Khối lượng phế giao dịch trên sàn LME lập kỷ lục vào tháng 11
Khối lượng phế giao dịch trên sàn LME lập kỷ lục vào tháng 11 này với vài ngày không có giao dịch.
Tình tới thứ sáu tuần trước (24/11), tầm 24.447.140 tấn phế đã được giao dịch so với mức 372.140 tấn trong tháng 10. Trong ngày thứ hai (27/11), tầm 37.300 tấn phế được giao dịch chỉ trong một buổi sáng.
Giao dịch phế tháng này đạt kỷ lục sau khi lượng giao dịch chỉ trong một ngày thứ năm (23/11) ở mức cao tới 20.000 tấn (2.000 lots). Một thành viên cho biết đó là một quảng cáo tốt cho hợp đồng phế, thu hút chú ý ở thị trường giao ngay. Thị trường tiếp tục có tin đồn rằng một bên giao dịch là một nhà cung cấp phế giao ngay nhưng chưa có thông tin xác nhận.
Một thành viên khác cho rằng người bán sẽ giữ vị thế contango mạnh trong tháng 12 và 1 so với thị trường giao ngay. Giao dịch tháng 12 tăng từ 329 USD/tấn lên 332 USD/tấn trước khi giảm xuống 330 USD/tấn. Tháng 1 bắt đầu giao dịch ở mức 333 USD/tấn trong ngày thứ hai và sau đó tăng lên 334 USD/tấn vào lúc 15:32 pm giờ London.
Giao dịch trên sàn kỳ hạn tăng nhờ hậu thuẫn bởi giá giao ngay tới Thổ Nhĩ Kỳ tăng và hàng loạt lô hàng được chốt vào hôm thứ hai tuần trước, với giá cao nhất là 323 USD/tấn CFR từ một nhà cung cấp Bantic tới nhà máy thép Iskenderun.
Sàn LME giao dịch ở mức cao trong mấy tuần qua, với giao dịch tháng 1 ở mức 329 USD/tấn trong ngày 17/11 trong khi giao dịch tháng 2 cũng 329 USD/tấn.
Thị trường thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ bùng nổ đợt tăng giá mới
Thị trường thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tăng trưởng trở lại vào hôm thứ hai do vài nhà máy và các nhà môi giới tăng giá chào bán dựa vào chi phí phế tăng và đồng Lira suy yếu.
Nhà máy Icdas tăng giá niêm yết thép cây 12-32mm thêm 30 Lira/tấn (7.60 USD/tấn) lên 2.560 Lira/tấn xuất xưởng cho Istanbul và 2.530 Lira/tấn xuất xưởng cho Biga, Canakkale. Giá đã tính VAT18% và tương đương 550 USD/tấn và 543 USD/tấn chưa thuế. Icdas cũng tăng giá thép cây 10mm lên mức 2.570 Lira/tấn xuất xưởng trong khi loại 8mm tăng lên 2.580 Lira/tấn xuất xưởng Istanbul.
Giá niêm yết thép dây 7-8.5mm của công ty cũng tăng cùng mức lên 2.690-2.720 Lira/tấn xuất xưởng có thuế. Trong khi đó, nhà máy này chỉ nhận đơn hàng giao tháng 1. Vài nhà máy khác cũng chỉ nhận đơn hàng giao cuối tháng 12 và tháng 1. Điều này giúp gia tăng nguồn cung có sẵn trong nước.
Icdas đang hoạt động sôi nổi hơn ở thị trường nhập khẩu phế trong mấy tuần gần đây, tìm kiếm phế từ Bantic/Châu Âu và Mỹ. Một giao dịch phế HMS I/II Mỹ chốt ở mức 321 USD/tấn CFR.
Một nhà máy khác là Bastug Metalurji cũng tăng giá thép cây thêm 30 Lira/tấn (7.60 USD/tấn). Với lần tăng này, giá niêm yết cho thép cây 12-32mm tăng lên 2.530 Lira/tấn xuất xưởng. Giá cho thép cây 10mm tăng lên 2.540 Lira/tấn xuất xưởng trong khi loại 8mm đạt mức 2.550 Lira/tấn có VAT.
Vài nhà môi giới cũng tăng giá chào bán trong nước dựa vào vấn đề thiếu hụt nguồn cung trong nước. Giá chào cho thép cây 12-32mm ở Marmara vượt mức 2.650 Lira/tấn đã tính thuế.
Giá HDG Mỹ ổn định
Giá HDG Mỹ hầu như ổn định trong tuần qua do thị trường đang hấp thụ mức tăng mới đây và chi phí mạ kẽm tăng.
Platts giảm giá HDG 16-gauge phủ 90g kẽm/m2 xuống 1.25 USD/tấn so với tuần giữa tháng còn 859.25 USD/tấn vào tuần trước.
Một nhà máy Mỹ bán hơn 2.500 tấn tại mức 905 USD/tấn trong tuần trước đã tính phụ phí mạ kẽm nhưng giá giao dịch theo một nhà máy khác báo cáo chỉ 830-835 USD/tấn.
Một nhà máy cho biết vẫn có sự suy yếu trên thị trường HDG dù các nhà máy Mỹ thông báo tăng giá gần đây. Hồi giữa tháng 11 họ đã thông báo tới khách hàng rằng sẽ tăng giá tấm mỏng thêm 30 USD/tấn.
Thông báo trên giúp thu hẹp chênh lệch giá trên thị trường nếu không thể hỗ trợ giá giao dịch tăng. Ngoài ra, các thông báo tăng giá phụ phí mạ kẽm trong 2 tuần qua là hợp lý và những nhà máy nào chưa thông báo cũng sẽ hưởng ứng. Tuy nhiên, để tăng giá thép đồng thời tăng cả phụ phí cùng một lúc là thách thức lớn cho người bán.
Đơn hàng từ các nhà sản xuất ô tô giảm trong tháng 12 đã gây áp lực cho giá nhưng áp lực này chỉ ngắn hạn.
Tại thị trường HRC, các nhà máy tiếp tục đặt mục tiêu giá 640 USD/tấn xuất xưởng sau lễ Tạ ơn tuần trước. Một trung tâm dịch vụ cho biết giá chào HRC tầm 620-640 USD/tấn.
Platts giảm giá HRC Mỹ xuống 25 cents/tấn so với thứ tư tuần trước xuống 627 USD/tấn trong khi tăng CRC thêm 4.75 USD/tấn lên 791.75 USD/tấn.
Một nhà máy báo cáo đơn hàng CRC ở mức 829 USD/tấn từ thứ tư tuần trước nhưng có vài giá chào bán tiếp tục được nghe dưới mức 800 USD/tấn.
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá chào xuất khẩu dựa vào đà tăng giá trong nước
Các nhà máy xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ giá chào vào hôm qua theo đợt tăng giá mới trong nước. Dù vậy, người mua vẫn lo ngại về tính bền vững của lần tăng này.
Chào giá trong nước tăng dựa vào chi phế phế tăng và đồng Lira suy yếu. Một nhà máy cho biết thời gian giao hàng đang mở rộng, làm đòn bẩy cho các nhà máy tăng giá. Trong khi đó, giá tăng ở thị trường xuất khẩu nhận được ít hỗ trợ hơn.
Dù vây, mục tiêu giá xuất khẩu mới ở mức 530-540 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế. Hai nhà máy cho biết có thể đạt mục tiêu giá 530 USD/tấn FOB nhưng không có nhiều ý kiến đồng tình.
Các nguồn tin cho rằng rằng triển vọng thép cây xuất khẩu Trung Quốc lạc quan là cơ hội cho các nhà xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ và CIS nhưng giá vẫn có thể giảm trong ngắn hạn. Tâm lý thị trường đang thận trọng.
Thị trường xuất khẩu đang chậm chạp. Người mua đang chờ đợi xem liệu đà tăng giá có bền vững hay không.
Một thương nhân cho biết đã đặt mua thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 510 USD/tấn FOB Marmara cách đây 2-3 tuần nhưng giá này chắc chắn không còn nữa sau khi các nhà máy tăng giá. Trong khi đó, ông không có ý định nhập khẩu vì mùa đông tốt cho việc mua hàng trong nước với nhu cầu tiêu thụ hạn chế , chỉ mua đủ dùng thay vì mua trữ.
CRC Nga nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng mạnh nhưng giá ổn định
Nhập khẩu CRC vào Thổ Nhĩ Kỳ trong 9 tháng đầu năm nay tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái lên 608.8000 tấn, với khối lượng tăng mạnh từ Nga và Romani.
Nga đã bán 310.000 tấn tới Thổ Nhĩ Kỳ trong cùng giai đoạn, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khảu từ Romania tăng 12% lên 72.000 tấn. Nhập khẩu từ Ukraina giảm xuống 90.800 tấn trong 9 tháng đầu năm nay từ mức 107.235 tấn cùng kỳ năm ngoái.
Nhập khẩu CRC từ ba nước này chiếm 70% trong tổng lượng CRC nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ trong cùng giai đoạn trên.
Chào giá CRC từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 580-585 USD/tấn FOB trong mấy ngày gần đây trong khi nguyên liệu Ba Lan và Ai Cập được chào ở mức 640-645 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, giá từ hai nước này quá cao so với Thổ Nhĩ Kỳ.
Đà giảm giá CRC Thổ Nhĩ Kỳ trong những tuần trước đã ngưng lại trong mấy ngày nay nhờ HRC ổn định nhưng tiêu thụ tiếp tục chậm chạp do phần lớn người mua không muốn trữ nhiều hàng trước Năm mới.
Một nhà máy lớn đã tăng giá chào bán CRC thêm 10-15 USD/tấn lên 635-640 USD/tấn xuất xưởng từ mức thấp 635-640 USD/tấn xuất xưởng ở trong nước trong khi khi số khác giữ ổn định ở mức 660-670 USD/tấn xuất xưởng.
Thị trường nội địa tăng trưởng tiếp tục hỗ trợ giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tăng ngày thứ tư liên tiếp tính tới hôm qua dựa vào sự tăng trưởng của thị trường nội địa và không có áp lực cạnh tranh từ các nước thứ ba.
Platts tăng giá xuất khẩu thép cây BS500 đường kính 16-20mm Trung Quốc thêm 5 USD/tấn lên 523-525 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Chỉ một nhà máy ở miền đông Trung Quốc tăng giá chào thêm 10 USD/tấn lên 570 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế so với ngày thứ sáu tuần trước. Giá này tăng 30 USD/tấn so với thứ hai tuần trước. Một nhà máy khác chào bán ở mức 605 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế trong khi hai nhà máy khác ngưng chào bán.
Tại Singapore, một thương nhân cho biết chào giá thép cây 10-40mm Ấn Độ ở mức 550-560 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao tháng 2. Người mua chưa ra giá chào mua và quyết định chờ đợi. Một nhà phôi phối đã có đủ hàng dự trữ cho tới Q2 năm sau nên chỉ hứng thú với những giá chào cực kỳ thu hút.
Thị trường Hồng Kông cũng im ắng do không thương nhân nào chào mua. Một nhà môi giới cho hay đang chờ giá chào từ Ấn Độ cho lô hàng giao tháng 2.
Giá tấm dày Nhật Bản tăng
Giá tấm dày Nhật Bản tiếp tục tăng vào hôm thứ hai nhờ các nhà máy lớn tăng giá trong mấy tuần gần đây và tiêu thụ mạnh trong mùa xây dựng.
Giá thị trường cho tấm dày SS400 19mm (1.524 x 3.480mm) tại Tokyo ở mức 86.000-87.000 Yên/tấn (772-781 USD/tấn) tăng 1.000 Yên/tấn so với cuối tháng 10.
Hầu hết các nhà máy tấm dày đều tăng giá hoặc đang tìm cách tăng giá, buộc các nhà môi giới phải chọn lựa đơn hàng nhận vào. Một người cho biết muốn giá bán tới 90.000 Yên/tấn vào cuối tháng 12 nếu như chưa thể tăng được trước thời điểm đó.
Nhà máy Nippon Steel và Sumitomo Metal Corp đã tăng 3.000 Yên/tấn cho các đơn hàng giao ngay từ tháng 10. Nhà máy mini Tokyo Steel Manufacturing đã tăng giá tấm dày tháng 12 thêm 3.000 Yên/tấn sau khi đã tăng giá trước đó cho tháng 9 và 10 thêm tổng cộng 5.000 Yên/tấn.
Chubu Steel Plate đã quyết định tăng 3.000 Yên/tấn cho các hợp đồng tháng 12 sau khi tăng cùng mức cho các hợp đồng tháng 9. Các mức tăng không giống nhau nhưng chắc chắn một điều các nhà máy đều đang tăng giá và cán cung cung-cầu thắt chặt.
Một thương nhân Tokyo cho biết tiêu thụ tấm dày đóng tàu vẫn chậm nhưng đang tăng. Hàng nhập khẩu giảm cũng đang trợ giá.
Theo các dữ liệu mới nhất, tồn kho tấm dày nhập khẩu tại các cảng lớn Nhật Bản là Tokyo và Osaka vào cuối tháng 9 giảm 15.4% so với tháng 8 xuống 13.000 tấn. Tồn khô cuối tháng 9 giảm 45% so với cuối tháng 4.
Giá HRC Ấn Độ ổn định do nhu cầu tiêu thụ suy yếu
Giá HRC Ấn Độ ổn định vào hôm thứ hai so với tuần trước do nhu cầu tiêu thụ tiếp tục suy yếu. Các nhà máy Ấn Độ đang đặt mục tiêu xuất khẩu ra ngoài nước.
Giá HRC IS 2062 2.0mm giao tới Mumbai vẫn ổn định ở mức 37.250-38.250 Rupees/tấn (572-588 USD/tấn). Với thuế trung ương 2% và 5% VAT, giá gần mức 39.895-40.965 Rupees/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ tiếp tục trì trệ mặc dù dự báo giá tăng sau lễ hội (tháng 10-tháng 11). Phần lớn các nhà tiêu thụ cuối đang trong tình trạng thiếu thanh khoản.
Các nhà máy Ấn Độ không quá lo lắng về tình trạng đơn hàng trong nước nghèo nàn vì sẽ tập trung xuất khẩu. Trong ngày thứ hai, các nhà máy chào bán HRC SAE 1006 tại mức 560 USD/tấn CFR Việt Nam. Các nhà máy ưa chuộng việc thanh lý hàng tồn ra ngoài nước hơn là trữ tại kho dựa vào sức mua trong nước chậm chạp.
Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ HRC Ấn Độ dường như suy yếu vào tháng 12.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định do người mua kháng cự giá tăng
Các nhà máy Trung Quốc vẫn duy trì giá chào bán HRC ổn định vào ngày hôm qua trong bối cảnh giá nội địa tăng nhưng người mua từ chối đặt hàng.
Platts giữ nguyên chào giá HRC SS400 3.0mm xuất khẩu Trung Quốc tại mức ổn định 546-548 USD/tấn FOB. Giá tính theo CFR Đông Á là 556-558 USD/tấn.
Giá HRC Q235 5.5mm tại Thượng Hải tăng 40 NDT/tấn lên 4.130-4.150 NDT/tấn (626-629 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Một nhà máy ở miền bắc giữ giá chào ổn định ở mức 565 USD/tấn FOB Trung Quốc cho HRC SS400. Nhiều nhà máy khác ngưng chào bán và họp nội bộ để quyết định chính sách giá phù hợp.
Sau khi giá nội địa Trung Quốc tăng, một nhà máy ở miền bắc Trung Quốc tăng giá chào thêm 10 USD/tấn lên 600 USD/tấn FOB. Người mua không quan tâm tới các giá chào cao như vậy.
Một chào mua nghe trong ngày ở mức 548 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 1 nhưng phía nhà máy bán không chấp nhận.
Đối với thép cuộn SAE, các nguyên liệu từ Nga và Ấn Độ vẫn rẻ hơn. Giá chào cho thép cuộn cán lại Ấn Độ ở mức 560 USD/tấn CFR Việt Nam, tăng 3 USD/tấn so với thứ năm tuần trước.
Một nhà máy Hàn Quốc chào bán tại mức 570 USD/tấn CFR Việt Nam, giảm 20 USD/tấn so với tuần trước.