.040 Rub/tấn (681-685 USD/tấn) đối với loại 2mm và 23.230-23.340 Rub/tấn (662-665 USD/tấn) đối với loại 4mm đã tính VAT 18%. 

Đối với tấm cán nguội tháng 8, các nhà máy cũng duy trì giá không đổi với loại 1mm tại mức 21.780-21.950 Rub/tấn (620-625 USD/tấn) CPT Maxcova chưa có thuế VAT.

Giá xuất khẩu HDG từ Ấn Độ tới Mỹ không đổi so với tuần trước đó 

Thị trường HDG Ấn Độ xuất khẩu tới Mỹ tuần trước vẫn ổn định. Giá giao dịch của thép cuộn loại thường dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông có mức bình quân là 850-860 USD/tấn CFR East coast Hoa Kỳ, không đổi so với tuần trước đó. Mức giá này gồm phí vận chuyển khoảng 50-60 USD/tấn cho những lô hàng cập cảng vào tháng 09.

Mặc dù lo sợ sắp có vụ kiện chống bán phá giá đối với HDG Ấn Độ nhưng 3 nhà sản xuất lớn trong nước đã bán được khoảng 20.000 tấn HDG tới Mỹ với giá cỡ 855 USD/tấn CFR Mỹ. Các nhà máy muốn tránh dính líu đến bất kỳ vụ điều tra nào, vì vậy họ chỉ đang bán thép cho những khách hàng thường xuyên.

Một nhà máy ở miền tây Ấn Độ tuần trước đã bán khoảng 5.000 tấn HDG 0.5mm phủ 140 gram kẽm trên một mét vuông tới Italia với giá 720-730 USD/tấn CFR Ravenna. Mức giá giao dịch này là thấp hơn so với giá thị trường cỡ 750-760 USD/tấn CFR và có lẽ là do nhà cung cấp cần đạt doanh số mục tiêu vì cũng sắp hết tháng.

Một thương nhân ở Mumbai cho hay tuần trước ông cũng đã xoay sở để bán khoảng 500 tấn HDG tới Châu Phi để làm mái lợp với giá 900-950 USD/tấn CFR Djibouti. Ông tỏ ra quan ngại về tình trạng thanh khoản eo hẹp của những  nhà tiêu thụ thép.

Trong khi đó, nhu cầu HDG tại chính thị trường Ấn Độ vẫn còn trì trệ do đang vào mùa mưa. Các giao dịch với khối lượng từ 100-300 tấn được thực hiện với giá 56.000 Rupee/tấn (931 USD/tấn) gồm phí vận chuyển và VAT 5%. Hầu hết người mua trong nước đều mua các lô hàng với khối lượng nhỏ nghĩa là họ đang duy trì mức tồn kho. 

Thị trường thép cuộn EU trầm lắng

Thị trường thép cuộn EU suy yếu vào cuối tuần qua do sức mua suy yếu trong Lễ và các nhà máy cố gắng giữ nguyên giá  để bảo toàn doanh số tháng 9.

Trong khi đó, thị trường có nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh về giá. Có nguồn tin cho rằng giá đã chạm đáy nhưng cũng có người nghĩ rằng trong thời gian tới, giá thép vẫn có khả năng giảm nữa . Gía HRC hiện tại đạt mức 415-425 Euro/tấn trong khi CRC dưới mức 500 Euro/tấn. Một nhà máy Đức cho biết có một nhà máy lớn nội địa đã giảm giá HRC giao cuối tháng 9 xuống mức 390 Euro/tấn CPT Trung Âu. Các nhà máy Đức vẫn dễ dàng chấp nhận giá chào tại mức 400-410 Euro/tấn.

Thị trường dự báo các nhà máy có thể tăng giá thêm 10-20 Euro/tấn khi người mua bắt đầu mua hàng tháng 10. Vài người mua cho rằng các nhà máy không muốn giữ nguyên giá trong tháng 10 mặc dù các giao dịch vẫn chưa khởi sắc trở lại.

Trong khi đó, thị trường nhập khẩu hầu như bị ảnh hưởng bởi tỷ gái hối đoái dao động gây bất lợi cho người mua EU. HRC nhập từ Trung Quốc đạt mức 415-420 Euro/tấn và CRC đạt mức tối thiểu 470 Euro/tấn CFR Antwerp. Gía HRC Thổ Nhĩ Kỳ được chào bán tại mức 450 Euro/tấn CFR Antwerp. Nhà máy MMK cho biết đã bán hết thép cuộn Biển Đen sản xuất tháng 8 tại mức 405-410 Euro/tấn đối với HRC và 462-469 Euro/tấn đối với CRC  Biển Đen. 

Người mua Đông Nam Á đợi tin tức từ việc kiểm soát phôi thanh xuất khẩu của Trung Quốc 

Thị trường phôi thanh nhập khẩu Đông Nam Á trầm lắng trong hai tuần qua và đang đợi sự rõ ràng hơn từ phía Trung Quốc. Nguồn cung phôi thanh Trung Quốc bị gián đoạn do các đợt kiểm tra nghiêm ngặt hơn từ phía Hải quan. Một vài lô phôi thanh được khai man thành thép thanh vuông hợp kim để tránh thuế và được giảm thuế.

Tại Philippines, một vài chào giá phôi thanh tuần trước được rút lại trong khi phôi thanh EAF 120mm Trung Quốc nghe nói được chào giá 495 USD/tấn CFR. Ngoài ra, các thương nhân nghe nói phôi thanh lò nung 120mm giao tháng 10 được đặt mua với giá 505 USD/tấn CFR Philippines.

Người mua cho biết Hải quan Trung Quốc sẽ thông quan phôi thanh được cán mỏng. Phôi thanh này thực chất là phôi thanh 150-200mm được cán mỏng xuống còn 120mm. “Vẫn còn tình trạng chuyển đổi chứng từ. Thật là sai trái khi thép thành phẩm nhập khẩu mà không phải trả thuế xuất khẩu”, một thương nhân ở Manila nói.

Người mua dự báo những lô hàng của Trung Quốc sẽ cập cảng trễ. Một vài người cho biết đây là một lời khuyến cáo khả năng sẽ không giao. “Thật là khá khó hiểu. Không có tin tức gì từ Trung Quốc và chúng tôi phải chờ xem sao”, một thương nhân khác nói.

Tuy nhiên, người mua Philippines vẫn chưa trữ sẵn hàng trong trường hợp có sự gián đoạn về nguồn cung. Phôi thanh EAF từ Việt Nam và Hàn Quốc được chào bán tới Philippines với giá 525 USD/tấn CFR và 533 USD/tấn CFR. Chào giá phôi thanh Nga đặt mục tiêu là 530 USD/tấn CFR.

Trong trường hợp phôi thanh Trung Quốc bị cấm xuất khẩu, giá sẽ tăng. Tuy nhiên, giá phôi thanh sẽ không vượt quá 540 USD/tấn CFR.