Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 28/3/2014

Giá tăng nhưng sức mua chậm chạp

Tuần qua, các nhà máy Mỹ đã cố gắng ngăn đà giảm giá thép thành phẩm với bước đầu thành công trong việc tăng được giá HRC thêm  10 USD/tấn ngắn. Gía phế cũng tiếp tục tăng và quặng có sự khởi sắc nhẹ . Tuy nhiên, giá chỉ tăng ở một vài trường hợp. Trong khi các nhà máy cố gắng tăng giá thi nhiều người mua vẫn chờ giá giảm rồi mới mua vào.

Theo báo cáo, nền sản xuất Mỹ tiếp tục được cải thiện cuối Qúy 1 với sản lượng và các đơn hàng mới tăng mạnh. Tuyển dụng cũng tiếp tục tăng. Điều này dẫn tới sự cải thiện trong nhu cầu tiêu thụ xe hơi và hàng gia dụng, tuy nhiên cho tới giờ phút này giá thép dẹt vẫn giảm mà lý do chính nhất là do giá phế rẻ khiến giá cả từ các nhà  máy hồ quang điện cạnh tranh  hơn so với các lò cao.

Mặc dù khối lượng giao dịch còn thấp, quyết định giữ giá của các nhà máy đã giúp thúc đẩy giá chào tăng và thị trường cũng khởi sắc. Nguồn hàng tồn kho không cao và có nhiều điều kiện thuận lợi hỗ trợ các nhà  máy Mỹ tăng giá.

Giá xuất khẩu Bờ Biển Đông Mỹ tăng với giá chào xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ tăng. Ở cả hai thị trường này, dự báo giá phế sẽ còn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, số lwuongj giao dịch còn hạn chế và sức mua còn thấp. Định giá phế HMS  1/ 2  80:20 theo Platts tăng 3.5 USD/tấn tuần qua, đạt mức 371.5 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ kỳ trong ngày 21/3.

Tại Trung Quốc, chỉ số PMI có dấu hiệu tích cực do các đơn hàng xuất khẩu mới tăng trở lại. Tuy nhiên, các chỉ số khác có chiều hướng xấu. Số lượng các giao dịch mới giảm với tốc độ nhanh hơn so với tháng 2 trong khi hàng tồn giảm nhưng tốc độ chậm hơn tháng trước.

Trong khi đó, giá quặng đã ngưng giảm vào tuần qua với tâm lý thị trường có phần tốt hơn. Shagang Group thông báo sẽ giữ nguyên giá thép cây xuất xưởng trong giai đoạn 21-31/3 sau 3 lần cắt giảm liên tiếp trước đó. Tuy nhiên, tại thị trường thép cây giao ngay Bắc Kinh, giá thép cây giảm 17 NDT/tấn so với tuần trước đó do cán cân cung cầu mất cân bằng tiếp tục trì hoãn thị trường thép.

Tại Bắc Âu, giá HRC theo Platts giảm 5 USD/tấn tuần qua, đạt mức 430-440 Euro/tấn (592-606 USD/tấn) trong khi CRC tại Nam Âu giảm 10 Euro/tấn do nhu cầu tiêu thụ yếu, sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng nhập khảu và giá nguyên liệu thô goảm. Tại Ý, tất cả các nhà máy đều bán HRC tại mức 410 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản.

 

Giá xuất khẩu  phế Mỹ tới Đông Nam Á tăng

Giá nhập khẩu phế vào Đài Loan tuần này đã tăng cùng với xu hướng giá phế thế giới khởi sắc. Mặc dù sức mua hời hợt từ các nhà máy thép Đài Loan, giá xuất khẩu phế HMS I/II (80:20) trọng tải nhỏ cũng đã tăng lên mức 347-350 USD/tấn CFR Đài Loan từ mức 340-342 USD/tấn cfr trước đó.

Platts tăng giá phế HMS I/II (80:20) trọng tải nhỏ thêm 7 USD/tấn, đạt mức 317-322 USD/tấn FAS Los Angeles. 

Nhà  máy Feng Hsin Iron & Steel Đài Loan đã  tăng giá chào bán thép  cây trong nước và giá thu mua phế thêm 200 Đài  tệ/tấn (6.55 USD/tấn) trong ngày 24/3 dựa vào giá phế thế gới tăng. Trước đó, hồi giữa tháng 3, nhà máy này đã hạ giá hai mặt hàng trên xuống 200 Đài tệ/tấn.

Trong khi đó, thị trường nhập khẩu phế Mỹ  trọng tải lớn vào Đông Nam Á vẫn trầm lắng. Các nhà cung phế mỹ tin rằng có thể bán được tại mức giá 370 USD/tấn CFR Hàn Quốc đối với phế Số 1 trong khi các nhà máy thép Châu Á muốn mua tại mức giá sát giá tuần trước. Trong tuần trước, Dongkuk Steel đặt mua lô hàng phế giao tháng 4 trọng tải lớn từ Mỹ tại  mức giá 359 USD/tấn CFR Hàn Quốc.

Một nhà cung phế Mỹ đang chào phế trọng tải lớn tới  Đài Loan tại mức  giá 375 USD/tấn CFR. Nhà máy này tin rằng giá chào tới Hàn Quốc sẽ đạt mức 370 USD/tấn CFR Hàn Quốc. Chính khoảng cách giữa giá chào bán và mua đã làm chậm lại các hoạt động thu mua trên thị trường Bờ Biển Tây mỹ 2 tuần qua.

Đầu tuần này, một nhà máy Đài Loan đã đặt mua 10.000  tấn phế A3 Nga với giá 363 USD/tấn CFR. Gần đây, các đơn hàng đặt mua phế từ Hàn Quốc bao gồm một lô hàng 60.000 tấn phế A3 Nga giao tháng 5 chốt tại mức 353 USD/tấn CFR.

 

Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định theo giá trong nước

Giá HRC Trung Quốc hôm thứ Năm duy trì ổn định sau khi bật tăng trong ngày thứ Tư nhờ sự phục hồi của giá giao sau. Căn cứ vào sự ổn định của giá trong nước, các nhà xuất khẩu không muốn hạ giá xuất khẩu HRC xuống thêm bất kỳ đồng nào nữa mặc dù sức mua ở nước ngoài vẫn còn trì trệ.

Hôm thứ Năm, HRC Q235 5.5mm có giá 3.320-3.350 NDT/tấn (535-540 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 3.390-3.420 NDT/tấn tại Lecong (Quảng Đông), cả hai đều không đổi so với ngày thứ tư. Tại Platts, giá xuất khẩu của HRC SS400B dày từ 3mm trở lên trong tuần này có giá 515-520 USD/tấn FOB, không đổi so với tuần trước.

Nhiều thương nhân tin rằng giá tháng 04 của HRC trong nước sẽ ổn định hơn so với tháng 03, họ nghĩ rằng việc giá bật tăng đáng kể là chuyện không thể. Tuy HRC tồn kho không cao và nhu cầu tăng trong tháng 04  nhưng triển vọng ảm đạm cùng với thanh khoản bị hạn chế khiến các thương nhân chỉ mua đủ số lượng cần thiết và giữ hàng tồn kho thấp.

Tại thị trường xuất khẩu, một số thương nhân cho biết một vài giao dịch được chốt với giá khoảng 515 USD/tấn FOB, không đổi so với tuần trước. Nhưng một thương nhân cho biết các nhà máy đã dần trở nên do dự để bán với giá này vì HRC trong nước đã lên giá.

Vẫn có đủ các đơn đặt hàng trong nước mặc dù thị trường trì trệ vì vậy họ không cần  phải cắt giảm bớt giá xuất khẩu tuy rằng các đơn đặt mua ở nước ngoài còn ít. Một nhà máy ở miền đông đang giữ giá xuất khẩu tại 520 USD/tấn FOB mặc dù nhận được rất ít đơn đặt hàng.

Một thương nhân khác cảm thấy rằng vì giá trong nước ổn định nên giá xuất khẩu thực tế từ các nhà máy có thể sẽ vẫn ở quanh mức 515-520 USD/tấn FOB trong thời gian ngắn. 

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc không đổi so với tuần trước  

Giá xuất khẩu thép cây của Trung Quốc tiếp tục duy trì ổn định trong tuần này, giá trong nước cũng ít biến động. Nhiều người trên thị trường nghĩ rằng giá đã gần mức đáy nhưng khả năng phục hồi trong tháng 04 là rất mong manh trong bối cảnh những mối quan ngại về tình trạng tín dụng bị siết chặt. Hôm 27/3, Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính 16mm khối lượng thực tế xuất xứ Trung Quốc không đổi so với thứ Năm tuần trước và duy trì tại 475-480 USD/tấn FOB.

Mức giá giao dịch thực tế ở Hong Kong vẫn duy trì ổn định quanh 490-495 USD/tấn CFR, phí vận chuyển bình quân khoảng 15 USD/tấn. Một nhà máy ở miền bắc Trung Quốc cho biết nhà máy của ông đã bán thép cây trong tuần này với giá 490 USD/tấn CFR Hong Kong.

Các chào giá thép cây trọng lượng lý thuyết từ Trung Quốc tới thị trường Singapore là 485-500 USD/tấn CFR (phí vận chuyển bình quân 20 USD/tấn và dung sai khối lượng lý thuyết là 3%). Cũng có một vài chào giá 480 USD/tấn CFR Singapore nhưng là của các nhà sản xuất quy mô nhỏ hơn đưa ra. Tuy ông này không nghe nói đến bất kỳ giao dịch nào nhưng ông cho biết các giao dịch có thể được thực hiện với giá tầm 480-485 USD/tấn CFR. Nhà máy của ông vẫn đang giữ chào giá không đổi so với tuần trước tại 490-495 USD/tấn CFR. Platts đưa tin các giao dịch trong tuần trước có giá 485-490 USD/tấn CFR Singapore.

Người mua Singapore muốn mua thép cây trong nước hơn vì giá cả cạnh tranh. Giá trong nước hiện nay chỉ phổ biến tầm 655 SGD/tấn (518 USD/tấn), thấp hơn so với 680 SGD/tấn của tháng trước.

Một nhà tích trữ khác cho biết trong khi giá thép cây Trung Quốc được dự báo là sẽ tăng nhẹ lên cùng với thị trường giao kỳ hạn thì ông dự đoán giá thép cây sẽ dao động quanh 500 USD/tấn CFR, do tổng cầu suy yếu. Người mua tỏ ra do dự về việc đặt mua mới vì họ còn quan ngại rằng liệu giá nguyên vật liệu và giá thép cây trong nước của Trung Quốc có ngừng giảm hay không.

Tại thị trường Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm xuất xưởng từ nhà máy Hebei Iron & Steel (Hegang) được chốt với giá 3.130-3.150 NDT/tấn khối lượng thực gồm VAT 17%. Mức giá này gần như không đổi so với giá 3.130-3.140 NDT/tấn của ngày thứ sáu tuần trước. 

Áp lực hàng nhập khẩu khiến thị trường tấm mỏng Mỹ  thận trọng

Quyết tâm giữ giá chào bán của các nhà máy tấm mỏng Mỹ cộng với thời gian giao hàng  mở rộng đã giúp thúc đẩy giá thép tấm tăng, tuy nhiên, đà tăng này có ổn định hay không vẫn còn là một câu hỏi.

Thời gian giao hàng đang ngày càng kéo dãn  ra do nhiều nhà máy phải xử lý các vấn đề  cúp điện và nguồn tồn đọng lớn, đặc biệt là các nhà máy sản xuất CRC.

Trong khi đó, hàng nhập khẩu có thể gây áp lực lên giá . Một nhà môi giới đã chào bán HRC sản xuất tại Midwest với giá 650 USD/tấn xuất xưởng, nhưng sau đó giảm giá xuống do áp lực hàng nhập khẩu.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 650-660 USD/tấn và 780-790 USD/tấn xuất xưởng Midwest. 

Thị trường thép cuộn Thổ Nhĩ Kỳ vẫn im ắng trước cuộc bầu cử

Thị trường thép  dẹt Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trầm lắng trước cuộc bầu cử cuối tháng 3 trong  bối cảnh các nhà máy cố gắng duy trì giá chào ổn định từ sức mua suy yếu.

Các thành viên thị trường hiện tại đều tin rằng giá đã chạm đáy do giá phế nhập khẩu và phế nội địa đều đang tăng. Tuy nhiên, họ khiing chắc rằng liệu cuộc bầu cử hoàn thành có dẹp tan được đám mây u ám trên bầu trời thép hay không.

Các nguồn tin dự báo các nhà máy sẽ mở cửa nhận các đơn đặt hàng mới tại mức giá tăng thêm 10-15 USD/tấn trong tháng 4, nhưng dường như họ cần phải có nhiều thời gian để đạt được mức giá mới này.

Các nhà máy nội địa đang chào bán HRC xuất xưởng tháng 5 tại mức giá 565-575 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào từ các nhà môi giới vẫn là 585-595 USD/tấn. Gía chào xuất khẩu cũng ổn định tại mức 560-565 USD/tấn FOB kể từ đầu tháng 3. Các nhà máy có thể thử nghiệm thị trường với giá cao hơn 5 USD/tấn trước cuộc bầu cử vào tuần tới do giá phế tăng.

Giá chào CRC cũng ổn định tại mức 670-680 USD/tấn xuất xưởng tuần này trong khi giá chào xuất khẩu đạt mức thấp 656-660 USD/tấn FOB.

Giá chào bán PPGI 9002 0.5mm hiện đạt mức 880-910 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu là 860 USD/tấn FOB. Gía chào HDG 0.5mm cũng duy trì ổn định kể từ tuần qua tại mức 770-790 USD/tấn xuất xưởng trong khi loại 1mm đạt mức 750-760 USD/tấn xuất xưởng. Gía chào xuất khẩu HDG 0.5mm đạt mức 760-770 USD/tấn FOB.