Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 29/01/2015


Các nhà phân phối Nhật Bản chật vật giữ giá thép thanh vằn

Những nhà phân phối thép xây dựng nào của Nhật mà cố gắng giữ giá thép thanh vằn đang đối mặt với sự phản kháng mạnh mẽ từ các nhà thầu lớn yêu cầu mức giá thấp.

Các nhà phân phối hoan nghênh quyết định hôm thứ Hai của nhà máy dẫn đầu Kyoei Steel là sẽ duy trì giá hợp đồng tháng 02 bất chấp chi phí giá phế thấp hơn. Nhưng điều này cũng không ngăn người mua mặc cả để mua với giá rẻ hơn.

“Các khách hàng có lẽ vẫn tin là nhà sản xuất sẽ thay đổi giá khi phế giảm, một số đại lý đã nhận được chào giá khoảng 55.000 yên/tấn (467 USD/tấn) cho thép thanh vằn cỡ thường, thấp hơn nhiều so với giá hiện tại trên thị trường. “Nhưng chúng tôi sợ là ai đó sẽ bắt đầu chấp nhận mức giá thấp này bởi vì tháng 03 là lúc sắp kết thúc năm tài chính và các nhà phân phối phải đối mặt với tình hình tài chính khó khăn thì sẽ muốn thanh lý hàng tồn để lấy tiền mặt’, một nhà phân phối ở Osaka cho biết.

Kyoei Steel thông báo sẽ duy trì giá bán của mình và sẽ tiếp tục theo đuổi mức giá mục tiêu 65.000 Yên/tấn, mặc dù theo các nguồn tin thì giá thỏa thuận thực tế của nhà máy cho những hợp đồng tháng 01 là trong khoảng 59.000-60.000 Yên/tấn.

Giá thị trường hiện tại của thép thanh vằn cỡ thường (16-25mm) ở Tokyo là 61.000-62.000 Yên/tấn, còn ở  Osaka dao động từ  60.000-61.000 Yên/tấn, cả hai đều thấp hơn 1.000 Yên/tấn trong tháng qua.

Một đại lý ở Tokyo nhấn mạnh rằng giá phế thực ra đã bắt đầu giảm từ cuối tháng 09 năm ngoái và các khách hàng nghĩ là đã đến lúc giá phế thép cũng phải giảm theo. Thực vậy, kể từ tháng 09 thép cây cỡ thường ở Tokyo đã giảm khoảng 4.000 Yên/tấn nhưng giá phế đã giảm 9.000-10.000 Yên/tấn kể từ đó.

 

Giá thép dầm hình H Đông Á giảm khi triển vọng thị trường u ám

Giá nhập khẩu thép dầm hình H cỡ lớn vào Đông Á tiếp tục giảm trong tháng này do nguyên liệu suy yếu và triển vọng bi quan. Giá dao động trung bình từ 670-680 USD/tấn CFR Đông Á từ tháng 05 đến tháng 10/2014 nhưng từ tháng 11 chỉ còn 650-660 USD/tấn CFR.

Các giao dịch gần đây từ những nhà cung cấp lớn của Châu Á như Hàn Quốc và Thái Lan được chốt ở mức 620-630 USD/tấn CFR Singapore. Giá quặng sắt và phế giảm là hai yếu tố chính dẫn đến sự suy yếu của giá thép.

Ngoài ra, đồng bạc xanh lên giá so với các đồng tiền trong khu vực cũng là nguyên nhân khiến sức mua nhập khẩu suy yếu.

Sự tác động của thép dầm hình H chứa bo cỡ lớn giá rẻ hơn xuất xứ Trung Quốc được cho là không đáng kể. Những loại thép này bắt đầu xuất hiện hồi cuối năm ngoái nhưng bị hạn chế ở một vài kích cỡ và việc thiếu tính đa dạng về chủng loại cũng như độ dài đã không hấp dẫn người mua. Một thương nhân người Thái nghe nói thép của Trung Quốc được chào giá 620 USD/tấn CFR Singapore hơn một tháng trước.

Các nhà nhập khẩu lớn của Singapore không gặp rủi ro về vấn đề chất lượng bởi vì họ đang mua thép dầm hình H để dùng trong các dự án xây dựng giao thông công cộng. Một thương nhân ước tính thép dầm Trung Quốc chiếm chưa tới 10% trên thị trường và những khách hàng nhỏ sẽ mua. Giá có thể giao dịch quanh mức 560-580 USD/tấn CFR Singapore, thấp hơn so với chào giá 600 USD/tấn CFR.

Nhiều người dự đoán giao dịch nhập khẩu thép dầm hình H sẽ chậm lại trong tháng tới do nghỉ Tết.

Giá giao ngay ferrochrome Trung Quốc cao hơn nhờ nguồn cung hạn chế

Giá giao ngay trong nước của ferrochrome 50% Cr dao động từ 6.400-6.600 NDT/tấn (tương đương78-81 cents/lb) – gồm 17% VAT và phí vận chuyển, tăng từ mức 6.400-6.500 NDT/tấn của một tuần trước do nguồn cung giao ngay hạn chế kéo dài ở trong nước.

6.600 NDT/tấn là mức có thể giao dịch cho thép được vận chuyển từ miền bắc xuống miền nam Trung Quốc và cũng dành cho các nhà máy sản xuất thép nhỏ. Chào giá giao ngay nghe nói ở mức cao 7.300 NDT/tấn nhưng nhiều người đồng tình rằng giá trên 6.600 NDT/tấn là không thể bán được.

Trong khi nguồn cung trên thị trường giao ngay hạn chế thì không có sự gián đoạn trong nguồn cung tới các nhà máy thép không gỉ vì theo điều khoản hợp đồng.

Tuy nhiên, hầu hết các nhà quan sát thị trường đều cho rằng giá giao ngay khó mà tăng thêm va sẽ vẫn duy trì ổn định trong thời gian ngắn sau khi hai trong số các nhà sản xuất thép không gỉ lớn là Jiuquan Iron & Steel và Baosteel đều không thay đổi giá mua trong tháng 02 và 03. Điều này có nghĩa là Shanxi Taigang Stainless Steel cũng rất có thể sẽ duy trì giá mua tháng 02.

Điều này cũng có nghĩa là giá giao ngay sẽ không tăng, và như vậy thì giá sẽ còn khó tăng hơn sau Tết.

Các nhà máy phản đối giá mua ferrochrome cao hơn do thị trường thép không gỉ suy yếu. Một sự điều chỉnh nhỏ tới giá thép giao ngay trong thời gian ngắn là cũng có khả năng xảy ra vì việc duy trì giá tháng 02 sẽ làm giảm niềm tin trên thị trường.

 

Phôi thanh giảm giúp phế ở phế Đông Nam Á xuống theo

Giá phế giảm cùng với thị trường quặng sắt suy yếu đã giúp phôi thanh và phế giảm ở Đông Nam Á. Tuần trước, một nhà máy ở Thái đã đặt mua một lô phế lớn 50:50 (phế vụn và HMS I/II (80:20)) từ Australia ở mức giá 275 USD/tấn CFR.

Mức giá này tương đương 272,5 USD/tấn CFR cho HMS 80:20 và 277,5 USD/tấn CFR cho phế vụn. Chào giá trước đó cho HMS 80:20 từ Australia được nghe nói cao hơn, ở khoảng 295 USD/tấn CFR vào một tuần trước. Một lô phế 10.000 tấn được đặt mua với giá 305 USD/tấn CFR cho HMS 80:20 vào khoảng hai tuần trước từ Australia.

Nhiều thương nhân ở Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam cho biết HMS 80:20  lô lớn hiện nay đang phổ biến quanh mức 270 USD/tấn CFR mặc dù các nhà cung cấp ở Mỹ thường không tiết lộ chào giá tới thị trường khu vực này.

Các nhà máy đã chuyển sang phôi thanh Trung Quốc để giảm bớt chi phí sản xuất. Phôi thanh lò nung của nước này có giá rẻ hơn nhờ giá quặng giảm. Tuy nhiên, giá nhập khẩu phế vẫn chưa giảm với tỷ lệ tương xứng, nên thật khó để các nhà máy EAF giữ thế cạnh tranh.

Giá phôi thanh Trung Quốc hiện đang phổ biến từ 365-375 USD/tấn CFR ở Đông Nam Á, còn tùy vào cảng đến. Giá xuất khẩu cuộn trơn và thép cây của Trung Quốc phổ biến từ 370-380 USD/tấn CFR. Phôi thanh và giá thép đã giảm 25-40  USD/tấn từ cuối tháng 12. 

Baosteel giảm giá thép cuộn không gỉ trong hai tháng  

Baosteel đã giảm giá HRC và CRC không gỉ austenite xuống lần lượt 500 NDT/tấn (80 USD/tấn)  và 800 NDT/tấn cho tháng 02 và 03.

Theo đó, giá bán trong hai tháng tới của nhà máy này cho HRC 304 3mm còn 14.700 NDT/tấn (2.354 USD/tấn) còn CRC 304 2mm 2B là 16.000 NDT/tấn xuất xưởng Thượng Hải.

Công ty đã hạ giá bán trong nước vì cân nhắc đến khoảng cách lớn giữ giá của mình với mức trên thị trường giao ngay. Công ty thông báo giá cho hai tháng vì Tết Nguyên đán rơi kéo dài từ 19-25/02. Baosteel thường quyết định giá bán trong nước hàng tháng vào hai tuần cuối cùng của tháng trước đó.

Baosteel tiếp tục giữ giá 430 loại không có niken không đổi trong hai tháng tới trong bối cảnh ít có sự thay đổi về giá thép ferrite giao ngay. Theo đó, CRC loại 430 của nhà máy vẫn duy trì ở mức 8.500 NDT/tấn xuất xưởng Thượng Hải và 9.200 NDT/tấn xuất xưởng tại công ty con là Ningbo Baoxin Stainless Steel ở tỉnh Chiết Giang. 

Thị trường thép cuộn Mỹ vắng bóng đơn hàng

Hàng tồn kho cao tại các trung tâm dịch vụ đã khiến nhu cầu tiêu thụ thép cuộn Mỹ giới hạn.

Platts vẫn duy trì giá HRC và CRC tại mức 545-555 USD/tấn và 680-700 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).

Người tiêu thụ không có nhu cầu mua hàng lúc này do họ đang cố gắng giảm hàng tồn kho và đồng thời cũng để xem giá sẽ di chuyển thế nào.

Thời gian giao hàng đối với HRC ngắn. Một trung tâm dịch vụ cho hay đã đặt mua hơn 1.000 tấn HRC cuối tuần qua và hiện tại đang chuẩn bị được giao hàng. Gía HRC đối với đơn hàng hơn 500 tấn đạt mức 520 USD/tấn nhưng giá cho các đơn hàng nhỏ là 540 USD/tấn.

Theo dự báo, ngừoi mua sẽ trở lại thị trường vào giữa tháng 3 khi hàng tồn kho đã giảm. Bên cạnh đó, việc cắt giảm sản xuất của các nhà máy kể cả US Steel cuối cùng sẽ giúp thị trường phục hồi nhưng phải đến tháng 4.

Một trung tâm dịch vụ tại Midwest cho biết gần đây đã mua một đơn hàng lớn tại mức 540  USD/tấn còn đơn hàng nhỏ là 550 USD/tấn nhưng hiện tại nhà máy cung cấp cho Ông đã giảm giá để thu hút khách hàng.

Gía phế khối lượng nhỏ Mỹ xuất tới Đài Loan giảm

Gía xuất khẩu phế Mỹ tới Đài Loan giảm xuống mức 245 USD/tấn CFR Đài Loan đối với loại HMS 80:20 trong khi các nhà máy Đài Loan đang tìm cách giảm giá mua vào với giá dự thầu chỉ ở mức thấp 240 USD/tấn CFR trong ngày thứ tư. Gía đã giảm so với mức 253-255 USD/tấn tuần trước.

Vài nhà máy Đài Loan vẫn chưa thu mua do không có nhu cầu và tin rằng giá còn giảm nữa.

Platts giảm giá xuất khẩu phế HMS 80:20 bờ Tây Mỹ xuống 10 USD/tấn trong ngày thứ tư còn 220-225 USD/tấn FAS cảng LA. Platts đã giảm tổng cộng 20 USD/tấn trong tuần này.

Nhu cầu tiêu thụ thép cây TNK suy yếu, giá lao dốc

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ  tiếp tục giảm giá chào xuất khẩu thêm 5 USD/tấn trong ngày thứ tư do nhu cầu tiêu thụ suy yếu gây áp lực cho các nhà máy trong việc tìm kiếm đơn hàng.

Một thương nhân cho biết giá chào bán đã giảm còn 480 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế trong khi giá chào bán tới Dubai đã giảm còn 476 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Dubai thường nhận được giá chào thấp nhất từ Thổ Nhĩ Kỳ và hiện tại là thị trường xuất khẩu ưa chuộng của các nhà xuất khẩu TNK.

Trung Quốc đang chào bán thép cây thêm Crom tại mức 350 USD/tấn trọng lượng thực tế FOB, thấp hơn tới 100 USD/tấn so với TNK nên nước này không thể cạnh tranh lại nổi.

Nhiều đại lý phế cho rằng sự sụt giảm mạnh của giá phế sẽ giúp các nhà máy thép TNK tăng cạnh tranh trên thị trường .

Platts giảm định giá thép cây xuất khẩu xuống 5 USD/tấn còn 480 USD/tấn trong ngày thứ tư.

Giá xuất khẩu cuộn trơn của Trung Quốc tiếp tục lao dốc ở cả trong và ngoài nước 

Giá xuất khẩu cuộn trơn Trung Quốc tiếp tục lao dốc trong tuần qua do người mua ở nước ngoài không chịu mua thậm chí ở mức giá thấp hơn. Một vài nhà xuất khẩu đang bán khống và đưa ra chào giá thấp để thu hút người mua. Hôm 28/01, Platts định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm là 360-370 USD/tấn FOB, giảm 10 USD/tấn so với tuần trước.

Cuộn trơn chứa bo xuất xứ Trung Quốc được bán với giá 385 USD/tấn CFR Việt Nam trong tuần trước, với phí vận chuyển 13-15 USD/tấn. Nhiều nhà xuất khẩu đang bán chạy là người đứng đằng sau những chào giá thấp này. Tuy nhiên, sức mua chậm bởi vì khách hàng không tin tưởng vào triển vọng thị trường.

Chào giá cuộn trơn chứa bo giảm nhẹ trong tuần này còn khoảng 380-382 USD/tấn FOB từ mức 380-385 USD/tấn do Nhân dân tệ suy yếu hơn. Những chào giá này phần lớn đến từ Jiujiang Wire Rod, là nhà máy có giá mua trong nước ổn định so với tuần trước.

Chào giá cuộn trơn chứa bo giảm mạnh còn 360-365 USD/tấn FOB trong tuần này từ 360-380 USD/tấn FOB của tuần trước. Một vài chào giá của các nhà máy nhỏ hơn là 355 USD/tấn FOB, nhưng chất lượng thì không được một số khách hàng trong khu vực chấp nhận.

Cuộn trơn lô nhỏ chứa cr được chốt với giá khoảng 360 USD/tấn FOB. Một thương nhân người Thái nghe nói cuộn trơn chứa cr đường kính 5.5mm được đặt mua với giá 395 USD/tấn CFR Thái Lan.

Giá bán tại Trung Quốc cũng vẫn trên đà lao dốc do sức mua trì trệ. Tại Thượng Hải cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm có giá 2.240 NDT/tấn (359 USD/tấn) giảm 90 NDT/tấn (14 USD/tấn) so với tuần trước. 

Nhu cầu tiêu thụ kéo giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ xuống dưới mức 700 USD/tấn

Nhu cầu tiêu thụ cả trong và ngoài nước đối với thép cuộn mạ suy yếu đã kéo giá HDG trong nước xuống dưới mức 700 USD/tấn kèm chiết khấu trong khi giá chào xuất khẩu thậm chí thấp hơn 10 USD/tấn.

Do thị trường trong nước trì trệ nên người mua không đặt hàng cộng với sự suy yếu tại thị trường xuất khẩu đang thu hẹp  lợi nhuận của các nhà máy.

Gía chào  HDG 0.5mm trong nước đã giảm xuống dưới mức 700 USD/tấn xuất xưởng kèm chiết khấu lớn cho các đơn hàng lớn trong khi giá niêm yết dao động trong khoảng 700-730 USD/tấn xuất xưởng. Gía HRC giảm cũng gây áp lực cho giá HDG.

Gía chào bán xuất khẩu HDG 0.5mm cũng giảm xuống mức thấp 690-720 USD/tấn FOB trong tuần này trong khi PPGI 9002 0.5mm cũng giảm xuống dưới mức 800 USD/tấn FOB trong bối cảnh đồng Lira tiếp tục suy yếu.

Chỉ có các thị trường Bắc Phi cho thấy vài dấu hiệu phục hồi, tuy nhiên, các thị trường Châu Âu và CIS vẫn suy yếu. 

Trong khi đó, giá chào HRC trong nước đã giảm xuống dưới mức 500 USD/tấn vào cuối tuần qua trong bối cảnh tâm lý thị trường suy yếu và giá chào nhập khẩu giảm. Các nhà máy trong nước chào bán HRC tại mức thấp 490-515 USD/tấn xuất xưởng trong khi CRC dao động trong khoảng 590-615 USD/tấn xuất xưởng có chiết khấu. 

Nhu cầu HRC Ấn Độ tiếp tục suy yếu gây sức ép lên giá 

Tuần này, các nhà sản xuất thép của Ấn Độ vẫn tiếp tục duy trì giá HRC trong nước do nhu cầu từ hầu hết người mua còn trì trệ. Thép nhập khẩu giả rẻ tiếp tục gây sức ép lớn hơn lên các nhà máy trong nước để duy trì giá bán. Nhu cầu tiêu thụ từ ngành ô tô, xây dựng và cơ sở hạ tầng vẫn còn thấp.

Chào giá HRC loại IS 2062 A/B dày từ 3mm trở lên vẫn đang được niêm yết ở quanh mức 32.800-34.500 rupees/tấn (535-562 USD/tấn) xuất xưởng trong tuần này. Các nhà máy Ấn Độ tiếp tục cảm thấy bị áp lực từ chào giá rẻ hơn của Trung Quốc và Nga.

Chào giá HRC của Trung Quốc giảm sâu hơn trong tuần này, do họ liều lĩnh bán trước Tết. Các nhà nhập khẩu nghe nói chào giá HRC SS400 dày từ 3mm trở  lên tuần này rớt xuống còn 410-415 USD/tấn FOB (tương đương 440-445 USD/tấn CFR Mumbai tức 27.009-27.316 rupees/tấn). Mức giá này thấp hơn so với chào giá 430-435 USD/tấn FOB của tuần trước (465-470 USD/tấn CFR Mumbai).

Tuy nhiên, ngay cả khi nhà máy Trung Quốc đã hạ chào giá thì họ sẽ không thể bán do sức mua ở Ấn Độ suy yếu.

Chào giá từ Nga cho loại thép có tiêu chuẩn kỹ thuật giống vậy trong tuần này ở quanh mức 390 USD/tấn FOB (450 USD/tấn CFR Mumbai). Có khoảng 125.000 tấn HRC của Nga đã được đặt mua hồi tháng 01 và được cho là sẽ cập cảng Ấn Độ trước tháng 03.

Đại diện các nhà máy Ấn Độ cho biết nhu cầu sẽ tiếp tục trì trệ cho đến khi các biện pháp làm kìm hãm nhập khẩu được thông báo, có lẽ là trong dự thảo ngân sách vào tháng 03 tới. Có thể sẽ tăng thuế nhập khẩu cùng với giảm lãi suất cho vay của ngân hàng, điều này có thể giúp cải thiện sức mua trong nước. 

Gía thép cuộn EU  vật lộn để leo lên sau khi tăng vừa phải

Các nhà máy thép tại Tây Bắc Âu đang cố gắng tăng nhẹ giá thép cuộn mặc dù nhu cầu tiêu thụ tăng vừa phải chưa đủ để cho họ thu được  toàn bộ thêm 20-30 Euro/tấn đã thông báo trước đó.

Cho đến nay, giá giao dịch chỉ mới tăng được thêm 10 Euro/tấn. Một nhà môi giới lớn của Đức cho biết tất cả các nhà máy đều đã tăng giá chào bán. Gía thị trường có thể chấp nhận hiện tại là 405 Euro/tấn đối với HRC.

Với sự suy yếu của đồng Euro, các nhà máy trong nước đang cố gắng tối đa hóa xuất khẩu và giữ chắc giá ở nội địa. Một thương nhân tin rằng mứuc 415-420 Euro/tấn đã tính phí giao hàng là có thể đạt được, tuy nhiên, giá này chưa được xác nhận. Những khách hàng cần nguyên liệu có thể trả thêm 5-10 Euro/tấn. Một nhà máy ước tính rằng giá thị trường Đức phổ biến ở mức 400-410 Euro/tấn, thấp hơn 20 Euro/tấn so với giá chào bán chính thức.

Platts vẫn giữ nguyên định giá HRC tại mức 407.5 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ tư. 

Trong khi đó, giá CRC cải thiện rất chậm chạp do nguồn cung quá mức và áp lực hàng nhập khẩu. Gía bán từ các nhà máy trong nước là 470-490 Euro/tấn đã gồm phí vận tải. Gía chào mới nhất từ Nga là 445 Euro/tấn CIF Antwerp. Gía chào từ Trung Quốc là 460-470 Euro/tấn.

Đài Loan: Chung Hung giảm giá xuất khẩu cho HRC, CRC trong tháng 03 

Nhà cán lại Đài Loan- Chung Hung Steel đã giảm giá HRC và CRC xuất khẩu cho những lô hàng giao tháng 03 xuống lần lượt 20 USD/tấn và 20-30 USD/tấn cho phù hợp với xu hướng giá thấp hơn tại các thị trường khác.

Quyết định này của Chung Hung dẫn đến giá giao tháng 03 còn khoảng 490 USD/tấn FOB Đài Loan cho HRC và 570-590 USD/tấn CRC.

Công ty đã duy trì giá HRC và CRC cho những lô hàng giao tháng 02 ở trong nước, như vậy giá của hai loại thép này lần lượt 18.214 Đài tệ/tấn (584 USD/tấn) và 21.932 Đài tệ/tấn trước khi có chiết khấu. Tuy công ty thông báo là sẽ giữ nguyên giá tháng 02, nhưng lại đưa ra  một số khoản chiết khấu cho khách hàng khi xem xét đến giá thép thế giới thấp.

Doanh số thép dẹt của nhà máy này trong tháng 01 ước tính sẽ ở quanh mức 150.000 tấn, tăng từ 140.000 tấn trong tháng 12. Nhưng doanh số có thể tăng lên cao hơn cỡ 170.000 tấn trong tháng 02 nhờ một số đơn hàng quá hạn sau khi việc giao hàng bị chậm trễ.

Nhà máy có công suất 200.000 tấn HRC và 40.000-50.000 tấn CRC mỗi tháng tại xưởng ở Kaohsiung, phía nam Đài Loan. 

Gía phế vụn Mỹ có thể rơi xuống mức thấp 5 năm

Gía phế vụn Mỹ dường như sẽ cán mốc 300 USD/tấn lần đầu tiên trong hơn 5 năm trong các đàm phán diễn ra vào tuần tới do tâm lý thị trường suy yếu trong khi giá thép thành phẩm cũng giảm.

Giá phế vụn tháng 1cách đây 3 tuần được chốt tại mức 340-350 USD/tấn giao tới Midwest, tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ phế kể từ đó đã suy yếu do các nhà máy thép giảm sản xuất dựa vào nhu cầu tiêu thụ giảm.

Vài nhà máy thép cho biết họ sẽ đàm phán yêu cầu các nhà cung cấp phế giảm thêm 50 USD/tấn vào tuần tới.

Phát biểu về doanh thu hàng quý trong cuộc hội đàm điện thoại diễn ra vào hôm thứ ba, CEO John Ferriola  của Nucor cho biết giá phế Mỹ đang cao hơn rất nhiều so với quặng sắt và giá  phế toàn cầu. Do đó, dự báo giá phế Mỹ sẽ giảm mạnh trong năm nay theo giá thép.

theo đó, dự báo giá phế khu vực thung lũng Ohio sẽ giảm mạnh nhất do đang có giá cao nhất nước Mỹ và Southeast cũng giảm tương tự do các nhà máy cắt giảm sản xuất mạnh. Một nhà máy dự báo khu vực Nam Mỹ sẽ giảm trên 50 USD/tấn.

Gía phôi thanh CIS tiếp tục suy yếu

Gía phôi thanh CIS vẫn đang trên đà lao dốc do người mua vẫn xa lánh thị trường trong khi các nhà cán lại Ai Cập đưa ra giá chào mua thấp hơn cho nguyên liệu tháng 2.

Gía chào từ Trung Quốc cũng suy yếu còn 380 USD/tấn CIF Ai Cập và 375 USD/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ. Các nhà máy CIS đã sẵn sàng bán tại mức thấp 380 USD/tấn FOB Biển Đen để bảo toàn đơn hàng.

Một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ xác nhận các giá chào tuần này đạt mức 390 USD/tấn FOB Biển Đen, tuy nhiên, do giá phế suy yếu nên người mua vẫn chờ đợi theo dõi tình hình thị trường trước khi có quyết định mua hàng.

Một thương nhân CIS cho biết có thể bán được giá  380 USD/tấn FOB Biển Đen cho các giá dự thầu bình ổn và Ông cũng cho biết đã bán được các đơn hàng tại mức này theo điều kiện FOB Mariupol thanh toán trước trong khi một đơn hàng khác được bán hồi đầu tuần tại mức 385 USD/tấn FOB Novorosik khjông thanh toán trước mặc dù giá này không còn xuất hiện trên thị trường trong ngày hôm qua.

Các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ đang chờ đợi trong khi số khác chẳng hạn như Ai Cập sẵn sàng mua tại mức 380 USD/tấn FOB Biển Đen đối với phôi thanh giao tháng 2. Trong khi các nhà máy Nga có thể sẵn sàng chấp nhận các mức giá dự thầu này thì các nhà máy khác lại kìm hàng với hy vọng bảo toàn được giá cao hơn với Lễ đang cận kề.

Trong ngày thứ tư, Platts giảm giá phôi thanh xuống 5 USD/tấn còn 485 USD/tấn FOB Biển Đen do giá chào bán và chào mua đều giảm trên thị trường. 

Giá xuất khẩu HDG Trung Quốc lún sâu trong bối cảnh tâm lý bi quan 

Sự sụt giảm của giá HDG Trung Quốc liên tục lao dốc kể từ tuần trước do giá CRC giảm nhanh, tâm lý bi quan cùng với thị trường HDG trong nước ảm đạm. Platts định giá HDG DX51D là 510-520 USD/tấn FOB hôm thứ Tư, giảm 52,5 USD/tấn từ cuối tháng 12.

Một số chào giá của nhà máy vẫn ở quanh mức 530-535 USD/tấn FOB, nhưng hầu hết đều không thể ký kết được hợp đồng ở mức này. Các nhà máy thực ra đã đồng  ý thương lượng giá từ 510-520 USD/tấn, nhưng thậm chí ở giá này người mua vẫn không muốn mua vì họ dự báo giá sẽ giảm sâu hơn.

Nhiều nhà xuất khẩu được Platts khảo sát thừa nhận rằng phần lớn khách hàng của họ đều nán lại việc đặt mua do giá rớt nhanh. Một người cho biết mức đáy của giá xuất khẩu HDG hiện tại phụ thuộc lớn vào giá trong nước. Giá xuất khẩu sẽ không ngừng giảm trong khi giá nội địa tiếp tục trượt dốc tới mức ngày càng thấp hơn.

Tại thị trường Thượng Hải hôm thứ Tư, HDG DX51D dày 1.0mm đang được giao dịch phổ biến từ 3.840-3.970 NDT/tấn (615-635 USD/tấn) gồm VAT 17%, giảm 120 NDT/tấn kể từ cuối tháng 12.

Một đại lý cho biết thị trường HDG nội địa gần đây đã khá ảm đạm do giá giảm. Tuy nhiên, một tín hiệu tốt là thị trường CRC đang lội ngược dòng, sức mua cuối cùng đã có những dấu hiệu phục hồi ở mức giá sàn.