Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 29/2/2016

Chênh lệch giá HRC/CRC Mỹ nới rộng, hàng nhập khẩu thu hút sự quan tâm

Chênh lệch giá giữa HRC và CRC tại thị trường Mỹ tiếp tục nới rộng ra hôm thứ Hai do nguồn cung CRC tiếp tục thắt chặt. Tuy nhiên người mua cho hay thị đang gia tăng mối quan tâm đến giá chào nhập khẩu do giá nội địa tăng cũng như thời gian giao hàng kèo dài.

Platts đã tăng mức định giá ngày của CRC lên mức 560-580usd/tấn ngắn từ mức 550-570usd/tấn ngắn, cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana). Giá HRC duy trì ở mức 395-420usd/tấn ngắn, cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana).

Dựa trên mức định giá hôm thứ Sáu của Platts, chênh lệch giữa hai sản phẩm là 162.50usd/tấn ngắn, cao hơn nhiều mức chênh lệch thường có giữa hai sản phẩm là 100-120usd/tấn ngắn. Sự phân kỳ trong xu hướng giá của hai sản phẩm có thể sẽ tiếp tục trong ngắn hạn, do thị trường HRC tiếp tục trì trệ nhưng nguồn cung nội địa thắt chặt và nhu cầu tiêu thụ của người dùng cuối tiếp tục duy trì ổn định đang tạo động lực tăng cho CRC và HDG. Thời gian giao hàng CEC và HDG đã ra khỏi tháng 04 và kéo dài đến tháng 05 từ hầu hết các nhà máy Mỹ, thu hẹp thời gian giao hàng giữa hàng nhập khẩu hiện cũng đang ở khoảng thời gian tháng 05tháng 06.

Một trung tâm dịch vụ cho biết giá nhập khẩu CRC ở mức khoảng 444usd/tấn ngắn đã cập cảng và nhu cầu cho đơn hàng nhập khẩu mới đang dẫn việc đặt mua khiêm tốn.

Một nhà phân phối cho biết giá chào nhập khẩu CRC khá thu hút thị trường tuy nhiên giá nội địa HRC ở mức thấp 390usd/tấn ngắn xuất xưởng khiến cho giá chào nhập khẩu không thể thu hút được mối quan tâm của thị trường.

Một trung tâm dịch vụ thứ ba cho hya đã không còn mua HRC giao ngay nhưng gần đây có đặt mua một lượng nhỏ HDG ở mức giá dưới 5880-600usd/tấn ngắn.  

Định giá CRC vẫn dưới mức 560usd/tấn ngắn từ một nhà máy Mỹ, theo một nguồn tin thứ tư, nhưng một nhà máy khác vẫn ở mức 570usd/tấn ngắn. Nhà phân phối này cho hay không nhìn thấy giá HRC giảm xuống mức dưới 400usd/tấn ngắn và vẫn ở mức 400-410usd/tấn ngắn cho đơn hàng HRC của người này. 

Giá thép cây nội địa Nga tăng do nguồn cung thắt chặt

Các nhà sản xuất thép dài Nga đã thông báo tăng thép cây sản xuất tháng 03 và tin rằng họ sẽ duy trì được giá tăng sản xuất cắt giảm – với một số nhà máy thậm chí đang ngưng sản xuất – cân bằng nguồn cung và nhu cầu tiêu thụ.

Một nguồn tin công nghiệp cho biết nhu cầu tiêu thụ tháng đã từng ở mức 500.000-600.000 tấn nhưng đã giảm còn 450.000 tấn/tháng và nguồn cung cũng đang giảm tương tự. Điều này cho thấy sự hy sinh cắt giảm sản xuất đáng kể cuối cùng cũng mang lại kết quả vì nhà sản xuất đã loại bỏ mức sản xuất thừa và vì vậy mở cửa cho khả năng phục hồi giá.

Các nhà máy Nga đang thương thảo tăng trong khoảng từ 1.000 Rúp (13usd) đến 1.500 Rúp (20usd) một tấn trong giá nội địa, bao gồm VAT. Sản lượng thép cây tháng 03 được nghe nói chào giá ở mức 22.500-22.800 Rúp (298-302usd/tấn) cho thép cây đường kính 12mm và 22.100-22.400 (293-297usd)/tấn cho thép cây đường kính 14mm. Nếu không tính thuế VAT 18%, mức giá trên sẽ lần lượt là 19.070-19.320 Rúp (253-256usd)/tấn và 18.730-1.980 (249-252usd)/tấn, đánh dấu mức tăng 975 Rúp (13usd)/tấn từ mức giá cách đây một tháng.

Mặc dù mức tăng cuối cùng vẫn chưa chắc chắn, nhưng cả phía nhà máy và người mua đang bảo đảm rằng mức mức 850 Rúp (11usd)/tấn, không bao gồm VAT (1.000 Rúp (13usd)/tấn bao gồm VAT) sẽ là mức tăng tối thiểu.

Hôm thứ Sáu, 26/02, Platts đã nâng định giá thép cây Nga 12-14 mm thêm 850 Rúp (11usd)/tấn, lên mức 18.700-19.100 Rúp (249-254usd)/tấn CPT Moscow.  

Định giá thép theo đồng dollar cũng tăng tương tự, thêm 12usd/tấn, từ mức giá đầu tháng 02 do tỉ giá đồng Rúp và đồng dollar biết động không đáng kể từ 76 Rúp/1usd cách đây 1 tháng còn 75 Rúp/1usd. 

Định giá phôi thanh CIS

Platts định giá xuất khẩu hằng ngày phôi thanh CIS ở mức 257usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Sáu, duy trì ổn định so với ngày trước đó.

Chào giá từ các nhà sản xuất CIS cho hàng giao tháng 03 ở mức 260-265usd/tấn FOB Biển Đen/ Cảng Biển Azov. Một nhà máy Ukraina được cho là đã giảm giá chào mua còn 257usd/tấn FOB Biển Azov – giá chào bán của nhà máy duy trì ở mức 260usd/tấn FOB. Giá niêm yết của Nga chốt ở mức 265usd/tấn FOB Biển Đen, tương đương 257-276usd/tấn CNF Thổ Nhĩ Kỳ. Không có đơn hàng nào đặt.  

Các nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ đã miễn cưỡng đặt mua phôi thanh CIS, với khối lượng nhỏ, ở mức giá hơn 270usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 255-258usd/tấn FOB Biển Đen. 

Giá HRC Nga trên đà tăng do xuất khẩu cải thiện

Các nhà sản xuất HRC Nga đang xem xét tăng giá trong nước cho sản lượng tháng 03 thêm 3-3.5% từ mức giá tháng 02. Các nhà máy này đang sử dụng sự tăng trưởng hàng xuất khẩu gần đây để làm đòn bẩy bảo đảm việc tăng giá trong nước.

Nếu việc tăng giá này hoàn toàn thành công, giá HRC tháng 03 sẽ đạt mức 27.140-27.200 Rúp (363-364usd)/tấn cho mặt hàng dày 2mm và 26.500-26.550 Rúp (354-355usd)/tấn cho mặt hàng dày 4mm, vận chuyển đến Moscow. Không tính mức thuế VAT 18%, mức giá này lần lượt là  23.000–23.050 (308usd) /tấn và 22.460-22.500 (300-301usd)/tấn, đánh dấu mức tăng 3-3.5% tương đương 715 Rúp (10usd)/tấn từ mức giá chốt tháng 02.

Đàm phán xem xét tăng vẫn đang diễn ra, phía nhà máy và nhà phân phối chắc chắn sẽ có sự thống nhất nhất định.

Hôm thứ Sáu, 26/02, Platts nâng giá tấm cán nóng và thép cuộn 2-4mm nội địa Nga lần lượt lên mức 22.100-22.700 Rúp (295-304usd)/tấn và 21.500-22.200 Rúp (288-297usd)/tấn, cơ bản CPT Moscow, tăng 350 Rúp (5usd)/tấn so với tuần trước đó.  

Định giá theo đồng dollar Mỹ tăng 15usd/tấn trong khi đồng Rúp tăng một chút so với đồng dollar. Giá HRC CPT Moscow cũng tiếp tục duy trì mức chênh lệch tăng 25usd/tấn so với giá FOB Biển Đen mặc dù giá xuất khẩu gần đây đã tăng 10usd/tấn. 

Kardemir chốt giá bán thép cây, giá sẽ tiếp tục tăng

Nhà sản xuất thép dài phức hợp Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir, đã chốt giá bán thép cây hôm thứ Sáu và có thể mở bán lại ở mức giá cao hơn trong vài ngày tới.

Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đang trong xu hướng tăng dần kể từ giữa tháng 02, song song với với sự cải thiện mạnh mẽ của giá phôi thanh và phế nhập khẩu cũng như nội địa.

Giá bán của Kardermir cho phôi thanh tiêu chuẩn ở mức 292-297usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư, tăng 10usd/tấn so với giá niêm yết trước đó – giá phôi thanh của những nhà máy trong nước khác cũng tăng tương tự lên mức 290-300usd/tấn xuất xưởng tuần trước.

Giá chào bán phôi thanh từ CIS cũng tăng lên mức 2750280usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần trước, song song với xu hướng tăng của giá chào bán từ Trung Quốc. Giá nhập khẩu phế cũng tăng mạnh lên mức 191usd/ấn CFR cho HMSI/II (80:20).

Cùng với chi phí đầu vào tăng đáng kể, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng thúc đẩy giá niêm yết thép cây hơn nữa. Nhà sản xuất thép dài Icdas đã tăng giá thép cây nội địa đường kính 12-32mm thêm 20TRY (7usd) lên mức 1.220 TRY/tấn xuất xưởng Istanbul và 1.200TRY/tấn xuất xưởng Biga, Canakkale (đã bao gồm 18% VAT) hôm thứ Năm. Đây là lần tăng giá thứ ba của công ty này kể từ cuối tuần trước đó, với mức tăng tổng cộng đã hơn 20usd/tấn.  

Giá chào bán của đại lý tại thị trường thép cây trong nước cũng tăng trong tuần trước. giá bán phổ biến của thép cây đường kính 8-12mm ở khu vực Marmara nằm trong mức 1.220-1.250TRY/tấn xuất xưởng hôm thứ Sáu, trong khi giá bán ở khu vực Iskenderun, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng tăng hơn nữa hôm thứ Sáu lên mức 1.190-1.210TRY/tấn. 

Định giá thép cây FOB Thổ Nhĩ Kỳ

Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 325usd/tấn hôm thứ Sáu, duy trì ổn địnht ừ mức giá hôm thứ Năm.

Thị trường nội địa tương đối mạnh mẽ, với mùa xây dựng đang bắt đầu, dẫn đến giá phế ferrous tăng hôm thứ Sáu cũng như khiến người mua hạn chế tiếp cận sản phẩm thép bán thành phẩm.

Một nhà sản xuất thép EAF Thổ Nhĩ Kỳ cho biết công ty của mình đã bán được 15.000 tấn thép cây đến Chile ở mức 326usd/tấn FOB. 

Theo một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ giá chào bán thấp nhất của thép cây Thổ Nhỉ Kỳ ở mức 335usd/tấn FOB, với giá chào cao hơn mà một thương nhân khác nghe được là 340-345usd/tấn, tuy nhiên theo người này thì mức giá có hiệu lực có thể là 325usd/tấn FOB. Thương nhân thứ ba thì cho biết mình nghe được mức giá chào bán đạt mức 348usd/tấn FOB hôm thứ Sáu. 

Định giá HRC châu Âu

Platts định giá HRC Bắc Âu không đổi hôm thứ Sáu tuần trước ở mức 325-335Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.

Các nhà máy Bắc Âu đang chào giá 340-350Euro/tấn xuất xưởng, mặc dù hoạt động ,ua bán diễn ra khá giới hạn với người mua tỏ ra miễn cưỡng chấp nhận bất chấp niềm tin giá sẽ tăng mạnh trên thị trường.

Giá chào HRC từ Trung Quốc và Iran được nghe nói ở mức 300-305Euro/tấn CIF Antwerp. 

Người mua HRC ở Anh tỏ ra thận trọng, giá giảm

Thị trường HRC Anh tương đối trầm lắng trong tuần trước với hầu như không có phản hồi nào với thông báo tăng giá ở khắp khu vực châu Âu và xa hơn.

Một thương gia Anh được nghe là chào giá ở mức 245-248£/tấn DDP, mặc dù một số nguồn tin dự đoán rằng giá này sẽ nhanh chóng tăng kên mức 260£/tấn. Trong khi HRC nguồn gốc Iran được nghe nói chào giá ở mức 250£/tấn.

Tata Steel đã tăng giá HRC thêm 30£/tấn trong tuần trước, nhưng đến lúc này động thái này chỉ có tác động giới hạn với HRC xuất hiện nhiều hơn so với những sản phẩm khác.

Platts định giá HRC Anh giảm 2£/tấn ở mức 248-258£/tấn cơ bản DDP Tây Midland. Nguồn cung CRC vẫn đang thắt chặt, trong khi một nhà tích trữ định giá tấm mỏng HR ở mức 290-300/tấn tùy thuộc nhà phân phối.  

Một thương nhân cho biết tình huống hiện nay rất lấy làm khó hiểu đặc bệt là CRC sai thông báo áp đặt thuế sơ bộ với Trung Quốc và Nga. Ông ước tính rằng với mức thuế hiện nay, nếu thị trường châu Âu tăng giá, Nga và Trung Quốc vẫn có thể cạnh tranh được. 

Đà tăng đầu tuần trước của giá quặng sắt chuyển sang giảm dần vào cuối tuần

Quặng sắt giao ngay đã có một sự phục hồi vào đầu tuần trước nhờ thị trường thép sáng sủa hơn ở Trung Quốc khi các nhà máy nâng chào giá xuất khẩu và trong nước.

Chỉ riêng trong một ngày thị trường đã tăng 3 USD/dmt, làm cho Platts 62% Fe IODEX lần đầu tiên kể từ tháng 27/10/2015 chạm lại mốc trên 50 USD/dmt. Lợi nhuận của các nhà máy được nới rộng khi giá thép tăng, làm cho tỷ lệ sử dụng lò nung cũng tăng theo. Cụ thể 14 lò nung của 8 nhà máy đã hoạt động trở lại trong hai tháng đầu năm nay, và 17 nhà máy dự định sẽ khởi động lại 24 lò nung khác trong  tháng 3.

Tuy nhiên, xu hướng giảm có vẻ như dần xuất hiện khi người mua hạ chào giá mua xuống thấp hơn so với chào giá bán đưa ra. Các nhà cung cấp quặng sắt cũng giảm chào giá để kích cầu. “Thị trường không thiếu hàng và nhu cầu khá hạn chế. Người bán tỏ ra sẵn sàng hơn để giảm tải bớt lượng hàng trữ trong tay”, một khách hàng ở miền đông cho biết.

Hôm thứ Sáu, Platts 62% Fe IODEX tăng 90 cents so với tuần trước đó lên 49,1 USD/dmt CFR.

Khi giá gần 50 USD/dmt CFR, người mua bắt đầu tỏ ra quan tâm hơn đến chuyện thu mua. “Thật khó để chúng tôi đưa ra quyết định mua với giá quanh mức 50 USD/dmt CFR. Việc mua hàng với giá thả nổi sẽ thực tế hơn vì nó có thể giảm thiểu sự biến động giá cả”, Hebei cho biết.

Hầu hết các nguồn tin đều đồng tình rằng thị trường sẽ giao dịch trong phạm vi hẹp, với sức mua khỏe hỗ trợ giá nguyên liệu.

Giá phế thế giới hàng tuần

Thị trường nhập khẩu cho phế nhập khẩu đã tăng vọt trong tuần trước, do chào bán phôi thanh ngoài (không có nguồn gốc từ Trung Quốc và CIS) tăng cũng như nhu cầu tiêu thụ của Ấn Độ được cải thiện. Ấn Độ nghe nói đang đặt 1o lô hàng lớn từ những nhà cung cấp khác nhau trong hai tuần qua, với vài lô hàng ở mức 40.000 tấn – khối lượng điển hình mà Ấn Độ thực hiện với lô hàng lớn, cũng như quốc gia này thường tập trung vào lĩnh vực phế container.

Giá chuẩn của Steel Index cho phế HMS 1&2 (80:20) nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ đả tăng 12usd/tấn trong tuần trước lên mức 187usd/tấn CFR Iskenderun. Định giá Platts cho phế thượng hạng 80:20 nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng 14usd/tấn trong tuần trước ở mức 190usd/CFR tấn. Thứ Năm tuần trước nghe nói một nhà sản xuất thép ở Iskenderun đã mua 15.000 tấn phế 80:20 ở mức 191.5usd/tấn và 10.000 tấn phế vụn ở mức 196.5usd/tấn, gia tháng 03, theo đó định giá từ Platts đã tăng 2.50usd/tấn trong ngày, và tăng 10usd/tấn trong hai ngày thứ Năm và thứ Sáu.

Trong khi đó giá xuất khẩu phế Nhật Bản đã giảm trong tuần trước do đồng Yên mạnh lên so với những tiền tệ lớn trên thế giới. Thị trường phế nấu chảy lô lớn nhập khẩu vào Đông Nam Á đang không hoạt động sau những đơn hàng được đặt mua ở Hàn Quốc trong tuần trước đó.

Các nhà máy Hàn Quốc đã giảm giá chào mua phế Nhật Bản để phản ứng với việc đồng Yên tăng giá và giá chốt cũng giảm so với tuần trước đó. Platts định giá tuần của phế H2 ở mức 16.200 Yên/tấn (144usd/tấn) FOB Vịnh Tokio hôm thứ Tư, giảm 1.200 Yên từ mức giá trung bình tuần trước đó là 17.400 Yên/tấn FOB.

Nhà máy Dongkuk Steel của Hàn Quốc được nghe nói đã mua 5.000 tấn H2 ở mức 16.200 Yên/tấn FOB hôm thứ Ba. Tuần trước đó, Hyundai Steel chào mua H2 của Nhật Bản ở mức 16.500 Yên/tấn FOB hôm 17/02.

Các thương nhân Nhật đang mục tiêu bán H2 ở mức trên 17.000 Yên/tấn FOB, giảm 500 Yên/tấn. Vì phế xuất khẩu Nhật Bản tăng, các lô hàng vận chuyển đến các nhà máy nội địa Nhật Bản đã giảm xuống. Trong khi đó các nhà máy mini của Nhật đang tiêu thụ ít phế hơn do sản lượng sản xuất thép giảm cũng như nhu cầu tiêu thụ thép nội địa suy yếu. Tokyo Steel Manufacturing mua H2 ở mức 16.500 Yên/tấn tại xưởng Utsunomiya, phía bắc Tokyo.

Thị trường nhập khẩu đối với phế nấu chảy tương đối trầm lắng trong suốt tuần, sau khi Hàn Quốc đặt mua 3 lô phế lớn của Mỹ ở mức giá 179usd/tấn CFR, HMS I, trong suốt tuần trước. cũng trong tuần trước một lô HMS từ Australia/New Zealand được mua ở mức 185usd/tấn CFR Thái Lan.  

Platts định giá phế HMS I/II (80:20) Đông Á hôm thứ Tư ở mức 179-185usd/tấn CFR, so với 179-184usd/tấn tuần trước đó, giá trung bình là 182usd/tấn tăng 0.50usd.   

Giá thép cuộn không gỉ Châu Á ổn định và đang đợi chào giá từ các nhà máy

Hôm thứ Sáu, giá giao dịch cho CRC không gỉ loại  304 2B 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc được chốt tại 1.600-1.650 USD/tấn CFR cảng Đông Á và Đông Nam Á, bằng với định giá trước đó. Hoạt động giao dịch vẫn còn trì trệ trong khi thị trường đang đợi chào giá tháng 3 từ những nhà máy chủ chốt trong khu vực.

Các nhà máy đang gặp khó để tăng giá vì sự biến động trong giá niken cũng như sức mua suy yếu. Mặc dù sự thật là giá của một số nguyên liệu đang có dấu hiệu tăng. Các giao dịch CRC không gỉ xuất xứ Đài Loan và Hàn Quốc có thể được thực hiện với giá lần lượt là 1.600 USD/tấn CFR và 1.650 USD/tấn CFR trong tuần trước.

Chào giá thấp từ Trung Quốc đã xuất hiện trên thị trường và gây sức ép lên các nhà máy ở Châu Á, và vẫn đang chật vật với tình trạng dư cung nghiêm trọng.

Tình hình sẽ trở nên xấu hơn vì có khả năng Mỹ sẽ mở cuộc điều tra bán phá giá đối với CRC không gỉ của Trung Quốc.

Chào giá cho CRC 304 2mm 2B được sản xuất từ các nhà máy hàng đầu Trung Quốc vào khoảng 1.550 USD/tấn FOB trong tuần trước. Hoạt động giao dịch đã cải thiện nhẹ sau Tết Nguyên đán, nhưng giá giữa người bán và người mua vẫn đang khác biệt, với khoảng cách đã lên đến 50 USD/tấn.

Giá niken giao dịch chính thức bằng tiền mặt trên sàn London Metal Exchange hôm thứ Sáu được chốt tại 8.495-8.500 USD/tấn, tăng khoảng 196 USD/tấn so với tuần trước đó.

Dự báo thị trường ống đúc miền đông Trung Quốc sẽ tăng cùng với thép tròn đặc

Giá giao ngay của ống đúc ở miền đông Trung Quốc được dự báo là sẽ nhích lên cao hơn trong ngắn hạn, để phản ánh sức mua mạnh hơn và giá thép tròn đặc cao hơn.

Tại Thượng Hải hôm 26/2, chào giá thị trường bản lẻ cho thép ống loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) được sản xuất từ các nhà máy ở miền đông vẫn duy trì khoảng 2.500 NDT/tấn (383 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT.

Giá thép tròn đặc đã tăng sau Tết Nguyên đán, cùng với sự phục hồi gần đây trên thị trường thép là nhờ sự hỗ trợ từ giá nguyên liệu cao hơn và tồn kho tương đối thấp. Do vậy, các thương nhân tỏ ra tích cực một cách thận trọng về triển vọng tháng 03 vì nhu cầu từ các lĩnh vực trong đó có xây dựng và máy móc sẽ cải thiện vào lúc đó.

Các nhà sản xuất thép tròn đặc lớn ở tỉnh Giang Tô hôm 21/2 đã thông báo về ý định nâng giá thép của họ cho giai đoạn từ 21-29/2 lên thêm 40-70 NDT/tấn (6-11 USD/tấn).

Cả hai nhà máy Zenith Steel Group và Changqiang Iron & Steel đều đã nâng giá thép tròn đặc 20# 50-130mm thêm lần lượt 40 NDT/tấn (6 USD/tấn) lên 2.160 NDT/tấn (330 USD/tấn) và 2.110 NDT/tấn (323 USD/tấn) cho cuối tháng 2, xuất xưởng gồm VAT .

Huaigang Special Steel cũng đã tăng giá cho loại thép này thêm 70 NDT/tấn (11 USD/tấn) lên 2.230 NDT/tấn (341 USD/tấn) gồm VAT cho cuối tháng 02.

Xuất khẩu tăng vọt làm gia tăng dự báo phế Mỹ tháng 03

Giá phế quốc tế tăng vọt được thúc đẩy bởi Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ đang làm thay đổi dự báo của sức mua tháng 03 ở Mỹ theo hướng đi lên.

Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trả 191.50usd/tấn CFR cho phế HMS 80:20 và 196.50usd/tấn CFR cho phế vụn mua từ các thương nhân châu Âut tuần trước và những nhà máy Ấn Độ đang niêm yết giá 190usd/tấn FAS cho phế vụn lô nhỏ từ nhà cung cấp Mỹ.

Xuất khẩu tăng vọt cùng với vấn đề nguồn cung phế nội địa Mỹ đã giới hạn quan điểm tiêu cực cho sức mua tháng 03.

Platts duy trì định giá phế vụn hằng ngày hôm thứ Sáu ở mức 190-200usd/tấn vận chuyển đến nhà máy ở Midwest.  

Nguy cơ tăng giá phế sẽ gây thêm nhiều khó khăn cho các nhà máy đang khó khăn trong việc tăng giá thép thành phẩm trong năm nay cũng như đang nhìn thấy sự suy yếu của giá, đặc biệt là HRC. 

Hegang nâng giá hợp đồng thép cây tháng 02 lên 9-11 USD/tấn

Hebei Iron and Steel (Hegang) sẽ tăng giá hợp đồng thép cây tháng 02 lên 60-75  NDT/tấn (9-11 USD/tấn). Theo đó, giá thép cây HRB400 đường kính 16-22mm của Hegang sẽ tăng lên 1.870 NDT/tấn (286 USD/tấn) trọng lượng lý thuyết (tương đương 1.928 NDT/tấn trọng lượng thực tế), gồm 17% VAT.

Như thường lệ, Hegang sẽ thưởng cho các đại lý của mình 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) đối với những đơn hàng được đặt từ ngày 25/1-24/2, nếu họ đạt chỉ tiêu đơn đặt hàng cho tháng 3 từ 90% trở lên.

Hegang chiếm lĩnh thị trường thép xây dựng ở Bắc Kinh và giá hợp đồng mới của nhà máy đã phản ánh sự phục hồi được chứng kiến trên thị trường giao ngay sau Tết Nguyên đán.

Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm 26/2, Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 2.010-2.020 NDT/tấn (307-309 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, tăng 10 NDT/tấn (2 USD/tấn) so với ngày trước đó. Giá đã tăng tổng cộng 145 NDT/tấn (22 USD/tấn)  sau khi thị trường mở cửa kinh doanh trở lại từ ngày 15/2.

Đà tăng vốn đã từng được hỗ trợ bởi tồn kho thị trường thấp và giá nguyên liệu cao hơn, đã bắt đầu có dấu hiệu suy yếu vào cuối tuần trước do sức mua chậm lại. Do đó, “tôi sẽ không ngạc nhiên khi nhìn thấy một vài sự điều chỉnh trong giá giao ngay vào tuần tới, do thị trường tiếp tục thiếu vắng sức mua”, một thương nhân ở Bắc Kinh cho biết hôm thứ Sáu.

Trong khi đó, tồn kho tiếp tục gia tăng trong tuần trước. Theo Mysteel, thép cây tồn kho tại Bắc Kinh tính đến ngày 25/2 tăng 18% tương đương 54.000 tấn so với tuần trước đó lên 357.100 tấn.

 Chênh lệch giá phôi tấm CIS nới rộng do nguồn cung thắt chặt

Bế tắc giữa nhà cung cấp và người mua tiếp tục trong tuần trước, với chênh lệch đang mở rộng ra giữa giá chào mua và và chào bán phôi tấm đang cản trở hoạt động thương mại.

Một thương nhân châu Âu nói rằng một sốt nhà máy CIS đang nói rằng không có hàng để bán nhưng thực tế thì phôi tấm xuất khẩu tháng 04 vẫn chưa bán được nhưng điều này đang dẫn đến niềm tin là sự thiếu hụt phôi tấm trong thị trường.

Một người mua khác cho biết các nhà máy đã cố gắng cho thấy nguồn cung đang thắt chặt, nhưng những thương nhân hoạt động tích cực hơn trên thị trường đang phát tín hiệu cho thấy sự quan tâm của người mua ở mức giá 235-345usd/tấn FOB Biển Đen. Tuy nhiên người mua vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận mức giá như vậy – người mua Thổ Nhĩ Kỳ sẽ chỉ đồng ý mức giá 240-244usd/tấn CFR, tương đương 233-236usd/tấn FOB.

Một nguồn tin tại một nhà máy cho biết rằng không có người mua ở mức 240usd/tấn FOB mà chỉ có những người mua không hàng tồn trong kho đang tìm mọi cách để mua hàng với bất kỳ khối lượng nào nhưng nhà máy sẽ không xem xét bất kỳ chào giá nào gần mức giá đó vì mục tiêu của nhà máy là 250usd/tấn FOB và thương thảo sẽ tiếp tục diễn ra để không quá cách xa từ mức giá mục tiêu này.

Một nguồn tin ở Trung Đông nói rằng các nhà máy CIS bán ở mức 235usd/tấn FOB Biển Đen nhưng có một nhà máy có thể bán ở mức thấp hơn ở mức 225usd/tấn FOB. Một nhà máy Iran đang chào giá 230usd/tấn FOB Gulf, tuy nhiên bất kỳ giao dịch thực tế nào thì không được nghe nói đến.

Iran gần đây đang ngày một hiện diện nhiều hơn trong thị trường phôi tấm với giá chào bán phôi tấm từ nước này là 230-235usd/tấn FOB. Tuy nhiên không phải tất cả mọi nhà cán lại đều sẵn sàng mua hàng từ Iran do sự thiếu kinh nghiệm trong việc liên lạc với đội ngũ nhân viên bán hàng tại các nhà máy của Iran. Thị trường cho phôi tấm Iran là quá ít ỏi. Các nhà máy ở vùng Viễn Đông, như Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan, đang phụ thuộc vào các ngân hàng Mỹ do đó tỏ ra rất thận trọng để hợp tác với Iran.

Một thương nhân châu Âu cho biết đã nhận được chào giá từ Iran nhưng người nay hầu như không biết gì về chất lượng cũng như độ tin cây của các nhà máy trong khi nếu gặp vấn đề về chất lượng hay những vấn đề khác với phôi tấm CIS thì chắc chắn người mua sẽ nhận được phản hồi ngay lập tức từ nhà sản xuất.

Platts điều chỉnh định giá tuần của phôi tấm Biển Đen FOB nằm trong phạm vi nới rộng hơn là 225-235usd/tấn với giá trung bình duy trì không đổi. 

Giá thép cây Châu Á duy trì ổn định trong ngày thứ hai liên tiếp

Giá thép cây giao ngay ở Châu Á vẫn duy trì ổn định trong ngày thứ Sáu khi các nhà nhập khẩu nán lại việc thu mua, và hoài nghi về tính bền vững của lần phục hồi gần đây. Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm không đổi so với ngày trước đó và ở mức 266-269 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.

Hầu hết khách hàng ở Hong Kong vẫn giữ giá mua tại 270-275 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 260-265 USD/tấn FOB, với phí vận chuyển 10 USD/tấn. Người mua không nghĩ giá sẽ tiếp tục tăng thêm nhiều.

Trong khi đó, khách hàng ở Singapore đang hướng đến gần hơn với mức giá 260-265 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 256-261 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 12 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Mức giá này cách quá xa so với chào giá từ các nhà xuất khẩu Trung Quốc- 275-280 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 271-276 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.

Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết các nhà xuất khẩu Trung Quốc sẽ không chào giá thấp hơn nhiều tới Singapore trong ngắn hạn. Ông dự báo giá có khả năng sẽ sớm giảm trở lại nếu như nhu cầu không tiếp diễn. Một nhà tích trữ ở Singapore nói: “Chúng tôi không mua thứ gì cho vài tháng tới vì chúng tôi đã tích trữ đủ. Chúng tôi chỉ mua khi giá giảm”.

Giá xuất khẩu phôi thanh Trung Quốc tăng ở Đông Nam Á

Giá phôi thanh tiếp tục tăng ở Đông Nam Á trong tuần trước giữa bối cảnh chào giá cao hơn từ các nhà cung cấp Trung Quốc. Các thương nhân cho biết họ nghe nói một vài nhà cán lại ở khu vực này đang thương lượng với nhiều nhà cung cấp để đảm bảo họ nhận được những lô phôi thanh đã đặt mua trước đó với giá thấp hơn.

Trong suốt tuần qua, các nhà cung cấp Trung Quốc đã nâng chào giá cho phôi thanh Q275120mm/130mm vận chuyển tháng 4 thêm 5 USD/tấn lên 280-285 USD/tấn CFR. Giá đang phổ biến ở mức 262-265 USD/tấn CFR trong suốt tuần đầu tiên của tháng 02.

Các giao dịch cho phôi thanh Q275 của Trung Quốc để vận chuyển tháng 4 được chốt tại 280 USD/tấn CFR. Một số thương nhân cũng cho biết phôi thanh Q275 được đặt mua với giá 285 USD/tấn CFR Manila trong suốt tuần trước là để giao ngay tháng 03. “Tôi nghĩ hàng giao tháng 2 bị trì hoãn tới tháng 03 và những lô hàng này có lẽ đã được thương lượng lại với giá cao hơn”. Nghe nói một giao dịch 10.000 tấn phôi thanh Q235 120mm giao cuối tháng 04 được thực hiện với giá 274 USD/tấn CFR Manila.

Các giao dịch phôi thanh Q235 120/130mm giao tháng 04 được ký kết trong khu vực này với giá 275 USD/tấn CFR, và 280 USD/tấn CFR cho loại Q275.

Những lô hàng này được đặt mua với giá 240-250 USD/tấn CFR hồi cuối tháng 12 và đầu tháng 01. Vì chào giá hiện đang bước vào giao cuối tháng 04, nên sự hạn chế của nguồn cung sẽ tiếp diễn cho tới khi hàng về đến vào nửa đầu tháng 5.

Một thương nhân người Thái cho biết có tin đồn thị trường ở khắp mọi nơi về những lô hàng bị hủy có giá dưới 250 USD/tấn CFR. “Khoảng 20.000 tấn phôi thanh Q255  150mm của Trung Quốc giao cuối tháng 4 và đầu tháng 5 nghe nói được bán hồi đầu tuần này với giá 270 USD/tấn CFR. Vì nhiều người mua Thái Lan đã có nguyên liệu để dùng cho đến khi có hàng vào tháng 4 nên họ muốn chờ xem sao.

Hôm 26/2, Platts nâng giá phôi thanh hàng tuần cho loại 120/130mm lên 270-280 USD/tấn CFR Đông Á từ 260-270 USD/tấn CFR. Mức giá trung bình 275 USD/tấn, cao hơn 10 USD/tấn so với tuần trước đó.

HRC Châu Á không thay đổi khi người mua vẫn đưa ra chào giá thấp

Giá giao ngay của HRC ở Châu Á duy trì ổn định trong ngày thứ hai liên tiếp, khi người mua ở nước ngoài vẫn đưa ra giá mua thấp. Gần như tất cả các nguồn tin được Platts khảo sát bởi Platts cho biết xu hướng thị trường sẽ trở nên rõ ràng hơn trong tuần này, khi các nhà máy thông báo giá xuất khẩu mới.

Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 290-295 USD/tấn FOB, bằng với ngày trước đó.

Shagang Group đã chào giá 300 USD/tấn FOB Trung Quốc, tương đương 310 USD/tấn CFR Việt Nam cho HRC SS400. Tuy nhiên, người mua ở Việt Nam chỉ đưa ra mức giá 285-288 USD/tấn FOB là nhiều nhất- mức giá này thấp hơn nhiều so với giá bán của nhà máy. Các nhà máy Trung Quốc khác bây giờ chỉ sẵn sàng bán với giá trên 290 USD/tấn FOB. Tuần trước, Shagang chỉ chốt một số hợp đồng cho HRC SS400.

Anshan Iron & Steel ở đông bắc vẫn còn im ắng trong tuần trước và không có chào giá xuất khẩu. Yanshan Iron & Steel cũng đã ngưng yết giá cho HRC SS400 giao tháng 4. Tuy nhiên, Yanshan tiếp tục chào giá 315 USD/tấn CFR Việt Nam cho HRC SS400.

 “Các khách hàng của tôi chỉ có thể chấp nhận mức giá nhiều nhất là 280 USD/tấn FOB cho  HRC SS400”, một thương nhân ở đông bắc cho biết, và thừa nhận hồi tuần trước rằng ông đã không ký kết được hợp đồng nào. Ông hy vọng giá xuất khẩu từ Trung Quốc sẽ không tăng thêm nữa trong tuần này vì vậy người mua sẽ được khuyến khích thu mua. “Tôi đoán tuần này giá có lẽ sẽ giảm”, một thương nhân người Việt dự báo.

Đối với thép cuộn loại cán lại, Baosteel chào giá 325 USD/tấn CFR Việt Nam và những nhà máy khác chào giá 317-320 USD/tấn CFR Việt Nam để giao tháng 5. Chào giá Nhật Bản cho thép cuộn loại giống như vậy là 330 USD/tấn CFR Việt Nam.

Trong khi đó, HRC SS400 được định giá 298-303 USD/tấn CFR Đông Á, tăng 10,5 USD/tấn so với tuần trước đó.