Trường hợp chống bán phá giá mới ở Mỹ đe dọa các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ
Viễn cảnh của một cuộc điều tra chống bán phá giá mới tiến hành với thép cây nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ sang thị trường Mỹ vẫn là một chủ đề nóng trong số những người tham gia tại hội nghị Irepas được tổ chức tại Vienna trong tuần này. Theo một số nhà bình luận, nếu được công bố, các biện pháp AD sẽ có tác động mạnh đối với các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, dẫn đến một sự giảm sút nghiệm trọng tại thị trường xuất khẩu chủ chốt này và thậm chí có khả năng buộc phải cắt giảm sản xuất.
“Điều này là đáng báo động cho ngành công nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ, họ phải tìm kiếm một sự sắp xếp ổn thỏa với chính quyền Mỹ hoặc họ phải tìm một nơi [mới] cho khối lượng hàng này, nó sẽ gây áp lực rất lớn lên giá cả,” Wilhelm Alff, của Duferco, cho biết trong thời gian một buổi thảo luận.
Một thương nhân cao cấp tại thị trường Mỹ cho biết thời gian này, làn sóng chủ nghĩa bảo hộ từ các nhà máy của Mỹ đang được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa do toàn bộ khối lượng nhập khẩu đến từ Thổ Nhĩ Kỳ bị cáo buộc bán phá giá. Thị phần nhập khẩu thép cây vào Mỹ của Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng từ 69% trong năm 2014 lên đến 81% vào năm 2015. Nó đã giảm còn 70% ctrong 9 tháng đầu năm 2016 do thị phần hàng nhập khẩu của Nhật Bản và Đài Loan lớn hơn, nhưng các khối lượng hàng nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trong xu hướng tăng.
Theo dữ liệu sơ bộ, nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ vào Mỹ trong 9 tháng đầu năm nay ít nhất là 1,03 triệu tấn. Theo cơ sở tháng, mức này là 144.000 tấn, tăng vọt từ mức trung bình hàng tháng của năm ngoái là 122.000 tấn (1,46 triệu tấn cho cả năm). Bằng cách so sánh, trong năm 2014 tổng lượng thép cây Thổ Nhĩ Kỳ nhập khẩu vào Mỹ đạt 925.098 tấn.
Bảo vệ lập trường của các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ, Murat Cebecioglu của Icdas lập luận rằng vấn đề chính đằng sau sự bảo hộ trong thương mại quốc tế là sản xuất thừa của Trung Quốc, đang có một ảnh hưởng xa hơn đến các nước xuất khẩu khác, bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ.
Vụ kiện AD mới này “không có cơ sở nào cả, chúng tôi đã trải qua điều này ba năm trước và cuối cùng họ không phát hiện sai sót nào. Tôi tin rằng điều tương tự sẽ xảy ra cho này ... Tôi biết giá chúng tôi đang bán chắc chắn là không có bán phá giá, và tôi tin rằng kinh doanh sẽ như cũ, “ ông Cebecioglu nói.
Chốt giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ cho hàng giao tháng Mười đến Mỹ giảm khoảng 15usd/tấn còn 385-390usd/tấn CIF Houston, so với các đơn đặt hàng giao tháng Chín.
Thị trường thép cây suy thoái do nhà máy cạnh tranh lợi nhuận
Sự thu hẹp lại trong thị trường thép dài toàn cầu vẫn tiếp tục, do Trung Quốc, CIS và Trung Đông, chỉ với châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy một số tăng trưởng trong nửa đầu năm 2016 so với H2 2015 trong bối cảnh ngày càng tăng của số lượng ngày càng tăng các trường hợp bảo hộ thương mại, Kim Marti, giám đốc kinh doanh quốc tế của Celsa Group, Tây Ban Nha, cho biết trong hội nghị Irepas tại Vienna Irepas tuần này.
Marti nói rằng các nhà máy do “bản năng sinh tồn” sẽ tiếp tục cạnh tranh để bảo vệ thị trường do giá cả trong nước là động lực quan trọng của lợi nhuận. “Chúng tôi có được lợi nhuận là từ thị trường trong nước, bạn sẽ không có lợi nhuận trong nỗ lực cố gắng để xuất khẩu,” ông nói.
Thị trường thép cây châu Âu duy trì sự hồi phục từ mức rất thấp khủng hoảng, Bắc Mỹ đã tăng trưởng trở lại và Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhanh trong H1 năm 2016, đại diện của tập đoàn Celsa lưu ý. Thị trường CIS trở nên xấu hơn hơn, trong khi thị trường thép cây Trung Quốc tiếp tục thu hẹp nhưng với tốc độ chậm hơn. Theo ông Li Xinchuang, chủ tịch của Hiệp hội Sắt Thép Trung Quốc (CISA), tiêu thụ thép xây dựng của nước này sẽ thu hẹp đi cho đến năm 2020, còn 155 triệu tấn, từ mức 200 triệu tấn trong năm 2015. Đồng thời, nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc cho thép xây dựng nhà cửa suy yếu hơn sẽ đẩy tiêu thụ cuộn trơn xuống còn 101 triệu tấn vào năm 2020, từ mức 124 triệu tấn trong năm 2015.
Dư thừa nguồn cung vẫn là một vấn đề, nhưng những điều chỉnh đáng kể đã được bắt đầu vào năm 2015, Marti nói. Hạn chế tài chính đang buộc ngành công nghiệp trở lại trạng thái cân bằng lành mạnh hơn, ông nói.
Mặc dù thị trường thép xây dựng toàn cầu đang từ từ ổn định dần, các nhà sản xuất vẫn cần phải nhìn thấy lợi nhuận lớn hơn. Marti lưu ý rằng lợi nhuận đã phục hồi trong quý đầu tiên của năm nay, nhưng dừng lại trong quý thứ hai.
Giá thép cuộn CIS duy trì ổn định bất chấp mức giảm trong báo giá của Trung Quốc
Giá xuất khẩu thép cuộn CIS vẫn ổn định bất chấp mức giảm 25usd/tấn trong một tháng của HRC xuất khẩu Trung Quốc. Trong 30 ngày qua HRC Trung Quốc đã giảm từ 395usd/tấn FOB Thiên Tân cách đây một tháng còn 370usd/tấn vào đầu tuần này: mức này bây giờ phù hợp với mức trung điểm của định giá Platts cho giá CIS.
Giá nhà máy CIS vẫn ổn định, do trước đây đã không tăng giá mạnh theo giá Trung Quốc và hiện đang được giờ hỗ trợ sự ngừng hoạt động ở nhiều máy cán lại tại Severstal và NLMK theo bảo trì định kỳ vào ttrong tháng 10-11 và nguồn cung sẵn có cho thép cuộn vào những tháng này hạn chế.
“Tại thời điểm này, giá thầu của người mua đối với thép cuộn CIS là thấp hơn, nhưng các nhà máy Nga sẽ không bán ít hơn 375-380usd/tấn FOB Biển Đen vì đã có đủ đặt hàng,” một thương nhân châu Âu cho biết. “Một nhà máy của Nga chào giá cho sản lượng tháng 11 là 380usd/tấn đối với HRC và 430usd/tấn đối với CRC. Tất nhiên, không ai sẽ mua những gì họ hỏi nhưng các nhà máy là không vội vàng để bán ngay lập tức và nó hiện đang được hưởng lợi nhuận tốt hơn từ bán hàng cho Iran vì họ vẫn cương quyết trong đàm phán,” ông nói thêm.
Theo một nhà kinh doanh tại thị trường MENA, các nhà máy CIS cũng được nhìn thấy đang cố gắng giá tăng doanh số bán tấm mỏng cho ô-tô, chủ yếu là thép cuộn cán nguội, đến người dùng cuối cùng ở Trung Đông và châu Phi, để bù đắp cho doanh số bán hàng nghèo nàn của tấm ô-tô tại Nga. “Có vẻ như các nhà máy của Nga đang gia tăng xuất khẩu tấm ô-tô. Điều này cũng giải thích tại sao họ thoải mái hơn về việc bán các sản phẩm thép cuộn có lợi nhuận thấp hơn: bán tấm ô-tô cho lợi nhuận nhiều hơn và do đó họ có thể không quan tâm đến việc bán HRC với bất cứ giá nào,” thương nhân MENA nhận xét.
Hôm thứ ba Platts duy trì định giá hàng ngày của CIS cho HRC và CRC không đổi trong tại mức 365-375usd/tấn và 410-420usd/tấn FOB Biển Đen, tương ứng.
Thị trường chờ đợi sự rõ ràng do đơn đặt hàng tấm mỏng Việt Nam bị hủy
Các thương nhân tại thị trường tấm mỏng Mỹ đã hủy đơn đặt hàng mua CRC và HDG của Việt Nam, hình thành sự bất ổn hơn trong một thị trường mà đã nhìn thấy giá giảm hàng tuần kể từ cuối tháng Tám.
Hai thương nhân cho biết đã hủy bỏ đơn đặt hàng với các nhà xuất khẩu Việt Nam phản ứng với các đơn kiện gianh lận của nhà máy Mỹ cho rằng thép tấm mỏngTrung Quốc đã được xử lý thành CRC và HDG tại Việt Nam và xuất khẩu sang Mỹ.
Một nguồn tin nhà máy cho biết ông không thay đổi giá CRC ở mức 740usd/tấn ngắn trong tuần trước nhưng cho biết đã không được nhận được đơn đặt hàng. Đối với thép cuộn cán nóng, giá dưới 500usd/tấn ngắn chỉ cho khối lượng 10.000 tấn ngắn và hầu hết các thị trường vẫn cao hơn 500usd/tấn ngắn cao.
Với hoạt động mua hạn chế hôm thứ Ba, Platts duy trì định giá HRC và CRC hàng ngày ổn định 520-540usd/tấn ngắn và 750-780usd/tấn ngắn. Cả hai định giá này được chuẩn hóa theo cơ sở xuất xưởng Midwest (Indiana).
Thị trường HRC Thổ Nhĩ Kỳ trầm lắng, ngoài trừ vài đơn đặt hàng nhập khẩu
Thị trường thép cuộn cán nóng của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối im lắng kể từ khi kết thúc lễ Eid, ngoại trừ của một số đặt hàng nhập khẩu nghe nói đến trên thị trường trong tuần này, trong lúc những vấn đề về dòng tiền liên tục diễn ra, nguồn tin công nghiệp cho biết hôm thứ Ba.
Do người mua ở thị trường trong nước đang chống lại những nỗ lực tăng giá của nhà sản xuất cuộn mạThổ Nhĩ Kỳ, một số đã bắt đầu cung cấp chiết khấu, trong khi những người khác đang cố gắng duy trì giá chào ổn định, nguồn tin thương mại cho biết.
“Một số đặt mua hàng nhập khẩu thường xuyên từ các khu vực CIS đã được thực hiện trong tuần này bởi một số nhà cán lại, nhưng khối lượng không quá lớn. Giá giao dịch trung bình trong hàng nhập khẩu này là khoảng 387-388usd/tấn CFR,” một quản lý trung tâm dịch vụ ở Gebze gần Istanbul cho biết.
“Người mua ở thị trường trong nước vẫn muốn giữ tiền mặt thay vì mua khối lượng lớn hàng, do những bất ổn đang diễn ra và các vấn đề dòng tiền, mặc dù mức tồn kho thấp. Trong tình cảnh này, một số nhà máy EAF một lần nữa đã bắt đầu cung cấp giá giảm khoảng 10usd/tấn trên giá niêm yết kể từ cuối tuần trước,” người quản lý nói.
Giá niêm yết HRC trong nước của các nhà máy địa phương trong khoảng 440-460usd/tấn xuất xưởng vào thứ Ba, nhưng chiết khấu đã có sẵn, tùy thuộc vào khối lượng và các điều khoản thanh toán. Chào giá xuất khẩu thấp hơn khoảng 20usd/tấn so với giá niêm yết trong nước.
Trong khi đó, một nhà máy Rumani lớn đã tăng giá chào bán đến Thổ Nhĩ Kỳ đến mức cao 425-430usd/tấn CFR, theo một khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ của nhà máy. Tuy nhiên, vì nó không phải là một mức giá chào hàng cạnh tranh trong điều kiện thị trường hiện nay, có thể chào giá này sẽ không được người mua Thổ Nhĩ Kỳ chấp nhận.
Định giá HRC EU
Platts duy trì định giá HRC châu Âu của mình tại mức 440-450euro/tấn xuất xưởng Ruhr vào thứ Ba.
Với chào giá lên đến 480euro/tấn, ArcelorMittal có giá đắt nhất trong thị trường nhưng cũng một trong vài nhà máy với còn nguồn cung cho quý tư. Những nhà sản xuất khác đã có đủ đơn hàng kéo dài cho đến khi hàng đến vào tháng Một.
Một nguồn tin nhà máy cho biết công ty của ông đã không còn bán dưới 450euro/tấn, mặc dù các nguồn bên mua đã đưa thị trường ở mức 440euro/tấn.
Một người mua khối lượng lớn ở Đức đưa thị trường trong phạm vi 430-435euro/tấn nhưng đối với khối lượng lớn hơn so với mức dùng điể tính toán giá của Platts. Thông thường người mua này có mức giá thấp hơn mức thị trường 10usd/tấn, trong khi những người mua khác cho biết giá 440euro/tấn ở trên thị trường.
Kardemir giảm giá thép cây/phôi thanh, tăng thêm áp lực lên hàng nhập khẩu
Nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ ở Karabuk, Kardemir, đã tái mở bán thép cây và phôi thanh cho thị trường trong nước vào hôm thứ Ba - với giá đặc biệt thấp hơn để thúc đẩy sức mua, do nhu cầu tiêu thụ liên tục thấp ở thị trường trong nước và giá đồng USD mạnh lên so với đồng lira thấy trong những ngày gần đây.
Giá bán mới của Kardemir cho thanh tròn trơn là 1.136 TRY (382usd)/tấn xuất xưởng vào thứ Ba, trong khi giá thép cây là 1.119 TRY (377usd)/tấn xuất xưởng, đều giảm 46TRY (15,5usd)/tấn so với giá niêm yết trước đây ban hành vào ngày 2/09. Giá niêm yết của Kardemir không bao gồm 18% VAT.
Nhà sản xuất Icdas ở Marmara cũng cắt giảm giá niêm yết của nó cho thép cây 12-32mm còn 1.370TRY/tấn xuất xưởng cho Istanbul và1.350TRY/tấn xuất xưởng cho Biga vào ngày 19/09 - tương đương 386usd/ tấn và 380usd/tấn tương ứng – không bao gồm 18% VAT.
Kardemir cũng mở bán lại phôi thanh trong nước với mức giá thấp hơn vào thứ Ba. Công ty xác định giá bán mới với phôi thanh tiêu chuẩn tại mức 330-335usd/tấn xuất xưởng, giảm 10usd/tấn so với giá niêm yết trước đó.
Trong khi chào giá phôi thanh của nhà máy CIS hiện đang ở mức cơ sở giá CIF, giá phôi thanh mới của Kardemir sẽ gây áp lực lên chào giá phôi thanh nhập khẩu, trong lúc giá phế đang thấp.
Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 370-375usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Ba, với trung điểm là 372,50usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ ổn định trong ngày.
Một nguồn tin cao cấp khẳng định một mức giá giao dịch của hàng nhập khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ vào Mỹ với giá 380usd/tấn CFR Houston, tương đương 370-375usd/tấn FOB trọng lượng thực tế, tùy thuộc vào chi phí vận chuyển thực tế và chi tiết kỹ thuật khác.
Ngoài ra, một người mua Đông Âu cho biết đã mua thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trong khoảng 370-375usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, trọng lượng thực tế. Một mức giảm giá lớn hơn đã được cho biết về doanh số bán hàng đến UAE, với một số thực hiện tại mức 365usd/tấn CFR Dubai trọng lượng lý thuyết, tương đương 355-360usd/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế, đối với khối lượng hơn 10.000 tấn.
Platts duy trì định giá trong phạm vi 370-375usd/tấn FOB do các nguồn tin thị trường tiếp tục báo cáo hầu hết các hoạt động mua bán, tương thích nhất với phương pháp tính của Platts, ở trong phạm vi này.
Niềm tin giá phế tháng Mười ở châu Âu dường như suy yếu hơn
Giá chốt mua phế châu Âu tháng Mười dường như có khả năng giảm ít nhất 10euro/tấn so với hợp đồng tháng Chín, các nguồn tin cho biết. Giá cả được nhìn thấy suy giảm mạnh do nhu cầu tiêu thụ mờ nhạt trên thị trường trong nước, cũng như trong thị trường Thổ Nhĩ Kỳ cho thép thành phẩm.
Vào tháng Chín, các nhà máy và các đại lý phế đã giữ giá tương đối ổn định, mặc dù trong một số trường hợp các giao dịch đã giảm một vài euro. Các nguồn tin cho biết giá phế không còn có thể duy trì ổn định, với giá thép dài đang giảm liên tục trong suốt tháng trước.
Một thương nhân Đức cho biết một số hợp đồng riêng biệt có thể giảm 15euro/tấn trong tháng Mười. “Có một số nhà máy thép cần mua nhiều tấn cho tháng Mười, nhưng trong các trường hợp khác một số nhà máy có bãi chứa đầy phế, vì vậy nó là một viễn cảnh không rõ ràng,” ông nói. “Trừ khi chúng ta nhìn thấy được một sự thay đổi theo hướng thị trường xuất khẩu, giá cả sẽ tiếp tục giảm 5-20euro/tấn trong quý tư năm nay, tùy thuộc vào nguồn cung phế và nhu cầu tiêu thụ,” ông nói thêm. Ông chốt phạm vi giá tháng Mười cho E40 (phế vụn) ở mức 170-185euro/tấn.
Các nguồn tin thị trường đang dự đoán sự suy thoái trong thị trường thép dài sẽ tiếp tục cho đến cuối tháng Mười. Sự phục hồi giá có thể xảy ra nếu tình hình địa chính trị của Thổ Nhĩ Kỳ được cải thiện, vì các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ có thể sẽ quay trở lại thị trường phế “mà họ đang có hiện vắng mặt, do có xu hướng mua phôi thanh với giá rẻ nhất,” một nguồn tin cho biết.
Tại khu vực miền nam châu Âu mức giá cho E40 (phế vụn) ở mức 195-200euro/tấn đã giao, và ở Bắc Âu là 180-195euro/tấn đã giao tháng Chín.
Platts định giá thép cây hàng ngày thứ Ba còn 395-405euro/tấn đã giao, xuất xưởng phía tây bắc châu Âu, giảm 5euro/tấn trong ngày và giảm 30euro/tấn kể từ đầu tháng.
Niềm tin thị trường phế suy yếu tại hội nghị Irepas
Niềm tin cho thị trường phế ban đầu ảm đạm tại hội nghị Irepas tuần này ở Vienna, mặc dù nó đã tăng lên một chút vào cuối phiên họp hôm qua.
Một thương lái phế cho biết các dự đoán rất u ám vào tối Chủ Nhật, với dự báo giá trong tương lai giảm còn 200usd/tấn CFR và thấp hơn đối với thị trường phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên ông cho biết điều này đã thay đổi với nhiều người nhìn thấy thị trường chủ yếu là ổn định vào sáng thứ Ba – mặc dù không có xu hướng tăng thực sự trong các nguyên tắc cơ bản thúc đẩy sự thay đổi.
Giá thấp hơn đang được dự đoán do thị trường Mỹ suy yếu, theo một người bán châu Âu. Ông bác bỏ sự thay đổi một cách rõ ràng trong niềm tin thị trường vào sáng thứ Ba vì thấy rằng tình hình ở Mỹ vẫn chưa được giải quyết.
Các thương gia khác bên ngoài Mỹ có thể có ảnh hưởng hơn, theo một đại lý ở Thổ Nhĩ Kỳ cho một người bán Baltic. Những ngưới bán khác ở Rumani và Biển Đen khác không cần phải hạ giá bán hơn nữa do đã có đủ sự hỗ trợ từ thị trường nội địa, ông cho biết. Hôm thứ Ba, ông nói rằng tình hình ở Thổ Nhĩ Kỳ có thể đã được ổn định bởi một số đơn hàng bán thép cây tại thị trường trong nước.
Một câu hỏi được đưa ra trong phiên hội thảo hôm thứ Ba, có liên quan đến tác động của việc tăng thuế xuất khẩu phế ở Ukraine. Ý kiến chung là điều này cũng có thể phục vụ như là một động lực cho các nhà cung cấp Baltic, trong khi cũng đồng thời đặt các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ vào nguy cơ giá cả nhiều do tăng sự phụ thuộc vào lô hàng khối lượng lớn.
Tuy nhiên, tâm lý chung cho thấy rằng thị trường sẽ giảm trong suốt ba tháng tới - một sự bỏ phiếu chung trong suốt buổi hội nghị của các thương nhân cho thấy đa số mọi người đều nhìn thấy thị trường suy yếu. Chỉ có một nguồn tin thấy rằng phế sẽ tăng trong ba tháng tới, và ông nói rằng sự gia tăng chi phí than cốc sẽ khiến cho giá phôi thanh cao, gián tiếp thúc đẩy giá phế liệu tăng lên.
Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ giảm cùng với phế nhập khẩu
Giá mua phế tàu cũ bằng USD của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm hơn nữa trong tuần này, theo xu hướng suy giảm nhẹ trong giá thu mua mới nhất phế HMS nhập khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ, và phù hợp với tâm lý trì trệ trong thị trường thép thành phẩm đang diễn ra.
Phế nóng chảy shipbreaking bắt đầu được chào giá đến hầu hết các nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Ege Celik, IDC, Ozkanlar, Habas) trong khoảng 210-217usd/ tấn vào hôm thứ Ba, giảm 10usd/tấn so với đầu tuần trước.
Xưởng cung cấp phế shipbreaking duy nhất của nước này, trong thị trấn miền tây Aliaga ở Izmir, cung cấp phế liệu để những nhà sản xuất thép trong khu vực. Xưởng này đã tháo dỡ 112 tàu và 12 giành khoan dầu khí cũ trong năm 2015, sản xuất khoảng 700.000 tấn phế.
Một số dấu hiệu suy yếu cũng đã được nhìn thấy trong giá mua bằng đồng lira của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho phế DKP sau kỳ nghỉ lễ Eid. Tuy nhiên, giá mua phế nội địa của các nhà sản xuất thép lò điện hồ quang EAF vẫn ổn định trong khoảng 635-665 TRY (214-224usd)/tấn kể từ cuối tuần trước, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu của các nhà máy.
Do hầu hết những người tham gia thị trường Thổ Nhĩ Kỳ có vẻ bi quan về bất kỳ chuyển động tăng đáng chú ý trong nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm và giá cả trong thời gian gần đây, trong bối cảnh những bất ổn đang diễn ra ở Thổ Nhĩ Kỳ, họ đang dự đoán nhập khẩu và giá phế trong nước vẫn tiếp tục suy yếu trong những ngày tới.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá xuất khẩu phôi thanh CIS hàng ngày ở mức 315usd/tấn FOB Biển Đen vào hôm thứ Ba, ổn định trong ngày.
Một nhà sản xuất Ukraina cho biết chào giá của mình ở mức 325usd/tấn FOB Biển Đen. Tuy nhiên nhà máy này nói rằng mình đang duy trì chào giá ở mức cao chỉ vì không cần phải bán tại thời điểm này trong khi thị trường vẫn thấp hơn nhiều.
Một nhà máy CIS đã được báo cáo là đã bán được 40.000 tấn tại mức 295usd/tấn FOB Biển Đen, giao tháng 12 với thanh toán trước toàn bộ, một thương nhân cho biết. Tuy nhiên với thời gian giao hàng mở rộng, khối lượng lớn cũng như điều khoản thanh toán sẽ chiếm một mức chiết khấu đáng kể.
Các nguồn tin bên mua cho biết phôi thanh Biển Đen phôi sẽ thu hút được nhiều sự quan tâm hơn ở mức 315usd/tấn FOB nhưng phần lớn các nhà máy đều không sẵn sàng bán ở mức này cho hàng giao tháng 10-11.
Tuy nhiên, thậm chí là ở mức 315usd/tấn FOB có thể là khó có thể được chấp nhận do sự không chắc của giá xuất khẩu phôi thanh Trung Quốc và giá chốt mua phế nhập khẩu suy yếu liên tục ở Thổ Nhĩ Kỳ, một số nguồn tin thị trường ghi nhận. Các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ sẽ sẵn sàng chấp nhận mức giá thậm chí thấp hơn cho phôi CIS, khoảng 315-320uusd/tấn CNF Marmara, hoặc tương đương 300-310usd/tấn FOB Biển Đen/Biển Azov.
Iran ký hợp đồng xuất khẩu phôi thanh đến châu Âu
Iran đã bắt đầu xuất khẩu phôi thanh sang châu Âu, theo nhà sản xuất Khouzestan Steel Co (KSC). Một hợp đồng đã được ký kết ở Ahwaz, miền nam Iran, giữa KSC và một công ty thương mại Tây Ban Nha cho 30.000 tấn phôi thanh. Giá trị của hợp đồng chưa được công bố nhưng giao dịch sẽ được kéo dài trong tương lai, theo KSC.
Châu Âu trước đây là thị trường xuất khẩu lớn của Iran cho thép lá và phôi tấm, nhưng đây là lần đầu tiên phôi thanh sẽ được xuất khẩu sang một nước EU.
Do nhu cầu tiêu thụ nội địa cho thép xây dựng thấp, các nhà sản xuất thép bán phẩm của Iran đang gia tăng xuất khẩu vào các thị trường mới. TRước đó, khoảng 17.000 tấn phôi thanh sản xuất bởi KSC được vận chuyển từ cảng BIK ở miền nam Iran đến một khách hàng Canada như là một đơn hàng thử nghiệm ở mức giá 320usd/tấn FOB cách đây vài ngày.
Khoảng 2,1 triệu tấn thép đã được xuất khẩu từ Iran trong bốn tháng đầu năm của năm Iran hiện nay (kết thúc vào ngày 21/07), 97% trong số đó đến từ ba công ty, theo ông Bahman Tajalizadeh, phó giám đốc quản lý phụ trách mảng kinh doanh của KSC, phát biểu tại một hội nghị ở Esfahan. Nhà xuất khẩu lớn nhất là Mobarakeh Steel Co (MSC) với 56,3%, KSC 30,2% và Esfahan Steel Co 10,3%.
Ngoài Tây Ban Nha, thép bán phẩm của KSC cũng đã được xuất khẩu sang Oman, Thái Lan, Ai Cập, UAE, Jordan, Brazil, Ma-rốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh và Canada, theo Tajalizadeh.
KSC sẽ tăng công suất hiện nay là 3,7 triệu tấn/năm lên đến 5 triệu tấn/năm vào năm 2018; và lên đến 8,8 triệu tấn/năm vào năm 2020 và 13,6 triệu tấn/năm vào năm 2025, ông nói. Mục tiêu của công ty là để duy trì 25% công suất tổng thể của Iran, ông nói.
Iran có thể trở thành nhà xuất khẩu ròng thép vào cuối năm 2016
Iran sẽ trở thành một nước xuất khẩu ròng thép từ năm nay trở đi, theo ông Bahram Sobhani, giám đốc quản lý của Mobarakeh Steel Co, phát biểu tại một hội nghị ở Esfahan. Iran đã nhập khẩu khoảng 4,5 triệu tấn thép và xuất khẩu 4,2 triệu tấn xuất khẩu trong năm 2015, nhưng trong năm 2016 xuất khẩu dự kiến sẽ vượt mức nhập khẩu, ông nói.
Do sự phát triển một cách nhanh chóng của Iran trong công suất thép, ông cho rằng, lượng thép tiêu thụ bình quân đầu người ở nước này dự kiến sẽ tăng từ mức hiện nay là 237 kg lên đến 350 kg theo hướng công nghiệp hóa trong tương lai cũng như sự phát triển của ngành công nghiệp thép Iran, được hỗ trợ bởi thị trường Trung Đông rộng lớn. Tiêu thụ của nước này cũng được dự kiến sẽ tăng nhanh chóng do nhu cầu đối với các đường ống nước mới, ông nói thêm.
Ông cũng nói rằng ông tin rằng mục tiêu của Iran nâng công suất lên 55 triệu tấn/năm vào năm 2025 có thể đạt được, như là công suất định mức của Iran hiện tại là 28 triệu tấn/năm, trong khi 22 triệu tấn/năm công suất mới đang được xây dựng (đã hoàn thành hơn 50%) và có thêm 6 triệu tấn/năm của công suất cũng đã được lên kế hoạch.
Sản xuất thực tế của Iran là 16 triệu tấn vào năm 2015 nhưng có thể sẽ tăng lên đến 20 triệu tấn vào năm 2017, ông nói thêm. Tuy nhiên, Iran cần 85 triệu tấn/năm công suất tinh quặng sắt cộng với khoảng 200 triệu tấn công suất mỏ, ông nói.
Ông nói rằng những thách thức chính của mục tiêu trong ngành công nghiệp thép của Iran là thăm dò và khai thác quặng sắt, nguồn nước, giao thông vận tải, điện và khí đốt tự nhiên, các dây chuyền sản xuất phức hợp, chi phí sản xuất, cạnh tranh trong nước, tiếp thị và xuất khẩu.
Ông cho rằng sự nhất thể hóa giữa các nhà sản xuất quặng viên/quặng tinh và toàn bộ ngành công nghiệp thép có thể cắt giảm một số chi phí gây ra bởi sự cạnh tranh giữa các giai đoạn khác nhau trong chuỗi sản xuất.
Xuất khẩu của Trung Quốc là vấn đề được quan tâm ở Irepas
Sản xuất thừa và xuất khẩu của Trung Quốc là vấn đề được mọi người quan tâm tại hội nghị thép dài và phế Irepas trong tuần này ở Vienna. Hội nghị Irepas đã nhấn mạnh mức công suất sản xuất thừa mở rộng ra, đưa tổng công suất của Trung Quốc ở mức 1,2 tỷ tấn/năm trong khi sản xuất là 850-870 triệu tấn/năm. Nhưng các nước khác đang ngày một mất cân bằng hơn về tỷ lệ sản xuất/tiêu thu.
Nhà tư vấn Becky Hites của Steel-Insights LLC chỉ vào sản xuất của CIS và Nhật Bản tiếp tục vượt quá khả năng của mình tiêu thụ so với Trung Quốc. “Tỷ lệ sản xuất/tiêu thụ nội địa Trung Quốc là 1.11,” cô nói, trích dẫn dữ liệu đối chiếu bởi Hiệp hội Thép Thế giới. "Vì vậy, họ không quá không đúng mực - nhưng mọi người cảm giác như nhiều hơn, vì Trung Quốc chiếm một nửa tổng sản lượng thép.”
Theo ông Li Xinchuang của Hiệp hội Sắt Thép Trung Quốc, sản xuất đã giảm 2,3% ở nước này Quốc trong năm 2015 và công suất khoảng 90 triệu tấn,. Ông nói rằng sản lượng của Trung Quốc đã đạt đến đỉnh điểm vào năm 2014 và bây giờ đang giảm xuống. Với mục tiêu để tiêu thụ của Trung Quốc đạt khoảng 482 triệu tấn vào năm 2030. Vấn đề dư thừa không chỉ là một vấn đề phải giải quyết của riêng đối với Trung Quốc, mà còn đối với tất cả các quốc gia sản xuất thép, ông Li nói.
Các diễn giả khác đã tỏ ra hoài nghi. “Mối quan tâm thực sự không phải là năng lực, mà là sản xuất,” Wilhelm Alff của Duferco nói. “Một phần quan trọng của [sản xuất của Trung Quốc] đã được đẩy vào thị trường quốc tế vì nó không được tiêu thụ trong nước. Một điều rõ ràng là, phần lớn những nhà máy đó vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Sẽ có những tác động xã hội có ý nghĩa cho việc đóng cửa, chúng tôi đã nhìn thấy điều này thời gian gần đây.”
Việc đóng cửa Tata Steel tại Anh đang ảnh hưởng mạnh làm tăng mức hỗ trợ công cộng buộc chính phủ Anh tiếp tục phải can thiệp. Đóng cửa ở Trung Quốc sẽ khó khăn hơn để ban hành, do 99% các chính sách việc làm được ban hành bởi chính phủ có thể giữ cho các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh tiếp tục hoạt động. Một mô hình được trình bày bởi Li miêu tả “đảm bảo quyền của người lao động” như là bước đầu tiên trong bất kỳ kế hoạch điều chỉnh của chuẩn mới nào của Trung Quốc, khẳng định rằng việc xem xét điều này dường như không thay đổi – bất chấp cái giá phải trả của Trung Quốc đối với tình trạng nền kinh tế thị trường trong năm nay.
“Trung Quốc phải cắt giảm sản xuất vì lợi ích của mọi người,” ông Murat Cebecioglu của nhà sản xuất Icdas nói Thổ Nhĩ Kỳ. “Họ phải có những hành động cứng rắn hơn và nghiêm khắc hơn về những gì họ đang làm,” ông nói khi đề cập đến một chuỗi các sự kiện diễn ra ở tỉnh Hà Bắc và Hội nghị thượng đỉnh G20 vào đầu năm nay dẫn đến giá cả tăng và sự quay lại thị trường một cách bất ổn của các “nhà máy zombie” Trung Quốc.
Các nhà máy Ấn Độ vận động hành lang để gia hạn giá nhập khẩu tối thiểu
Các doanh nghiệp sản xuất thép Ấn Độ đang tăng cường chiến dịch của họ để gia hạn giá nhập khẩu tối thiểu hiện hành thêm 6 tháng nữa khi sắp hết hạn vào ngày 4/10 tới. Hiệp hội thép Ấn Độ (ISA), một nhóm gồm các doanh nghiệp lớn trong nước, đã ra thông báo hôm thứ Ba và tuyên bố rằng cơ quan này đã đề nghị chính phủ xem xét gia hạn biện pháp này.
Chính sách MIP được ra mắt hồi tháng 2, được gia hạn 2 tháng hôm 4/8 và số mặt hàng bị nằm trong danh sách đã giảm xuống còn 66.
Theo Tổng Thư ký hiệp hội, giá nhập khẩu tiếp tục thấp hơn so với mức giá trong nước.
Nhu cầu trong nước vẫn còn trì trệ và thép nhập khẩu giá rẻ chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng dư thừa nguồn cung. Theo Joint Plant Committee, tiêu thụ thép của cả nước chỉ tăng 1,6% so với năm ngoái đạt 33,83 triệu tấn từ tháng 4 tới tháng 8.
“Ngành thép Ấn Độ không khuyến khích sự bảo hộ mà là sự cạnh tranh công bằng”, theo ISA.
Trong khi đó, người mua càu nhàu rằng các nhà máy Ấn Độ đã tăng giá trong nước lên khoảng 6.000-7.000 Rupees/tấn (90-105 USD/tấn) kể từ khi MIP lần đầu tiên được ra mắt hôm 5/2. “Tôi không thể nhập khẩu do giá MIP, mặc dù giá thế giới thấp”, một nhà sản xuất trống ở Mumbai cho hay. Ông than phiền rằng các doanh nghiệp trong nước đã nâng giá CRC kể từ khi MIP được áp dụng. Tổng lượng thép nhập khẩu của Ấn Độ đã giảm 35% so với năm ngoái xuống còn 2,98 triệu tấn từ tháng 4 tới tháng 8.
“Chúng tôi bắt buộc phải chấp nhận mức giá cao hơn này để giữ cho việc hoạt động của mình được vận hành suôn sẻ”, một công ty sản xuất linh kiện ô tô ở miền bắc cho biết, ông này đã từng nhập khẩu HRC như là nguyên liệu. Ông lý giải việc sản xuất không thể dừng lại bởi vì các doanh nghiệp thép nâng giá.
Tuy nhiên, một vài thương nhân tràn đầy hy vọng rằng chính phủ sẽ xem xét các kháng cáo của người tiêu dùng. “Ngay cả hồi tháng 8, các nhà sản xuất đã yêu cầu gia hạn MIP thêm 6 tháng, nhưng chỉ được gia hạn thêm 2 tháng”.
Giá tối thiểu làm giảm khối lượng HRC của Hàn Quốc xuất khẩu tới Ấn Độ
Việc áp dụng chính sách giá nhập khẩu tối thiểu bắt buộc vào đầu năm nay của Ấn Độ đối với hơn 150 sản phẩm thép đã khiến cho tổng khối lượng HRC xuất khẩu của Trung Quốc tới nước này giảm sút. Theo Hiệp hội Sắt thép Hàn Quốc (Kosa), xuất khẩu HRC tới Ấn Độ trong 8 tháng đầu năm nay giảm 40,3% so với năm ngoái xuống còn 531.136 tấn.
“Nguyên nhân chính khiến xuất khẩu HRC tới Ấn Độ sụt giảm dường như là do việc áp dụng các rào cản thương mại gần đây”. Như Platts đã đưa tin trước đó, hồi tháng 2 Ấn Độ đã áp giá nhập khẩu tối thiểu (MIP) cho một loạt các loại thép bất kể xuất xứ. MIP cho HRC là 445 USD/tấn.
Nhưng nếu như MIP không đủ để làm giảm sự cạnh tranh của HRC Hàn Quốc trên thị trường Ấn Độ thì thuế chống bán phá giá mới có khả năng sẽ loại bỏ được hoàn toàn.
Từ tháng trước Ấn Độ đã đưa ra biên độ chống bán phá giá sơ bộ cho thép tấm và tấm mỏng cán nóng nhập từ 6 quốc gia trong đó có Hàn Quốc. HRC nhập từ Hàn Quốc chịu mức thuế 20-30% cho Hyundai Steel và 45-55% cho Posco. Biên độ AD cho thép tấm và tấm mỏng cán nóng là 150-160% cho Hyundai Steel và 30-40% cho Posco.
“Chúng tôi đã và đang cố gắng để chuyển hướng sang các nước khác do rào cản thương mại được dựng lên từ một số nước trong đó có Ấn Độ”, đại diện Hyundai Steel cho biết. những nỗ lực tìm kiếm thị trường xuất khác của Hyundai trùng khớp với xuất khẩu gia tăng đáng kể của HRC Hàn Quốc sang một số nước. điều đáng nói là xuất khẩu HRC từ Hàn Quốc tới Việt Nam trong 8 tháng đầu năm nay đã tăng 13,6% so với năm ngoái, tới Thái Lan tăng 45,2% so với năm trước và 31,3% tới Trung Quốc.
TSI: HRC tiếp tục giảm ở Mỹ, nhưng giá tăng ở châu Âu
Giá thép cuộn cán nóng tiếp tục leo cao ở châu Âu vào tuần trước nhưng giảm hơn nữa ở Mỹ và châu Á, The Steel Index cho biết trong báo cáo cho tuần kết thúc ngày 25/09.
Mức trung bình hàng tuần của giá tham chiếu hàng ngày TSI cho HRC ở Mỹ giảm 3usd/tấn ngắn còn 561usd/tấn ngắn FOB Midwest, và thấp hơn gần 5% so với bốn tuần trước đó. Giá thép cuộn cán lạnh ở Mỹ giảm mạnh hơn – 28usd/tấn ngắn còn 740usd/tấn ngắn FOB Midwest. Giá tham chiếu của TSI cho cuộn mạ kẽm nhúng nóng và thép tấm cũng giảm trong tuần trước.
HRC ở châu Á cũng giảm gần 5% trong bốn tuần qua, và số liệu mới nhất của TSI cho vật liệu này là 385usd/tấn CFR cảng ASEAN. Giá CRC cũng giảm 1usd/tấn trong tuần trước nhưng thép tấm ổn định ở mức 375usd/tấn.
Ngược lại, mức trung bình hàng tuần của giá tham chiếu hàng ngày TSI của HRC ở miền bắc và miền nam châu Âu đều tăng 3euro/tấn, lên mức 435euro/tấn và 408euro/tấn, tương ứng, cả hai giá đều theo cơ sở giá xuất xưởng nhà máy. CRC ở miền nam châu Âu đã tăng 20euro/tấn và thép tấm tăng 2euro/tấn, nhưng HDG giảm. Thép cây giảm 2% còn 385euro/tấn xuất xưởng nhà máy.
Tại Bắc Âu TSI cho biết thép cuộn dẹt tăng 4euro/tấn cho cả CRC và HDG và tăng 3euro/tấn cho thép tấm. Thép cây không thay đổi trong tuần ở mức 412euro/tấn xuất xưởng nhà máy nhưng vẫn thấp hơn 5,5% so với mức cách đây bốn tuần trước.
Thái Lan cân nhắc mức thuế AD 6.2-40.49% cho tôn nhập từ Việt Nam
Bộ Thương mại Thái Lan đã đề xuất thuế chống bán phá giá cuối cùng 6.20-40.49% áp dụng cho thép tấm mạ hợp kim nhôm kẽm từ Việt Nam. Nhưng sẽ thực hiện thảo luận thêm trước khi đưa ra quyết định.
Bản dự thảo cuối cùng của vụ kiện chống bán phá giá đã được gởi tới các bên có liên quan trong một lá thư ngày 20/9 và phản hồi đã được tìm kiếm từ các bên. Thuế được đề xuất cho 5 doanh nghiệp Việt Nam và những nước khác.
Buổi điều trần sẽ được diễn ra giữa các bên vào ngày 12/10. Một cuộc họp với sự tham dự của Ủy ban chống bán phá giá và sau đó được chủ trì bởi Bộ trưởng Thương mại, quyết định và hành động chống bán phá giá cuối cùng sẽ được thực hiện sau đó.
Khi được hỏi đại diện cho biết không có thuế chống bán phá giá sơ bộ trong trường hợp này.
Như đã đưa tin trước đó, Bộ Thương mại đã bắt đầu mở cuộc điều tra chống bán phá giá đối với các sản phẩm hợp kim nhôm kẽm từ Việt Nam có mã số thuế 7210.61, 7212.50, 7225.99 và 7226.99 vào cuối tháng 9 năm ngoái. Nguyên đơn trong vụ này là NS BlueScope (Thailand).
NSSC nâng giá thép dây không gỉ trong nước
Nippon Steel & Sumikin Stainless sẽ nâng giá thép dây austenite và ferrite lên lần lượt 15.000 Yên/tấn (144 USD/tấn) và 5.000 Yên/tấn (50 USD/tấn) cho các hợp đồng tháng 9 tới tháng 11 (sản xuất tháng 10 tới tháng 12). Động thái này phản ánh phụ phí hợp kim cao hơn.
Đại diện NSSC không bình luận gì hôm thứ Ba nhưng công ty cho biết trong một thông báo rằng giá niken bình quân từ ngày 27/6-23/9 đã tăng 0,66 USD/lb so với 3 tháng trước đó lên 4,47 USD/lb và giá ferrochrome cho tháng 7-9 tăng 16 cents/lb lên 106 cents/lb.
Do Yên nhật trong suốt thời gian đó tăng lên 103,33 Yên đổi 1 USD từ 109,38 Yên đổi 1 USD, nên theo công thức phụ phí của NSSC cần phải điều chỉnh lại giá sản phẩm.
NSSC cho biết nhu cầu thép dây không gỉ trong nước đã ổn định từ lĩnh vực sản xuất ô tô và xây dựng nhưng nhu cầu từ nước ngoài đã chậm lại do cân bằng cung cầu suy yếu và tăng trưởng kinh tế trì trệ hơn ở Đông Á và Đông Nam Á.
NSSC cũng lưu ý rằng sự ảnh hưởng của đồng Yên mạnh hơn là không thể dự báo được, sự tăng giá của đồng nội tệ có lẽ sẽ có một tác động tiêu cực lên đơn hàng và lợi nhuận. Hàng nhập khẩu cập cảng có lẽ cũng sẽ tăng.
Nhưng công ty đã và đang hoạt động dây chuyền thép dây tại xưởng Hikari với 100% công suất và dự báo việc này sẽ tiếp diễn trong suốt 3 tháng cuối năm. NSSC có công suất thép dây không gỉ khoảng 130.000 tấn/năm.
Giá thép cây miền bắc Trung Quốc tiếp tục lao dốc trong bối cảnh sức mua trì trệ
Hôm thứ Ba giá thép cây tiếp tục rớt ở miền bắc Trung Quốc xuống mức thấp nhất trong hơn 1 tháng khi niềm tin thị trường bị ảnh hưởng bởi sự lao dốc của giá giao kỳ hạn ở Thượng Hải. Giao dịch trì trệ tiếp tục gây sức ép lên thị trường giao ngay, và các thương nhân đã cố gắng thanh lý hàng tồn kho bằng cách hạ giá trước khi nghỉ lễ Quốc khánh.
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 27/9, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được định giá 2.435-2.455 NDT/tấn (365-368 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 15 NDT/tấn (2 USD/tấn) so với thứ Hai. Đây là mức giá thấp nhất kể từ ngày 10/8.
Các thương nhân đã cố gắng đẩy nhanh tiến độ bán hàng để giảm bớt hàng tồn trước lễ vì triển vọng thị trường cho tháng 10, mùa cao điểm, đã trở nên khá bất ổn vì xu hướng thị tường thép gần đây. Giá phôi thép và hợp đồng giao sau suy yếu đã làm “bào mòn” niềm tin thị trường.
Giá niêm yết phôi thép của các nhà sản xuất ở thành phố Đường Sơn đã giảm 40 NDT/tấn (6 USD/tấn) hôm thứ Ba.
Theo Mysteel, thép cây tồn kho tại Bắc Kinh tính tới ngày 23/9 đã tăng thêm 8.400 tấn tức 3,5% so với tuần trước đó lên 247.400 tấn. Trong khi đó, thép cây tồn kho trên cả nước tăng 0,4% so với tuần trước đó lên 4,41 triệu tấn, nhưng giảm 4% so với năm ngoái.
Cùng ngày, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 1/2017 trên sàn Shanghai Futures Exchange đã giảm 43 NDT/tấn (1,9%) so với ngày trước đó chốt tại 2.273 NDT/tấn.
Thép cây Châu Á duy trì ổn định mặc dù thị trường Trung Quốc rớt giá
Hôm 27/9, giá thép cây giao ngay tới Châu Á duy trì ổn định trong ngày thứ 3 liên tiếp vì các nhà máy Trung Quốc lưỡng lự hạ chào giá mặc dù giá giao ngay và giao sau trong nước đều giảm, chủ yếu là do chi phí nguyên liệu cao. Người mua do dự đặt đơn hàng vì họ dự báo giá giảm sau tuần nghỉ lễ Quốc khánh bắt đầu từ thứ Bảy tuần này.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở mức 328-332 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế, không đổi so với ngày trước đó.
Chào giá từ các nhà máy Trung Quốc tới Hong Kong vẫn duy trì khoảng 345-350 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 336-341 USD/tấn FOB, phí vận chuyển 9 USD/tấn. Tuy nhiên có ít giao dịch được thực hiện vì khách hàng dự báo giá sẽ tiếp tục giảm sau lễ do nhu cầu trì trệ.
Người mua tại Hong Kong đang muốn hỏi mua với giá 335 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế (326 USD/tấn FOB).
Chào giá cho thép cây Trung Quốc vẫn ổn định mức 340-345 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết, tương đương 337-342 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 13 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Nhưng các nhà máy Trung Quốc không sẵn lòng hạ chào giá xuống thấp hơn trong tương lai gần.
Hai nhà máy ở miền đông vẫn giữ chào giá không đổi ở mức 350 USD/tấn CFR Hong Kong và 340 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Một nhà máy ở miền bắc cho biết ông không chắc mức nào để chào bán bây giờ, vì ông đã bị lỗ dù thị trường có xu hướng như thế nào.
HRC Châu Á ổn định mặc dù giá Trung Quốc suy yếu hơn
Các nhà máy và thương nhân Trung Quốc đi ngược xu hướng hạ chào giá cho HRC xuất khẩu hôm thứ Ba mặc dù giá trong nước giảm. Platts định giá SS400 HRC 3.0mm ở mức 367-373 USD/tấn FOB Trung Quốc, bằng với ngày trước đó. Tại thị trường Thượng Hải, Q235 5.5mm HRC được định giá 2.730-2.740 NDT/tấn (409-411 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, giảm 15 NDT/tấn so với ngày trước đó.
“Hầu hết người bán đều muốn bình ổn giá trước khi nghỉ lễ Quốc khánh”, một thương nhân ở Thượng Hải nói để giải thích lý do tại sao không có người bán nào hạ chào giá mặc dù giá thị trường trong nước đã suy yếu.
“Dường như cả người bán và mua sẽ đợi cho tới sau lễ”, một thương nhân người Việt cho biết thêm là có vài khách hàng đã đưa ra giá mua 385 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển 8 USD/tấn) cho thép cuộn SAE giao tháng 11.
Người mua tại Hàn Quốc cũng không đặt đơn hàng tuần này vì hầu hết đã mua đủ tích trữ vào tuần trước. Tuy nhiên, một nhà máy ở đông bắc Trung Quốc bày tỏ quan ngại về giá xuất khẩu sau khi nghỉ lễ, do đơn hàng hạn chế mà nhà máy đã nhận được. thế nhưng nhà máy vẫn duy trì chào giá cho SS400 HRC ở mức 390 USD/tấn FOB Trung Quốc để giao tháng 11.
Tại Việt Nam, thép cuộn SAE được sản xuất bởi Benxi Iron & Steel ở đông bắc Trung Quốc được chào giá 390-395 USD/tấn CFR Việt Nam để giao tháng 12 và 1. Một nhà máy Ấn Độ chào giá 430-435 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn cùng loại.
Giá thép tấm Đông Á phục hồi sau khi lao dốc
Giá thép tấm thương phẩm xuất khẩu của Trung Quốc đang nhích lên ở Đông Á sau khi lao dốc vào đầu tháng này. Giá của thép tấm 12-50mm đang phổ biến ở mức 365-380 USD/tấn CFR Đông Á, tăng khoảng 10 USD/tấn so với đầu tuần trước.
“Các nhà máy muốn nâng giá thép tấm bởi vì kiểm soát ô nhiễm và giao thông”. Những nhà máy này đã nâng giá lên khoảng 10 USD/tấn trong hai tuần qua và nhất là tuần này. Như &P Global Platts đưa tin trước đó, thứ Tư tuần trước Bộ Giao thông vận tải Trung Quốc đã bắt đầu thi hành các quy định vận tải nghiêm ngặt hơn cho xe thương mại, điều này dẫn đến phí vận chuyển thép bằng xe tải cao hơn.
“Các nhà cung cấp Trung Quốc có xu hướng tăng giá thép sau khi đạt được mục tiêu doanh số. điều này dường như là lý do tại sao giá thép tấm đã tăng khoảng 10 USD/tấn kết từ tuần trước”, một thương nhân ở Seoul trao đổi với Platts. Ông cho biết giá có thể tiếp tục tăng cho đến tuần tới do nghỉ lễ Quốc khánh và ông dự báo giá sẽ tăng nhẹ hơn nữa sau lễ. Chào giá thép tấm Trung Quốc đang phổ biến khoảng 365 USD/tấn CFR Hàn Quốc.
Một đơn hàng cho thép tấm Trung Quốc được ký kết trong tuần này với giá 372 USD/tấn CFR Manila. Chào giá ở Manila tuần trước phổ biến ở mức 365-370 USD/tấn CFR. Ông lưu ý chào giá đã rớt gần 30 USD/tấn từ mức đỉnh của tháng 8.
Tại Việt Nam, thị trường trầm lắng với không có giao dịch nào được nghe nói. Chào giá đang phổ biến khoảng 380 USD/tấn CFR.
Một thương nhân người Thái cho biết ông đã không có bất cứ giá thép tấm nào và cho rằng điều này là do các tiêu chuẩn được sửa đổi mới được thông báo cho thép tấm bởi Viện Tiêu chuẩn Thái Lan.
Định giá hàng tháng của Platts cho thép tấm thương phẩm Q235/SS400 12-25mm cuối tháng 9 là 365-385 USD/tấn CFR, giảm từ 370-390 USD/tấn CFR của cuối tháng 8. Mức giá trung bình 375 USD/tấn CFR là thấp hơn tháng trước 5 USD/tấn.
Giá xuất khẩu CRC của Trung Quốc tăng
Giá xuất khẩu cho CRC xuất xứ Trung Quốc đã tăng nhẹ từ tuần trước do giá trong nước lên cao hơn. Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 435-440 USD/tấn FOB Trung Quốc, tăng 5 USD/tấn so với tuần trước. Chênh lệch giá xuất khẩu giữa CRC với HRC là 67,5 USD/tấn.
Cùng ngày, giá trong nước cho CRC SPCC 1.0mm là 3.430-3.450 NDT/tấn (514-517 USD/tấn), cao hơn tuần trước 60 NDT/tấn. Một số thương nhân trong nước cho biết giá tăng có khả năng là một sự điều chỉnh thị trường sau khi rớt trong suốt gần như cả tháng 9.
Theo các nhà xuất khẩu mà Platts khảo sát thì chào giá từ các nhà máy lớn vẫn là 445 USD/tấn FOB trở lên, không đổi so với tuần trước đó. Tuy nhiên, giá giao dịch đã dần tăng. “Các giao dịch 1.000-2.000 tấn CRC đã được chốt với giá 440 USD/tấn FOB (với một nhà máy lớn ở miền bắc Trung Quốc), trong khi đầu tuần trước chỉ có các giao dịch nhỏ khoảng vài trăm tấn có thể được chốt ở mức giá này”, một nhà xuất khẩu ở miền nam cho hay.
Một số nhà xuất khẩu cũng tuyên bố một vài giao dịch đã được chốt với một nhà máy lớn ở đông bắc với giá 433-435 USD/tấn FOB trong tuần trước. Nhưng do giá thị trường nội địa tăng nên nhà máy này do dự để đưa ra mức thấp 433 USD/tấn FOB tuần này.
“Nhu cầu trên thị trường xuất khẩu không có nhiều sự cải thiện vì vậy giá xuất khẩu có thể vẫn được thương lượng xuống dưới 440 USD/tấn FOB – mặc dù không nhất thiết phải ở mức thấp 433 USD/tấn FOB”, một thương nhân ở Thượng Hải nói. Ông đồng tình rằng đà tăng của giá trong nước ít ra cũng cho thấy các nhà máy tự tin duy trì chào giá ổn định.