Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 374 USD/tấn FOB Biển Đen, bình ổn so với ngày trước đó.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá phôi thanh CIS có sẵn tại mức 370 USD/tấn FOB giao tháng 8 nhưng không có nhiều sự quan tâm vào lúc này. Gía chào bán đạt mức 385-390 USD/tấn CFR Maramara từ thương nhân nhưng chưa có đơn hàng nào được chốt. Thị trường phôi thanh vẫn không đổi. Kể từ khi có các thông tin về giá thấp hơn 370 USD/tấn FOB, Platts giữ giá tại mức 374 USD/tấn FOB Biển Đen.
Gía phế Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu theo giá nhập khẩu
Vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá mua phế tàu và DKP xuống 5-6 USD/tấn trong tuần này cùng với sự suy yếu của giá phế nhập khẩu.
Nhà máy Iskenderun thuộc tập đoàn Erdemir đã giảm giá mua phế xuống 15 TRY/tấn (5.6 USD/tấn) còn 760 TRY/tấn (285 USD/tấn). Nhà máy tại Eregli thuộc cùng tập đoàn cũng giảm giá mua phế DKp xuống cùng mức, còn 765 TRY/tấn (287 USD/tấn) vào ngày 27/5.
Gía mua phế tàu tính theo đồng dolla cũng giảm 5 USD/tấn trong tuần này. Phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ được chào bán tới các nhà máy phía Tây (Habas, IDC, Ege Celik, Ozkanlar) tại mức 280 USD/tấn trong ngày thứ năm, giảm 5 USD/tấn so với đầu tuần.
Nhà máy Kardemir vẫn giữ giá mua phế DKP bình ổn tại mức 770 TRY/tấn (289 USD/tấn) kể từ ngày 12/5 trong khi nhà máy EAF Colakoglu và Asil Celik vẫn giữ giá mua phế DKP tại mức bình ổn 720 TRY/tấn (271 USD/tấn và 730 TRY/tấn (274 USD/tấn).
Giá nhập khẩu phôi tấm sụt giảm sau đó tăng nhẹ trở lại ở Đông Á
Thị trường nhập khẩu phôi tấm ở Đông Á có vẻ như ổn định trong tháng này. Nhiều người cho rằng sự phục hồi nhẹ trong giá kể từ giữa tháng là do chào giá cao hơn vì nguyên liệu lên giá.
Trong suốt tuần này, nghe nói một nhà cán lại Đài Loan đã đặt mua phôi tấm của Nga với giá 310 USD/tấn CFR. Rõ ràng, một lô trên 100.000 tấn đã được đặt mua trước đó với giá 300-310 USD/tấn CFR trong tuần thứ hai của tháng 5. Tháng trước, phôi tấm của Nga được đặt mua với giá khoảng 325 USD/tấn CFR Đài Loan.
“Giá tăng rất nhẹ”, một nhà máy Hàn Quốc cho biết giá tăng gần đây là do nhà cung cấp Nga tới Đài Loan. Chào giá hiện nay là 320-330 USD/tấn CFR nhưng hợp đồng có thể thực hiện với giá 315 USD/tấn CFR.
Ở Đông Nam Á, chào giá phôi tấm Nga được nghe nói là 330 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, người mua khó mà chấp nhận mức giá này.
Một nhà cung cấp Brazil cũng đã bán phôi tấm dùng làm thép tấm tới Indonesia với giá 315 USD/tấn CFR trong suốt nửa tháng này. Giá thép tấm hiện quá thấp. Giá thép tấm thương phẩm nhập khẩu đang dưới mức 400 USD/tấn CFR”, một nhà tích trữ Indonesia cho biết hôm thứ Năm. Thị trường vẫn còn ảm đạm với mùa mưa và tháng chay đang tới gần.
Ở Thái Lan, một nhà nhập khẩu cho biết phôi tấm được đặt mua với giá 300 USD/tấn CFR hồi đầu tháng 5. Phôi tấm Iran hiện nay được chào giá 300 USD/tấn FOB (với phí vận chuyển khoảng 17 USD/tấn tới Thái Lan) vì vậy mức giá nhập khẩu khoảng 315 USD/tấn CFR là có thể.
Hôm 29/5, định giá nhập khẩu phôi tấm hàng tháng tại Platts là 310-315 USD/tấn CFR so với 315-330 USD/tấn CFR của cuối tháng 4. Mức giá trung bình tháng này là 312,5 USD/tấn CFR, thấp hơn 10 USD/tấn so với 322,5 USD/tấn CFR của tháng 4.
NSSMC quyết định nâng giá thép dầm hình H dùng trong các dự án
Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp (NSSMC) xác nhận hôm thứ Năm rằng nhà máy sẽ nâng giá bán trong nước cho thép dầm hình H dùng trong dự án lên 3.000 Yên/tấn (24,2 USD/tấn) từ tháng 7. Nhà máy dự báo nhu cầu thép dầm cho các dự án xây dựng tư nhân sẽ tăng trưởng vì vậy họ đã bắt đầu điều chỉnh giá bán.
Hồi đầu tháng này, hôm 14/5, NSSMC cho biết công ty vẫn giữ giá thép dầm hình H cho những hợp đồng giao ngay tháng 5 (sản xuất tháng 6). Nhà máy đã duy trì giá thép không đổi trong 16 tháng liên tiếp.
Thép dầm hình H giao ngay của NSSMC chiếm khoảng 30% tổng doanh số, xuất khẩu cỡ 10% và còn lại là bán cho các dự án.
NSSMC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình, nhưng giá thị trường hiện nay cho thép dầm hình H SS400 cỡ lớn ở Tokyo khoảng 77.000-78.000 Yên/tấn (621-629 USD/tấn).
Một nhà phân phối ở Tokyo cho biết giá niêm yết thép dầm dùng trong dự án nhìn chung cao hơn so với giá giao ngay, nhưng các nhà thầu có thể thương lượng tùy từng trường hợp riêng, vì vậy mức giá thực tế hiện nay thấp hơn 2.000-3.000 Yên/tấn.
Chẳng hạn như, giá niêm yết cho thép dầm hình H dùng trong dự án của Tokyo Steel Manufacturing- đối thủ của NSSMC- hiện nay là 79.000 Yên/tấn- cao hơn giá niêm yết bán giao ngay 77.000 Yên/tấn- nhưng các chủ thầu mua khối lượng lớn cho các dự án có thể thương lượng giảm xuống còn khoảng 75.000 Yên/tấn.
“NSSMC hiện đang cố gắng tăng giá bán cho các dự án lên bằng mức giá giao ngay”, một nhà phân phối nói.
Yamato Steel nằm ở Himeji, phía tây Nhật Bản, đã tăng giá thép dầm hình H cho các dự án lên 2.000-3.000 Yên/tấn từ các lô hàng vận chuyển tháng 6. Giám đốc bán hàng của Tokyo Steel cho biết công ty sẽ cân nhắc chính sách giá vào tuần tới.
Giá nhập khẩu thép dầm hình H Đông Á giảm sâu hơn do nhu cầu suy yếu
Giá nhập khẩu thép dầm hình H cỡ nhỏ tới Đông Á tiếp tục giảm xoắn ốc trong bối cảnh sức mua chậm chạp. Không có nhiều người mua hiện nay và những người này đang đặt mua khối lượng nhỏ hơn để tích trữ.
Một số người đổ lỗi nguyên nhân khiến sức mua suy yếu là do mùa mưa tới gần đang gây ảnh hưởng đến nhiều nơi trong khu vực.
Số khác thì cho biết sự bi quan xuất phát từ nguồn cung giá thấp hơn trong những tháng gần đây. Thép dầm hình H xuất xứ Nhật Bản đang được cung cấp trực tiếp trong những dự án được lựa chọn ở các nước nhập khẩu chẳng hạn như Singapore, Malaysia và Hong Kong. Những dự án thép dầm hình H này được ký kết với giá cả cạnh tranh do Yên Nhật suy yếu.
Họ tin rằng giá ký kết cho những dự án này có thể sẽ thấp hơn 10-20 USD/tấn so với giá giao ngay phổ biến trên thị trường.
Các hợp đồng giao ngay tháng này nằm ở mức 550-560 USD/tấn CFR ở Singapore và Đông Nam Á.
Định giá thép dầm hình H nhập khẩu vào Đông Á của Platts hồi cuối tháng 5 là 550-560 USD/tấn CFR, giảm từ 560-580 USD/tấn CFR của cuối tháng 4 và 600-620 USD/tấn CFR hồi cuối tháng 3.
Gía xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ bình ổn dù rủi ro suy yếu
Thị trường thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ được cho là sẽ bình ổn mặc dù có thể giảm mạnh trong thời gian tới do Lễ bầu cử và Ramadan.
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tại mức không đổi 455 USD/tấn FOB.
Gía chào xuất khẩu từ phần lớn các nhà máy đạt mức 470 USD/tấn FOB mặc dù các nhà máy lớn hơn chào bán tại mức 465 US/tấn tới Trung Đông.
Một thương nhân UAE cho biết giá xuất khẩu có thể khởi sắc do giá nội địa tháng 6 sẽ tăng 15 USD/tấn, với giá chào Emirates Steel đạt mức 460 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết từ Thổ Nhĩ Kỳ (457 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Một thương nhân khác tại Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng các khách hàng dường như sẽ yêu cầu chiết khấu 10-15 USD/tấn. Tuy nhiên, dự báo giá phế Thổ Nhĩ Kỳ sẽ sớm tăng thêm 10 USD/tấn hỗ trợ giá thép cây. Phôi thanh Trung Quốc tràn vào ồ ạt trong tháng 6 và 7 tiếp tục gây sức ép cho thị trường.
Các nguồn tin đang đổ dồn vào thị trường thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ. Tình hình giao dịch hồi đầu tuần đã suy yếu nhưng nhờ tỷ giá dolla tăng so với dolla nên sức mua đã khởi sắc dần sau đó.
Thổ Nhĩ Kỳ sẽ tổ chức bầu cử Tổng thống vào ngày 7/6 và điều này sẽ kéo giá đồng nội tệ suy yếu hơn nữa trong khi việc đơn giản hóa các quy định cũng khuyến khích tình hình xây dựng trong nước.
Giá xuất khẩu thép tấm Trung Quốc vẫn trên đà lao dốc
Giá xuất khẩu thép tấm dày Trung Quốc đang trên đà lao dốc trong suốt tháng này do sức mua yếu cộng thêm giá trong nước giảm. Một số nhà xuất khẩu khuyến cáo rằng có khả năng giá sẽ còn tiếp tục đi xuống trong tháng tới vì nhu cầu được dự báo sẽ còn “teo tóp” hơn nữa.
Platts định giá xuất khẩu cho thép tấm SS400 dày 12-30mm ở mức 355-360 USD/tấn FOB hôm 28/5, giảm 2,5 USD/tấn so với cuối tháng 4, đánh dấu tháng giảm thứ ba liên tiếp. Tuy nhiên, mức giảm có phần nhẹ hơn khi so với 12,5 USD/tấn đã bị “bốc hơi” trong tháng 3 và 4.
Một nhà kinh doanh ở Thượng Hải cho biết mặc dù chào giá của nhà máy vẫn ở quanh mức 360-365 USD/tấn FOB, nhưng một nhà sản xuất ở miền trung đã âm thầm chấp nhận mức giá chỉ có 355 USD/tấn FOB. Một người khác cho biết ông đã chốt được một hợp đồng nhỏ có giá 360 USD/tấn FOB, và nếu khối lượng lớn hơn thì ông có thể thương lượng giảm xuống ít nhất 1-2 USD/tấn.
Một người khác thừa nhận rằng nhu cầu ở nước ngoài quá suy yếu nên gần đây ông đã không có được bất kỳ đơn hàng nào cho thép tấm. Ông khuyến cáo nhu cầu sẽ suy yếu hơn trong tháng 6, vì vậy thật khó để giá chạm đáy mặc dù đà giảm đã chậm lại.
Về phía thị trường nội địa, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến với giá từ 2.350-2.400 NDT/tấn (379-387 USD/tấn) gồm 17% VAT ở Thượng Hải tính đến ngày 28/5, giảm 55 NDT/tấn từ cuối tháng 4.
Một thương nhân khác cho biết hầu hết sự sụt giảm của giá đều xảy ra trong hai tuần đầu tháng 5, và giá đã dần ổn định trở lại trong tuần này do tồn kho thị trường thấp. Tuy nhiên, do tháng 6 và 7 thường là giai đoạn ảm đạm của thị trường thép vì vậy giá thép tấm có lẽ chỉ dao động nhẹ ở mức hiện nay mà thôi.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì định giá HRC Tây Bắc Âu tại mức 405 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Thị trường nội địa vẫn bình ổn với giá chào trong khu vực dao động trong khoảng 400-410 Euro/tấn và chênh lệch giá giữa các nước Benelux với Đức là 5 Euro/tấn. Một nhà máy Đức cho biết giá tại đây đạt mức 385-395 Euro/tấn nhưng không có đơn hàng nào chốt dưới mức 400 Euro/tấn.
Gía chào HRC Trung Quốc vẫn ở mức 375-380 Euro/tấn CIF Antwerp trong khi giá chào từ Iran đạt mức sàn 375 Euro/tấn.
Thép cây Châu Á giảm do bị ảnh hưởng từ quặng sắt
Giá thép cây nhập khẩu vào Châu Á sụt giảm trong tuần thứ hai liên tiếp do sức mua trong khu vực trì trệ, bất chấp những nỗ lực giữ chào giá ổn định của một số nhà sản xuất Trung Quốc trong bối cảnh giá quặng sắt giảm xuống ngưỡng 60 USD.
Hôm thứ Năm, Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính 16mm giảm 2 USD/tấn so với tuần trước còn 331-332 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Một nhà máy đã ký kết một hợp đồng tới Singapore vào tuần trước với giá 338 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, với khối lượng khoảng 10.000 tấn thép cây. Nếu không tính phí vận chuyển 17 USD/tấn và dung sai khối lượng 3% thì tương đương 331 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Chào giá từ Trung Quốc thường duy trì ổn định ở mức 340-350 USD/tấn CFR Singapore của tuần trước. Với giá quặng sắt gần đây dao động quanh mức 60 USD/tấn, các nhà máy do dự cắt giảm chào giá xuất khẩu thêm nữa.
Liệu giá quặng sắt có thể hỗ trợ cho giá thép xuất khẩu hay không vẫn chưa chắc chắn, do sức mua thấp khi mùa mưa đang đến gần.
Có tin đồn về một hợp đồng được thực hiện với giá 340 USD/tấn CFR, nhưng một thương nhân tin rằng cơ hội thu hút người mua ở mức giá này là rất hiếm, do giá mua đưa ra chỉ có 337 USD/tấn.
Ở Hong Kong, khoảng 10.000-20.000 tấn thép cây được đặt mua trong tuần này với giá 345 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế. Mức giá này tương đương 332 USD/tấn FOB và gồm phí vận chuyển khoảng 13 USD/tấn.
Nhưng hầu hết các nguồn tin quan sát trên thị trường Hong Kong đều nghe nói không có giao dịch nào trong tuần này, thêm vào đó chào giá Trung Quốc vẫn duy trì khoảng 350 USD/tấn CFR. Tuy nhiên, người mua hiện đang đưa ra mức giá mục tiêu thậm chí còn thấp hơn xuống còn 340-345 USD/tấn CFR, so với mức 345 USD/tấn hoặc cao hơn trước đó.
HRC Châu Á ổn định, các nhà máy không thay đổi giá do đã nhận đủ đơn hàng
Giá HRC nhập khẩu giao ngay ở Châu Á vẫn duy trì ổn định trong tuần này giữa bối cảnh giao dịch thưa thớt, mặc dù đơn hàng từ nước ngoài tăng do giá Trung Quốc cao hơn.
Platts định giá HRC SS400 dày từ 3mm trở lên trong khoảng 355-360 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Năm, bằng với tuần trước.
Giao dịch từ nhà máy lớn được thực hiện với giá 355-360 USD/tấn FOB tới người mua trực tiếp, mặc dù hầu hết các nhà máy Trung Quốc đều giữ chào giá ở mức 360-365 USD/tấn, vì không cần giảm giá do đã đạt doanh số tháng này. Xu hướng thị trường sẽ trở nên rõ ràng hơn trong tuần tới khi một đợt đặt hàng mới bắt đầu.
Một số giao dịch cũng được nghe nói chốt với giá thấp 350 USD/tấn FOB cho thép cuộn dày SS400 3mm được sản xuất bởi một nhà máy ở miền đông, mặc dù nhiều người cho rằng mức giá này là không thể lặp lại. Một nhà máy khác cũng ký hợp đồng với giá 353 USD/tấn FOB, nhưng điều này chỉ diễn ra với một người mua thông qua hợp đồng dài hạn với khối lượng trên 10.000 tấn.
Hầu hết các chào giá phổ biến khác vẫn giữ nguyên mức 365 USD/tấn FOB cho thép cuộn Masteel và 372-375 USD/tấn CFR Việt Nam. Các đơn hàng trên 10.000 tấn có thể mua được với giá 360 USD/tấn CFR. Chào giá thép cuộn Shagang duy trì mức 365 USD/tấn FOB với cơ hội thương lượng 1-2 USD/tấn.
Trong khi đó, tại Thượng Hải hôm thứ năm, HRC Q235 5.5mm được chốt với giá từ 2.390-2.410 NDT/tấn xuất xưởng, không đổi so với ngày trước đó nhưng lại tăng 10 NDT/tấn so với tuần trước.
Một nhà máy ở miền đông cân nhắc việc nâng chào giá để phản ứng với giá trong nước cao hơn nhưng hầu hết các thương nhân đều nhìn thấy nhu cầu quá yếu để hỗ trợ cho sự phục hồi của giá.