Phế nhập khẩu có thể kìm hãm giá phế nội địa Đông Nam Mỹ
Các lô hàng phế Ferrite nhập khẩu khối lượng lớn dự báo sẽ cập bến Đông Nam Mỹ trong tháng 7 và kìm hãm giá phế khu vực này.
Hai nhà máy lớn tại Southeast Mỹ đã đặt mua 2 lô hàng từ các thương nhân Châu Âu gồm 2 lô từ Thụy Điển. Trong đó, một lô là phế vụn còn lô kia là phế chất lượng cao. 2 lô hàng này có khối lượng tổng cộng 58.000 tấn phế Ferrite và có thể cập bến trong tháng 7.
Hai nhà máy này cho biết thường mua phế Châu Âu để dự trữ trong suốt các tháng thị trường cung phế nội địa chậm chạp hoặc có giá cao để tận dụng lợi thế đồng dolla tăng và sử dụng chúng làm đòn bẩy trong đàm phán với các nhà buôn phế nội địa và tận dụng lợi thế phế chất lượng cao của các nhà máy Châu Âu.
Nhìn chung,tam lý thị trường bình ổn với niềm tin giá có thể tăng ở Southeast do thiếu nguồn cung. Tuy nhiên, áp lực hàng nhập khẩu vẫn đe dọa tới thị trường nội địa.
Trong năm qua, Mỹ nhập khẩu trung bình 4 lô hàng phế mỗi quý từ Châu Âu. Trong năm 2014, Mỹ xuất khẩu 15.34 triệu tấn phế Ferrite và nhập khẩu 4.2 triệu tấn phế, khiến nó trở thành nhà nhập khẩu phế lớn thứ 5 thế giới sau Thổ Nhĩ Kỳ (19.1 triệu tấn), Hàn Quốc (8 triệu tấn), Ấn Độ (5.7 triệu tấn) và Đài Loan (4.3 triệu tấn).
Nhu cầu tiêu thụ phế trong tháng 7 dự báo vẫn bình ổn. Nguồn cung phế tiếp tục giới hạn giúp giá tăng sau khi giá phế tháng 6 tăng 20-30 USD/tấn so với tháng 5. Nếu các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tránh xa phế Mỹ thì các nhà xuát khẩu Bờ Đông có thể lấy thị trường nội địa làm mục tiêu chuyển hướng.
Gía thép cây Nga tăng 2 tháng liên tiếp nhờ sức mua ngày một tốt
Các nhà máy thép cây Nga đã tăng giá thép 2 tháng liên tiếp nhờ sức mua cải thiện.
Khối lượng giao dịch đã tăng lên tỏng tháng 6 và dự báo còn tăng nhẹ trong tháng 7. Theo ước tính thì tiêu thụ thép cây Nga trong tháng 6 tăng lên 690.000 tấn từ mức 630.000 tấn tháng 5 và trong tháng 7 có thể qua mức 700.000 tấn và vẫn bình ổn trong tháng 8.
Tuy nhiên, tiêu thụ trong tháng 9-11 dự báo giảm do đây là 2 tháng khó khăn của năm. Sự thật là hồi giữa tháng 6, Ngân hàng Trung Ương Nga đã giảm lãi suất chính thức xuống còn 11.5% từ 12.5%, mang lại hy vọng rằng thị trường sẽ sống sót qua mùa thu với ít lỗ hơn dự tính. Điều này vẫn chưa nâng thị trường xây dựng lên khỏi mức sàn và dự báo tiêu thụ thép cây Nga vẫn không đổi, ở mức -15% so với cùng kỳ năm ngoái.
Gía thép cây cuộn tháng 7 có sẵn tại mức 25.000 Rub/tấn (455 USD/tấn) đối với loại 12mm và 24.600 Rub/tấn (448 USD/tấn) cho loại 14mm giao tới Maxcova đã tính thuế, tăng 680 Rub/tấn (12 USD/tấn) so với tháng 6. Gía trị theo đồng dolla tăng tương tự, 13 USD/tấn so với giữa tháng 6 do trong hơn nửa tháng qua, đồng Rub vẫn bình ổn ở mức 55 Rubs/USD tại tỷ giá ngày 12/6.
Platts tăng giá thép cây 12-14mm Nga thêm 670 Rub/tấn (12 USD/tấn) so với tuần trước đó, lên mức 20.850-21.190 Rub/tấn (380-385 USD/tấn) CPT Maxcova. Gía trị đồng dolla tăng 13 USD/tấn dựa trên tỷ giá đồng Rub bình ổn.
Thậm chí sau khi giá tăng, giá thép cây Nga vẫn thấp hơn giá xuất khẩu từ CIS 10-15 USD/tấn. Gía chào gần đây nhất từ CIS là 390-400 USD/tấn FOB Biển Đen. Nếu xét ở vài phương diện thì đây là tin tốt cho các nhà máy Nga do nó chứng tỏ thị trường nội địa vẫn thu hút hơn là hàng nhập khẩu.
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 350 USD/tấn FOB Biển Đen , bình ổn so với ngày trước đó.
Các nhà máy CIS vẫn giữ chắc giá chào và do dự giảm giá xuống dưới mức 350 USD/tấn FOB Biển Đen/Azov. Gía chào từ Ukraina đạt mức 350 USD/tấn FOB trong khi vài nhà máy Nga chào bán tại mức 355 USD/tấn FOB Biển Đen.
Vài nguồn tin tiếp tục tin rằng các nhà máy có thể chấp nhận giá 345 USD/tấn FOB nếu người mua kiên quyết giữ nguyên giá nhưng chưa có đơn hàng nào được chốt.
Platts vẫn duy trì giá bình ổn tại mức 350 USD/tấn FOB.
Các nhà máy Nga tăng giá HRC do nhu cầu tiêu thụ tăng
Các nhà máy HRC Nga đã cố gắng tăng giá HRC sau khi cắt giảm 4 tháng liên tiếp trước đó. Gía tăng chưa tính VAT là 640 Rubs/tấn (12 USD/tấn).
Gía thép tăng nhờ nhu cầu tiêu thụ tăng nhẹ chủ yếu từ các nhà máy thép ống và cũng do đồng Lira suy yếu so với dolla từ ngày 26/5-26/6.
Tuy nhiên, vài nhà môi giới không tin tưởng giá sẽ tăng lâu do nhu cầu tiêu thụ cuối chưa thực sự tốt. Trong tháng 7, giá bán lẻ dường như bình ổn.
Gía thép tấm cuộn tháng 7 trên thị trường là 28.190-28.300 Rub/tấn (512-514 USD/tấn) đối với loại 2mm và 27.600 Rub/tấn (501 USD/tấn) cho loại 4mm giao tới Maxcova. Nếu chưa tính VAT 18%, giá này đạt mức 23.890-23.980 Rub/tấn (434-436 USD/tấn) và 23.390 Rub/tấn (425 USD/tấn).
Platts tăng giá thép cuộn và tấm cán nóng 3-4mm Nga lên 23.400-23.950 Rubs/tấn (425-435 USD/tấn) và 22.800-23.350 Rubs/tấn (414-424 USD/tấn) CPT Maxcova, tăng 650 Rubs/tấn (12 USD/tấn) so với giá 22.700-23.350 Rub/tấn (432-444 USD/tấn) và 22.100-22.750 Rubs/tấn (420-432 USD/tấn) CPT Maxcova tại mức tỷ giá ngày 29/5.
Mặc dù giá thép theo đồng Rub tăng nhưng giá trị thép đổi sang dolla lại giảm 8 USD/tấn do sự mất giá của đồng Rub. Từ ngày 29/5-26/6, tỷ giá đồng Rub giảm từ 53 Rubs/USD xuống còn 55 Rubs/USD. Gía HRC nội địa Nga vẫn cao hơn giá xuất khẩu (350 USD/tấn FOB Biển Đen) khoảng 70 USD/tấn.
Mặc dù chênh lệch giá hiện tại thấp hơn hồi tháng 5 (111 USD/tấn) tầm 40 USD/tấn nhưng thị trường HRC Nga nhìn chung vẫn thu hút hàng nhập khẩu từ Ukraina và Kazakhstan. Trong khi đó, CRC Ukraina thậm chí còn được giao tới Urals.
Gía tấm cán nguội tháng 7 đạt mức 28.500 Rub/tấn (515 USD/tấn) CPT Maxcova đối với loại dày 1mm. Với thuế VAT, giá mặt hàng này đạt mức 33.600 Rubs/tấn (608 USD/tấn). Tuy nhiên, tiêu thụ tại thị trường CRC không tốt lắm và tiêu thụ từ các nhà máy sản xuất xe hơi và linh kiện máy móc vẫn trì trệ.
NSSC giảm giá thép dây austenite nhưng duy trì giá ferrite
Nippon Steel & Sumikin Stainless thông báo hôm thứ Sáu rằng sẽ giảm giá cuộn trơn austenite xuống 10.000 Yên/tấn (81 USD/tấn) cho những hợp đồng tháng 6 đến tháng 8 và sản xuất tháng 7 đến tháng 9, nhưng sẽ duy trì giá cuộn trơn ferrite.
Sự sụt giảm này phản ánh giá niken rớt mạnh, giá trung bình từ 26/3 đến 25/6 đã giảm 0,57 USD/lb còn 5,91 USD/lb từ 3 tháng trước. Giá Ferrochrome trong quý2 vẫn duy trì ở mức 116 cents/lb.
“Sự thay đổi của giá trong những hợp đồng thép dây tháng 6 đến tháng 8 đơn giản là từ sự thay đổi của giá hợp kim. Trước đây, NSSC đã giảm 15.000 Yên/tấn cho thép dây austenite đối với những hợp đồng tháng 3 đến tháng 5 và duy trì giá thép dây ferrite”.
Công ty dự kiến sẽ hoạt động hết công suất trong quý 3. “Chúng tôi có thể nhìn thấy nhiều dấu hiệu phục hồi trong lĩnh vực ô tô vì vậy chúng tôi đang chuẩn bị để sản xuất ở mức cao. Trong bất cứ trường hợp nào, dù chúng tôi có lên kế hoạch bảo trì nhà máy thép dây trong tháng 10, chúng tôi cũng sẽ nâng sản lượng vào quý tới”.
NSSC sản xuất cuộn trơn tại Hikari, miền tây Nhật Bản khoảng 130.000 tấn/năm.
Gía phôi phiến CIS giảm do tiêu thụ thép cuộn trì trệ tại thị trường xuất khẩu
Gía xuất khẩu phôi phiến CIS tháng 8 đã giảm 2.50 USD/tấn so với tuần trước do tiêu thụ trì trệ tại Châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ. Platts giảm giá xuất khẩu phôi phiến CIS xuống còn 285-295 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm 2.50 USD/tấn so với giá 290-295 USD/tấn FOB tuần trước.
Theo nguồn tin cho biết, 2 nhà máy Nga bán phôi phiến tại mức giá thấp 280-290 USD/tấn FOB Biển Đen giao tháng 8 tới Bắc Mỹ. Tuy nhiên, các đơn hàng này, đặc biệt là giá 280 USD/tấn không được coi là giá phổ biến tại thị trường giao ngay do đó là giá bán của 2 nhà máy NLMEN K và Evraz tới Mỹ.
Các nhà máy Nga vẫn bán được với giá tốt. Mặc dù giá thấp nhưng vẫn cao hơn giá phôi phiến 100 USD/tấn. Gía cuối giảm 33 USD/tấn so với Qúy trước từ mức 224 USD/tấn trong tháng 10-12 còn 191 USD/tấn trong Q1/2015. Điều này phản ánh giá trung bình giữa Severstal (169 USD/tấn), NLMK (197 USD/tấn) and MMK (207 USD/tấn).
CRC không gỉ Châu Á giảm do sức mua và giá niken suy yếu
Giá giao ngay của CRC không gỉ loại 304 2B 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc giảm còn 2.050-2.100 USD/tấn CFR tại các cảng lớn ở Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ Sáu. Mức giá này giảm so với 2.100-2.200 USD/tấn của ngày 19/6 và cho thấy nhu cầu cũng như giá niken đều đang suy yếu.
Một nhà kinh doanh ở Hong Kong cho biết một số người bán xông xáo sẽ sẵn sàng bán với giá 2.050 USD/tấn. Một nhà kinh doanh thép không gỉ ở miền đông cũng đồng tình và cho rằng có nhiều nhà cung cấp thép không gỉ của Trung Quốc cũng đã cố gắng xuất khẩu do thị trường nội địa trầm lắng.
“Nền kinh tế Trung Quốc không được tốt và các nhà sản xuất thép không gỉ đã cảm thấy ớn lạnh. Do đó họ đang chạy theo cơ hội tốt hơn ở nước ngoài, điều này chỉ làm xấu hơn sự cạnh tranh khốc liệt ở thị trường thép không gỉ Châu Á”.
Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken trên sàn London Metal Exchange chốt tại 12.580-12.585 USD/tấn hôm 25/6, giảm so với 12.855-12.860 USD/tấn của ngày trước đó. Một số người đã suy đoán giá niken sẽ giảm sâu thêm và cuối cùng chốt tại 10.000 USD/tấn.
Nhiều người đồng tình rằng nguồn cung thép không gỉ ở Châu Á tin rằng CRC 304 2B 2mm và những loại khác có nguồn cung vượt xa nhu cầu.
Hơn thế nữa, việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu đối với các sản phẩm thép không gỉ từ Đài Loan và Trung Quốc từ tháng 3 đã tăng việc vận chuyển từ 2 nước này ở Châu Á và đang khiến giá Châu Á bị sức ép.
Gía phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ giảm xuống mức thấp 255 USD/tấn
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá mua phế tàu và phế DKP xuống 7-13 USD/tấn, do giá phế nhập khẩu suy yếu trong bối cảnh tiêu thụ thấp và đồng dolla tăng so với Lira.
Phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ (IDC, HABAS, Ege Celik, Ozkanlar) tại mức giá 260-268 USD/tấn, giảm 5-10 USD/tấn so với thứ tư.
Nhà máy Iskenderun tại Thổ Nhĩ Kỳ thuộc tập đoàn Erdemir cũng giảm giá mua phế DKP xuống 35 TRY/tấn (13 USD/tấn) xuống còn 715 TRY/tấn (268 USD/tấn).
Mộ trong những nhà máy EAF Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu cũng giảm giá mua phế DKP xuống 20 TRY/tấn còn 680 TRY/tấn (255 USD/tấn) trong ngày 27/6.
Vài nhà máy EAF cũng giảm giá mua phế xuống 20-30 TRY/tấn.
Tâm lý thị trường suy yếu kéo giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đi xuống
Gía thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm thêm 50 TRY/tấn (18 USD/tấn) trong tuần qua do lễ Ramadan và tiền mặt thiếu hụt trong bối cảnh tỷ giá dao động.
Gía thép cây đường kính 8-12mm từ các nhà môi giới Marmara đạt mức 1.370-1.390 TRY/tấn xuất xưởng đã tính VAT 18% trong ngày thứ sáu trong khi giá tại Iskenderun đạt mức thấp 1.280-1.300 TRY/tấn.
Nhu cầu tiêu thụ trì trệ cả trong và ngoài nước là lý do chính khiến giá giảm, chủ yếu do lễ Ramadan cũng như chính trị bất ổn ảnh hưởng tới tính năng động của nền kinh tế sau cuộc bầu cử gần đây.
Vài nhà máy như Kardemir đã đóng cửa giao dịch trong ngày thứ sáu. Đối với các nhà máy đang chào bán, giá chỉ thấp hơn giá từ các nhà môi giới từ 10-15 TRY/tấn.
Trong khi đó, tâm lý thị trường thép thành phẩm trì trệ cũng tăng áp lực cho giá phế và các nhà máy thép nhìn chung đều xa lánh thị trường phế trong suốt tuần. Gía phế HMS 1&2 nhập khẩu giảm dưới mức 270 USD/tấn CFR trong tuần qua trong khi giá phế nội địa giảm thêm 5-7 USD/tấn.
Thép cây Trung Quốc đang ở mức thấp 10 năm
Giá thép cây giao ngay của Trung Quốc tiếp tục rớt xuống mốc thấp trong suốt tuần trước, giá ở Thượng Hải đã chọc thủng điểm dừng quan trọng về tâm lý là 2.000 NDT/tấn (322 USD/tấn) để chạm tới mốc thấp nhất trong hơn 10 năm qua.
Ở Thượng Hải, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt tại 1.970-2.000 NDT/tấn xuất xưởng trọng lượng lý thuyết và gồm 17% VAT hôm thứ Sáu, giảm 65 NDT/tấn so với tuần trước đó. Mức giá trung bình 1.985 NDT/tấn đánh dấu mức thấp nhất kể từ 2002.
Ngay cả khi như vậy, thì một số đại lý vẫn dự báo giá sẽ còn giảm sâu thêm do khả năng lực cầu cải thiện là rất ít, nhất là khi đang vào mùa thấp điểm.
Lợi nhuận của một số nhà máy đang bị cắt xén bởi giá thép liên tục giảm trong khi chi phí quặng sắt nhập khẩu vẫn duy trì quanh mức 60 USD/tấn, dẫn đến các nhà máy sẽ bắt đầu hạn chế sản lượng. Tuy nhiên, mức cắt giảm có vẻ như không đủ để bù đắp sức mua hạn chế của các ngành công nghiệp.
Ở Bắc Kinh, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm không đổi so với thứ Năm và duy trì mức 2.105-2.125 NDT/tấn xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm VAT. So với tuần trước đó, giá đã giảm nhẹ 5 NDT/tấn.
Nhiều người tin rằng giá đã phần nào bình ổn vì các đại lý đã từ chối bán ở mức giá quá thấp. Họ muốn tránh bị lỗ sau khi Hebei Iron & Steel (Hegang) đưa ra giá hợp đồng tháng 6 là 2.070 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết cho thép cây HRB400 đường kính 18-25mm.
Mức giá này được xem như là nhân tố trong việc bù lại 100 NDT/tấn mà Hegang đã cam kết sẽ bồi hoàn lại cho các đại lý của mình trên những đơn hàng tháng 6 nếu họ hoàn thành từ 90% trở lên chỉ tiêu đặt mua tháng 7.
Nhưng với tình hình thị trường về cơ bản vẫn không thay đổi thì giá có thể sẽ tiếp tục dao động cùng với mức thấp hiện nay vào tháng tới. Bên cạnh đó, sức mua trì trệ đang khiến thép cây tồn kho ở Bắc Kinh bắt đầu gia tăng trở lại.
Sau 14 tuần giảm liên tiếp, thép cây tồn kho ở Bắc Kinh đã tăng 8% trong tuần trước còn 336.100 tấn tính đến ngày 26/6, theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải, Mysteel.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây Bắc Âu không đổi tại mức 388 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ sáu.
Các nhà máy tại Đức và Benelux cho biết có các giao dịch được chốt dưới mức 390 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr mặc dù các nhà máy Bắc Âu vẫn chính thức chào giá trên 400-405 Euro/tấn.
Một nhà máy Đông Âu cho biết đang chào bán HRC tại mức 400-405 Euro/tấn cùng với các nhà máy Bắc Âu nhưng giao dịch được chốt dưới mức này.
Nhu cầu tiêu thụ hạn chế kéo giá phế Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu
Thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu trong tuần qua nhưng đã có 2 đơn hàng được chốt hồi đầu tuần.
Platts giảm giá phế HMS I/II nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ xuống còn 269 USD/tấn CFR, giảm 6 USD/tấn so với tuần trước.
Bối cảnh thị trường toàn cầu cũng trì trệ với sự suy yếu của các nước Trung Đông trong lễ Ramadan và kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bất ốn sau bầu cử với chính Quyền mới chưa được hình thành. Theo dự báo thì thị trường phế sẽ khởi sắc trong tuần tới bất chấp việc phôi thanh Trung Quốc được ưa chuộng hơn do có rất ít đơn hàng nguyên liệu thô và bán thành phẩm đã được đặt tới Thổ Nhĩ Kỳ trong tháng 7 và hàng tồn tại các nhà máy cũng rất thấp. Các nhà cung cấp phế đang tận dụng điều này để ngăn giá giảm trong khi các nhà máy đang giảm công suất sản xuất hay thậm chí ngưng sản xuất trong tháng 7.
Gía phế Nhật cũng suy yếu. Các thương nhân Nhật Bản đang thu mua phế H2 xuất khẩu tại vịnh Tokyo với giá 25.500-26.000 Yên/tấn (206.3-210.3 USD/tấn) FAS, giảm 500-1.000 Yên/tấn (4-8 USD/tấn) so với tuần trước.
Nhà máy mini Tokyo Steel Manufacturing đã giảm giá mua phế xuống 500-1.000 Yên/tấn cho tất cả các loại phế tại các xưởng từ ngày 27/6, lần cắt giảm đầu tiên kể từ ngày 11/3.
Gía thu mua phế của Tokyo Steel tại các xưởng Utsunomiya phía Bắc Kanto đạt mức 26.000 Yên/tấn. Các nhà máy mini khác cũng bắt đầu giảm giá mua phế so với tuần trước. Kanto Steel và Itoh Iron& Steel cùng ở Bắc Kanto cũng giảm giá mua phế xuống 500 Yên/tấn và Jonan Steel tại Saitama gần Tokyo đều giảm giá mua phế xuống 1.000 Yên/tấn trong tuần.
Các khách hàng Đài Loan tiếp tục xa lánh phế Nhật trong khi Việt Nam đặt muc tiêu giá là 265 USD/tấn CFR, tương đương mức 215 USD/tấn (26.574 Yên/tấn) FOB với đơn hàng 10.000 tấn.
Nhà máy Dongkuk Steel Mill Hàn Quốc đã đặt mua phế H2 Nhật tại mức giá 26.000 Yên/tấn FOB trong tuần qua với tổng khối lượng 35.000 tấn, giảm 500 Yên/tấn so với giá giao dịch trước đó 1 tuần của Hyundai Steel.
Nhà máy Daehan Steel Hàn Quốc cũng mua phế H2 Nhật tại mức giá 26.300 Yên/tấn cho đơn hàng 10.000 tấn.
Tại thị trường Hàn Quốc, Daehan đã tăng giá mua phế nội địa thêm 10.000 Won/tấn (9 USD/tấn) cho tất cả các loại phế tại các xưởng Busan từ ngày 25/6.
Giá thép tấm nhập khẩu suy yếu ở Nhật Bản
Giá thép tấm thương mại nhập khẩu vào Nhật Bản đã sụt giảm trong những tuần gần đây, các nhà phân phối hàng đầu sợ mức giá trong nước sẽ lao dốc theo.
Giá thị trường cho thép tấm nhập khẩu SS400 được sản xuất bởi Posco và China Steel Corp (Đài Loan) khoảng 70.000-72.000 Yên/tấn (566-583 USD/tấn), giảm 1.000 Yên/tấn so với 1 tháng trước. Còn giá của loại thép này từ các nhà máy liên hợp trong nước tầm 75.000-77.000 Yên/tấn.
Các nhà máy Nhật Bản đã và đang duy trì giá giao ngay, một nhà phân phối ở Tokyo giải thích, nhưng nhu cầu chậm hơn từ lĩnh vực xây dựng cũng như máy móc xây dựng đã khiến một số nhà phân phối bắt đầu giảm giá thép nhập khẩu để thúc đẩy hoạt động kinh doanh.
Một nhà phân phối khác ở Tokyo cho biết tổng khối lượng thép tấm nhập khẩu từ Hàn Quốc và Đài Loan đã giảm nhưng các nhà máy liên hợp Nhật Bản đang hạn chế lượng hàng bán giao ngay thậm chí còn nhiều hơn. Theo đó, đã làm mất cân bằng cung-cầu cho thép tấm nhập khẩu. Một số nhà phân phối đang tích trữ thép tấm nhập khẩu nhiều hơn đã giảm giá để giảm bớt lượng hàng tồn của họ.
Trong 4 tháng đầu năm nay, cả nước đã nhập khẩu 158.832 tấn thép tấm từ Hàn Quốc, giảm 19,2% so với năm ngoái và từ Đài Loan khoảng 12.235 tấn, giảm 5,4% so với năm 2014, theo Liên đoàn Sắt thép Nhật Bản.
Một người khác cho biết tổng nhu cầu thép tấm ở Nhật đã ổn định nhờ lực cầu mạnh từ ngành đóng tàu nhưng thép tấm đóng tàu nhìn chung được bán theo hợp đồng không phải giao ngay thông qua các đại lý. “chúng tôi chỉ phải đợi đến mùa thu vì khi đó nhu cầu từ ngành xây dựng phục hồi trở lại. Trong thời gian đó, chúng tôi sẽ cố gắng bảo vệ giá của mình”.
Thép tấm vận chuyển từ các trung tâm trong tháng 5 đạt 164.526 tấn, giảm 2,4% so với tháng 4 và 5,9% so với năm ngoái, theo Zenkoku Atsuita Shearing Kogyo Kumiai.
HDG Ấn Độ xuất tới Mỹ chững lại
Việc xuất khẩu HDG từ Ấn Độ tới Mỹ đã chững lại kể từ khi Mỹ bắt đầu vụ kiện thương mại nhắm vào thép tấm mạ nhập khẩu hôm 3/6. Trước thông báo này, chào giá Ấn Độ cho thép cuộn loại dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông là 700-725 USD/tấn CFR East Coast Hoa Kỳ.
Các nhà máy Ấn Độ đang tỏ ra thận trọng trong xuất khẩu tới Mỹ cho đến khi có kết quả rõ ràng về phán quyết của vụ kiện này. Đại diện nhà máy ở Delhi ước tính chuyến tàu cuối cùng sẽ khởi hành vào khoảng ngày 3/7 với tầm 35.000-40.000 tấn HDG.
Do nhu cầu HDG Ấn Độ thường gia tăng ở Châu Âu nên đã bán được một số PPGI 0.21mm phủ 100 gram kẽm trên một mét vuông với giá 930 USD/tấn CFR Romania.
Ông cũng đã bán HDG 0.75mm-0.8mm phủ 40 gram kẽm trên một mét vuông của Trung Quốc với giá 590 USD/tấn, và một lô HDG 2mm phủ 275 gram kẽm trên một mét vuông với giá 575 USD/tấn CFR tới một số khách hàng Romania.
Ở những nơi khác, nhu cầu từ Trung Đông đã chậm lại do đang vào tháng chay Ramadan (17/6-17/7). Khách hàng sẽ tiêu thụ hết hàng tồn trong suốt thời gian này và hoạt động thu mua có thể sẽ trì trệ.
Lực cầu sụt giảm ở những khu vực còn lại trên thế giới nghĩa là sẽ có nhiều HDG hơn tồn kho trên thị trường Ấn Độ. Tuy nhiên, mùa mưa sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu của ngành hàng tiêu dùng do sản lượng tủ lạnh và tủ mát giảm.
“Nhưng chúng tôi đã thấy nhu cầu phục hồi từ lĩnh vực sản xuất xe thương mại, nhất là xe bus trường học. Xe thương mại góp một phần nhỏ vào nhu cầu thép mạ và lượng tiêu thụ có thể đạt khoảng 200.000 tấn trong năm nay”, một nhà cán lại từ miền tây Ấn Độ xác nhận.
HRC Châu Á chạm mức đáy mới trong cuộc chiến giá giữa những người bán
Giá giao ngay của HRC nhập khẩu vào Châu Á rớt xuống mốc thấp mới hôm thứ Sáu, do sự cạnh tranh khốc liệt giữa những người bán và giá quặng sắt giảm.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm ở mức 335-343 USD/tấn FOB Trung Quốc, mức giá trung bình 339 USD/tấn, giảm 2 USD/tấn so với ngày trước đó. Đây là ngày thứ hai liên tiếp giá giảm và đây cũng là mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá vào tháng 01/2006.
Một hợp đồng HRC SS400 3.0mm từ một nhà máy lớn ở miền đông Trung Quốc được ký kết với giá 345 USD/tấn CFR TP.HCM, giao tháng 8. Hai hợp đồng khác cho thép cuộn loại giống vậy được thực hiện với giá 337 USD/tấn CFR và 352 USD/tấn CFR Việt Nam từ hai nhà máy nhỏ hơn ở miền bắc Trung Quốc.
Người mua ở Trung Đông và Châu Phi hiện đang đưa ra mức giá 310 USD/tấn FOB. “Tôi không muốn nhận đơn hàng ở mức giá hiện tại vì việc giảm giá liên tục sẽ chỉ mang sự hoảng sợ tới thị trường mà thôi”, một thương nhân ở Thượng Hải nói. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng sự bi quan bao trùm trên thị trường và suy đoán giá có thể giảm tới 330 USD/tấn trong những tuần tới. Một số nhà kinh doanh cũng đang chấp nhận đơn hàng ở mức thấp 345 USD/tấn CFR Việt Nam.
Thế nhưng một người khác cho biết 345 USD/tấn CFR Việt Nam, hay tương đương 335 USD/tấn FOB Trung Quốc không phải là một mức giá khả thị, vì ông cũng không thể mua thép từ nhà máy ở mức giá này.
Đối với thép tấm mỏng, các hợp đồng cho những lô có khối lượng nhỏ được chốt với giá 352 USD/tấn CFR TP.HCM để giao ngay và 345 USD/tấn CFR TP.HCM giao tháng 8.
Tại thị trường Thượng Hải, Platts định giá HRC Q235 5.5mm ở mức 2.240-2.270 NDT/tấn (361-366 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Sáu, giảm 25 NDT/tấn so với thứ Năm.
Các thương nhân thép cây Mỹ cân nhắc giá chào thấp từ Thổ Nhĩ Kỳ
Các thương nhân thép cây Mỹ đang cân nhắc giá chào thép cây 450-460 USD/tấn hồi cuối tuần qua của Thổ Nhĩ Kỳ nhưng chưa có giao dịch được chốt.
Platts giảm giá thép cây nhập khẩu xuống còn 452-453 USD/tấn CIF Houston từ mức 452-468 USD/tấn.
Một thương nhân cho biết có thể mua thép cây với giá 450 USD/tấn CFR Houston giao tháng 9. Đây là giá tốt nhất cho tháng 9 và giá tháng 10 có thể rẻ hơn.
Một thương nhân cho biết cần nói chuyện với khách hàng về giá và hàng có sẵn trong tuần này. Ông thừa nhận thép cây Nhật Bản không cạnh tranh với thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vào lúc này.
Một thương nhân khác cho biết có thể mua thép cây Thổ Nhĩ Kỳ với giá 455 USD/tấn CFR Houston nhưng giá sẽ giảm trong tuần này. Chưa có giao dịch nào được chốt và ông cũng chưa sẵn sàng mua. Một thương nhân cho biết với các lô hàng từ Thổ Nhĩ Kỳ vào trong tháng 9 và 10 thì vẫn còn thời gian để vận chuyển nguyên liệu tới các thị trường băng qua song trước khi mùa đông đến.
Trong khi đó, sự trì hoãn của các chuyến tàu lớn vận tải thép cây Thổ Nhĩ Kỳ trong năm nay khiến ông lo lắng về các lô hàng sau tháng 8. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang khát đơn hàng do nhu cầu tiêu thụ cũng như giá thép trong nước đều suy yếu. Gía thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 455-459 USD/tấn CFR Houston mặc dù các đơn hàng lớn có thể thu được giá 450 USD/tấn CFR.
Giá phôi thanh Trung Quốc xuất sang Đông Nam Á tiếp tục sụt giảm
Chào giá phôi thanh từ Trung Quốc tới Đông Nam Á tiếp tục suy yếu trong tuần trước do các nhà cung cấp tìm mọi cách để có được hợp đồng vì họ đang cần tiền mặt.
Ít nhất 10.000 tấn và có thể là thêm 20.000 tấn phôi thanh Q275 120mm của Trung Quốc được đặt mua với giá 343 USD/tấn CFR Manila. Các thương nhân đã xác nhận có ít nhất một nhà cán lại trong khu vực đã chắc chắn có được hàng và họ tin rằng một số người khác đã cũng đã mua ở mức giá này.
Hồi đầu tuần trước, chào giá 345 USD/tấn CFR, nhưng đến thứ Sáu đã giảm còn 341-342 USD/tấn CFR. “Đây là một thị trường tự do cho tất cả. Các nhà máy thuộc nhà nước thậm chí còn không quan tâm đến chi phí của họ miễn sao là bán được hàng. Tôi nghĩ giá sẽ không chạm đáy trừ phi các nhà máy thực sự cắt giảm sản lượng hoặc ngừng sản xuất”, một thương nhân cho biết.
Chào giá cho phôi thanh Q275 120mm phổ biến ở mức 350 USD/tấn CFR trong tuần trước. Phí vận chuyển từ Trung Quốc tới Manila là 28-30 USD/tấn.
Chào giá tới Việt Nam phổ biến tầm 314-315 USD/tấn CFR cho phôi thanh Q255 150mm. “Thậm chí ở mức giá này, các khách hàng cũng không mua”, một nhà kinh doanh ở TP.HCM nói. Ông tin là người mua đang trả giá 310-312 USD/tấn CFR. Tuần trước đó, loại phôi thanh này được đặt mua với giá 320 USD/tấn CFR, phí vận chuyển tới Việt Nam khoảng 10 USD/tấn.
Chào giá phôi thanh Q275 130mm phổ biến ở mức 340 USD/tấn CFR ndonesia và 330 USD/tấn CFR Thái Lan. Phôi thanh Hàn Quốc và Nga được chào giá lần lượt 370 USD/tấn CFR và 360 USD/tấn CFR ở Thái Lan đã không thu hút được sự quan tâm của khách hàng do họ muốn mua phôi của Trung Quốc hơn.
Hôm thứ Sáu, tại Platts, phôi thanh nhập khẩu vào Đông Á giảm còn 340-350 USD/tấn CFR từ mức 345-365 USD/tấn CFR của tuần trước đó. Mức giá trung bình thấp hơn 10 USD/tấn so với tuần trước.