Giá tấm mỏng Mỹ sụt giảm do các nhà máy chấp nhận giao dịch giá thấp
Giá tấm mỏng Mỹ sụt giảm vào cuối tuần qua do các nhà máy sẵn sàng giao dịch giá thấp hơn. Platts theo đó cũng giảm giá HRC xuống còn 580-610 USD/tấn từ mức 590-610 USD/tấn, còn CRC giảm từ 780-820 USD/tấn còn 780-810 USD/tấn.
Một nhà máy nghi ngờ về giá mua HRC trên 600 USD/tấn và cho biết CRC có sẵn ở mức giá 780 USD/tấn cho các đơn hàng nhỏ. Đối với các đơn hàng lớn hơn, giá giảm thêm 10-20 USD/tấn.
Một trung tâm dịch vụ dự báo có thể 1.000 tấn HRC dưới mức 600 USD/tấn xuất xưởng nhưng vẫn chưa thử nghiệm thị trường giao ngay gần đây. Nhà phân phối này đã từ chối giá chào nhập khẩu 560 USD/tấn giao bằng xe tải từ Thổ Nhĩ Kỳ tại cảng bờ đông giao tháng 7 bởi vì giá vẫn đang giảm.
Mặc dù không có lý do để sợ hãi, nhưng nhà phân phối trên ngạc nhiên khi rất nhiều nhà máy giảm giá. Các người mua không hề đặt hàng khi giá giảm.
Giá chào nhập khẩu HRC được một thương nhân báo cáo ở mức 565 USD/tấn giao bằng xe tải vào tháng 9 từ Thổ Nhĩ kỳ, Hàn Quốc và Ai Cập. Thương nhân này đã ngưng chào bán thép nhập khẩu do sợ điều tra 232 của Mỹ. Ông chào bán thép đã có sẵn trong kho chứ không nhập thêm hàng.
HRC Châu Á duy trì ổn định trước lễ Trung Quốc
Giá HRC Châu Á duy trì ổn định ngày thứ hai liên tiếp tính tới cuối tuần qua. Cả bên mua và bán đều không hứa hẹn gì trước Lễ đua thuyền rồng quốc giá (28-30/5) ở Trung Quốc dù giá nội địa giảm do sức mua suy yếu.
Platts giữ nguyên giá HRC SS400 dày 3mm tại mức 435-440 USD/tấn FOB Trung Quốc trong ngày thứ sáu, không đổi so với ngày trước đó. Giá cùng mặt hàng nhập khẩu vào Đông Á ở mức 445-450 USD/tấn CFR Đông Á, tăng 7.50 USD/tấn so với tuần trước. Tại thị trường Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm ở mức 3.200-3.220 NDT/tấn (466-469 USD/tấn) xuất xưởng đã tính 17% VAT, giảm 15 NDT/tấn so với ngày trước đó.
Hầu hết các nhà máy lớn của Trung Quốc đều duy trì chào giá ở mức 440-455 USD/tấn FOB Trung Quốc và rất khó để chốt đơn hàng khi giá nội địa đang giảm. Một nhà máy ở miền Bắc thừa nhận rằng hầu hết người mua đều ít quan tâm mặc dù đã bán được chỉ vài trăm tần tại mức 440 USD/tấn FOB Trung Quốc tới Hàn Quốc trong ngày thứ sáu.
Nhà máy này cũng được nghe đã bán được 5.000 tấn HRC SS400 và SAE tại mức 445 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển 10 USD/tấn) và 450 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Nhiều nguồn tin cho rằng giá trên là phù hợp lúc này vì các nhà máy không vội giảm giá để kích cầu do xu hướng thị trường sau lễ chưa rõ ràng.
Trong khi đó, vài nhà máy giảm giá chào thép cuộn SAE xuống còn 460-465 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 7. Các nhà máy này sẵn sàng bán tại mức 455 USD/tấn CFR Việt Nam cho các dự thầu khối lượng lớn nhưng chưa chốt.
Phôi thanh Đông Nam Á tăng giá trong bối cảnh thị trường trầm lắng
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á vẫn trầm lắng do nhu cầu tiêu thụ suy yếu. Trong tuần qua, nhiều đơn hàng đã được chốt nhưng không phải phôi thanh Trung Quốc vì giá chào bán của mặt hàng này không còn cạnh tranh nữa.
Các đơn hàng phôi thanh 120/130mm của Thái và Việt Nam được chốt tại mức 425 USD/tấn CFR Manila hồi đầu tuần qua nhưng giá cao là do điều khoản thời hạn thanh toán dài tới 180 ngày. Nếu không có điều khoản này, đơn hàng sẽ chỉ còn 425-420 USD/tấn CFR.
Cùng thời điểm, phôi thanh Thái Lan được chào tại mức 415 USD/tấn CFR Manila. Phôi thanh 100mm Nga chốt ở mức 410 USD/tấn CFR Manila, tương đương 424 USD/tấn CFR sau khi cộng 3% thuế nhập khẩu, nhưng giá phôi thanh 10mm không áp dụng cho giá loại 120/130mm vì ít người mua hơn.
Phôi thanh Q275 120/130mm Trung Quốc được chào ở mức 440-450 USD/tấn CFR Manila nhưng không thu hút người mua.
Tại Jakarta, giá chào phôi thanh Q275 150mm Trung Quốc ở mức 425-430 USD/tấn CFR. Nhu cầu tiêu thụ yếu do lễ Ramadan. Các nhà cán lại đang quan sát phôi thanh Iran với 50.000 tấn tới Jakarta và 20.000 tấn tới Medan, theo một nhà nhập khẩu Indonesia cho biết. Thanh toán cho các đơn hàng Iran vẫn còn là vấn đề vì ngân hàng Indonesia không chịu xử lý. Chưa có giao dịch phôi thanh Iran nào diễn ra.
Sự biến động giá của phôi thanh Trung Quốc tuần qua cũng là lý do khiến người mua trì hoãn đơn hàng. Một thương nhân Indonesia cho biết không tham gia thị trường vì tình hình lúc này như trò chơi Yoyo. Giá chào phôi thanh Nga được nghe ở mức 415 USD/tấn CFR Indonesia tuần thứ hai liên tục còn phôi thanh Thái Lan ở mức 418 USD/tấn CFR Indonesia.
Platts tăng giá phôi thanh 120/130mm CFR Đông Á hàng tuần lên 410-420 USD/tấn CFR, so với mức 405-410 USD/tấn CFR tuần trước. Giá trung bình nhích 7.5 USD/tấn.
Thép cây Châu Á ổn định do người mua chuyển sang dự thầu thép cây Nga
Thị trường thép cây Châu Á ổn định vào hôm qua do người mua dự thầu thép cây Nga. Các nhà máy thép cây Trung Quốc tiếp tục ưu tiên bán vào thị trường trong nước thay vì xuất khẩu do giá trong nước cao hơn. Platts duy trì giá xuất khẩu thép cây BS500 16-20mm tại mức 431-433 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Giá dự thầu thép cây Nga tại Hong Kong ở mức 430-435 USD/tấn CFR Hong Kong giao tháng 7, tương đương 430-435 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế. Giá có thể giao dịch cho thép cây Nga tầm 425-430 USD/tấn.
Mặc dù các khách hàng Hong Kong được khuyên là các vấn đề về chênh lệch khối lượng và đóng hàng của thép cây Nga đã được cải thiện, nhưng người mua vẫn còn lo ngại về thanh toán từng phần và chất lượng. Họ nghĩ rằng giá thép cây Nga nên rẻ hơn Trung Quốc ít nhất 10-15 USD/tấn.
Điều khoản giao dịch thanh toán từng phần sẽ giúp người bán trì hoãn đơn hàng không cần đền bù. Một nhà môi giới cho rằng, theo tiêu chuẩn này, nếu một nhà thầu xây dựng trả lại đơn hàng vì vấn đề chất lượng, đơn hàng này không thể được giao tới các địa điểm khác.
Một nhà máy lớn ở miền đông Trung Quốc giữ giá chào ở mức 450 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết, tương đương 464 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế. Các nhà máy khác đặt ưu tiên về doanh số bán trong nước. Các nhà máy không quan tâm tới thị trường xuất khẩu.
Tại Singapore, một nhà máy duy trì giá chào ở mức 465 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết giao cuối tháng 7, tương đương 463 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế gồm 16 USD/tấn phí vận chuyển và 3% chênh lệch khối lượng.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á giảm theo giá niken
Platts giảm giá thép cuộn cán nguội không gỉ 304 2mm 2B Hàn Quốc và Đài Loan xuống 55 USD/tấn trong tuần qua còn 1.930-1.960 NDT/tấn CFR Đông Á và Đông Nam Á. Giá giảm tại thị trường Trung Quốc do áp lực từ người bán trong khi tâm lý thị trường bi quan vì giá niken dao động quanh mức tâm lý 9.000 USD/tấn.
Giá chào bán CRC 304 2mm Hàn Quốc giảm còn 1.900 USD/tấn FOB giao tháng 7-8. Nhu cầu tiêu thụ suy yếu ở cả trong nước và xuất khẩu khiến Posco giảm chào giá xuống 200 USD/tấn so với tháng trước. Người mua rút ngăn thời gian lưu trữ hàng tồn do xu hướng không chắc chắn.
Các nhà máy Đài Loan dự báo sẽ công bố giá niêm yết tháng 6 trong vài ngày tới trong khi giá chào hiện tại ổn định ở mức 2.020 USD/tấn CFR. Rất khó để kiếm đơn hàng từ Trung Quốc do giá nội địa Trung Quốc lúc này chỉ tương đương 1.780 USD/tấn CFR.
Tại Trung Quốc, nhà máy thép không gỉ lớn nhất là Taigang Stainless Steel đã thông báo giá niêm yết tháng 6 tại mức 1.790 USD/tấn FOB trong tuần qua. Chiết khấu có thể ở mức cao 10-30 USD/tấn cho các đơn hàng trên 300 tấn.
Giá giao dịch niken bằng tiền mặt trên sàn LME ở mức 9.050-9.075 USD/tấn trong ngày 25/5, tăng 59.5 USD/tấn so với tuần trước.
Giá thép cây Ấn Độ giảm do tiêu thụ suy yếu trước mùa mưa
Giá thép cây Ấn Độ giảm trong tháng 5 do tiêu thụ im ắng từ ngành xây dựng trước mùa mưa tháng 6-9.
Giá thép cây 10-12mm xuất xưởng Mumbai trong tháng này sau khi đã giảm 500-1.000 Rupees/tấn (8-15 USD/tấn) so với thnags 4, còn 38.500-39.000 Rupees/tấn chưa thuế tiêu thụ đặc biệt. Tương tự, giá thép cây bờ đông Vishakhapatnam giảm 2.000 Rupees/tấn còn 40.000 Rupees/tấn chưa tính thuế địa phương.
Hoạt động xây dựng thường đạt đỉnh trước mùa mưa nhưng trong năm nay thì không vậy, do các nhà máy giảm giá liên tục. Các nhà máy tăng cường giảm giá vì sức mua thấp, đặc biệt là dự án xây dựng công cộng. Thêm vào đó, các nhà phát triển kinh tế tư nhân cũng trì hoãn xây dựng vì thiếu vốn.
Sức mua im ắng nên các nhà máy cũng cắt giảm sản lượng. Sản lượng thép cây giảm 9.7% trong tháng 4 so với tháng 3, còn 1.99 triệu tấn.
Hoạt động xây dựng vẫn còn trì trệ do mùa mưa bắt đầu vào đầu tháng 6, gây áp lực hơn nữa tới giá thép những tháng tới.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây bắc Âu tại mức 515-520 Euro/tấn (575.82-581.41 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ sáu.
Thị trường Châu Âu vẫn ngưng giao dịch trước lễ quốc gia, với nhiều văn phòng đã đóng cửa cho kỳ lễ dài cuối tuần.
Giá giao dịch gần đây nhất cho HRC Tây Âu là 515-520 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Giá chào từ Ý ở mức 480 Euro/tấn xuất xưởng trong khi các nhà máy Đông Âu chào tại mức 470-480 Euro/tấn đã tính phí giao hàng tới Nam Đức.
Giá nhập khẩu ở mức 480-485 Euro/tấn CIF Antwerp từ Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Thị trường tấm dày Châu Âu chịu áp lực
Thị trường thép tấm dày Tây bắc Âu gặp áp lực giá cạnh tranh từ các khu vực khác trong khi các nhà môi giới cũng gặp khó khăn khi muốn thu đủ lợi nhuận từ khách hàng.
Một nhà phân phối thép Đức cho biết giá giao dịch đang giảm và các nhà môi giới gặp khó khăn khi bán tới người mua.
Giá thép tấm dày S235JR 10-40mm đã giảm 50 Euro/tấn trong vòng 5 tuần. Vài nhà máy và cán lại Nam Âu đặt mục tiêu bán tới thị trường Tây bắc Âu với giá cạnh tranh 565-585 Euro/tấn DAP, trong khi các nhà máy nội địa cố gắng giữ giá ở mức 575 Euro/tấn xuất xưởng dù vẫn chiết khấu cho các đơn hàng lớn. Các nhà máy Đức vẫn chào giá tại 600 Euro/tấn xuất xưởng.
Nhiều nguồn tin nhấn mạnh rằng giá thép tấm đang theo xu hướng suy yếu của thị trường thép cuộn mặc dù thời gian giao hàng tăng bất thường. Tâm lý thị trường suy yếu phần nào do vào mùa lễ của ngân hàng Châu Âu, gây khó khăn cho thị trường khi muốn tăng giao dịch. Mùa hè dự báo làm chậm lại thị trường giao ngay, với giá chào cạnh tranh hơn từ Ý do các nhà máy này thường bảo dưỡng máy móc vào tháng 8.
Platts mở rộng biên độ giá thép tấm S235 15-40mm hàng tuần lên 570-580 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr với giá trung bình giảm 2.50 Euro/tấn. Giá nhập khẩu ổn định ở mức 530-540 Euro/tấn CIF Antwerp.
Tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ thử nghiệm giá mới
Mặc dù nhu cầu tiêu thụ đối với HRC và thép mạ tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi trước lễ Ramadan, và xuất khẩu tiếp tục chậm chạp kể từ cuối Q1, vài nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ thử nghiệm với giá tăng nhẹ cho thép tháng 7.
Có tin đồn về một nhà máy lớn đang chuẩn bị tăng giá niêm yết HRC thêm 15-20 USD/tấn chiều thứ năm. Một nhà máy thép mạ sau đó thông báo ngưng nhận đơn hàng và mở bán lại với giá cao hơn vào chiều thứ sáu. Giá chào HDG 0.5mm đạt mức 720 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ sáu, tăng 10 USD/tấn trong khi PPGI 9002 0.5mm đạt mức 825 USD/tấn xuất xưởng, tăng 15 USD/tấn.
Một chuyên gia bán hàng tại một nhà máy thép mạ cho biết công ty đã ngưng nhận đơn hàng vì lý do kỹ thuật. Có vài dấu hiệu giá HRC tăng trong nước. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ thép mạ vẫn chậm. Nhu cầu tại thị trường xuất khẩu cũng dự báo chậm lại trước mùa hè do cạnh tranh gay gắt.
Một trung tâm dịch vụ tại khu vực Marmara cho biết đây có thể không phải là đúng thời điểm, thậm chí cho mức tăng nhỏ. Lễ Ramadan đang tới gần, và những tháng hè là thời điểm tiêu thụ thấp điểm. Các mức tăng này sẽ khiến các nhà máy ôm hàng. Với thuế nhập khẩu, giá HRC CIS ở tầm 496-500 USD/tấn, thậm chí thấp hơn giá trong nước.
Giá niêm yết HRC Thổ Nhĩ kỳ ở mức 505-515 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá xuất khẩu giảm 10-15 USD/tấn. Giá chào HRC CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 455-460 USD/tấn CFR trong suốt tuần.
Giá chào HDG 0.5mm tại thị trường trong nước ở mức 690-720 USD/tấn xuất xưởng trong khi HDG 1mm ở mức 640-660 USD/tấn xuất xưởng.
Định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ
Platts giảm giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ xuống 2.50 USD/tấn, còn 435 USD/tấn (430-440 USD/tấn) FOB cuối tuần qua. Một thương nhân cho biết có thể đặt hàng tại mức 430 USD/tấn FOB Marmara cho đơn hàng 5.000 tấn và cao hơn từ một nhà máy lớn, với thép cây hỗn hợp 8-20mm. Đối với các đơn hàng nhỏ hơn, tầm 2.000-3.000 tấn, giá cao hơn vài dolla.
Một nguồn tin khác cũng tin rằng mức cao 430 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế có sẵn cho các thị trường ngoại trừ Mỹ. Giá loại thép cây 8mm lẽ ra cao hơn 430 USD/tấn FOB nhưng với các đơn hàng lớn thì giá có thể ở mức 430 USD/tấn FOB. Ông báo cáo, giá chào từ một nhà máy lớn tới Châu Phi là 435 USD/tấn FOB. Các đơn hàng nhỏ hơn được nghe ở mức 440 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế. Các nhà máy không xác nhận về bất cứ giao dịch nào ở mức 430 USD/tấn FOB, cho rằng giá giao dịch tầm 435-450 USD/tấn FOB.
Vấn đề nguồn cung thép cây trong nước hạn chế hạ nhiệt, giá ổn định tại Thổ Nhĩ Kỳ
Mặc dù nguồn cung thép cây có sẵn tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ cải thiện, giá thép cây và phôi thanh vẫn ổn định trong tuần.
Nhu cầu tiêu thụ trong nước tiếp tục mạnh so với thị trường xuất khẩu, và giá vẫn cao hơn nhiều. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ dự báo chậm dần lại trong những tuần tới do lễ Ramadan và hàng tồn kho cao, nguồn cung sẵn có cải thiện.
Trong khi đó, thời gian giao hàng vẫn là một tháng. Một nguồn tin cho rằng lễ Ramadan có thể kìm hãm sức mua nhưng không ảnh hưởng mạnh.
Giá chào thép cây 12-32mm của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 2.000-2.020 TRY/tấn xuất xưởng đã tính 18% VAT, tương đương 475-480 USD/tấn chưa tính VAT.
Giá xuất xưởng thép cây 12-32mm tại Marmara ở mức .2150-2.170 TRY/tấn đã tính thuế, trong khi giá tại Iskenderun ở mức 2.080-2.100 TRY/tấn.
Giá phôi thanh nội địa đã tăng lên mức 430-435 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá từ CIS ở mức cao 415-420 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu.
Bộ công nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ dự báo sẽ đưa ra các biện pháp để giải quyết vấn đề nguồn cung từ ngày 29/5.
Định giá phôi thanh CIS
Platts vẫn duy trì giá xuất khẩu phôi thanh CIS tại mức 395 USD/tấn trong ngày thứ sáu, ổn định so với thứ năm.
Giá chào từ CIS ở mức 410 USD/tấn CIF Marmara/Aliaga, tương đương 395-400 USD/tấn FOB Biển Đen.Giá này không áp dụng cho thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Một nhà máy mini Ukraina chào lô hàng tháng 7 tại mức 393 USD/tấn FOB Biển Azov thanh toán trước, tương đương 400 USD/tấn FOB Biển Đen thanh toán thư tín dụng L/C. Tuy nhiên, không có giao dịch.
Một thương nhân Trung Đông cho biết, các nhà máy CIS đã bán hết phôi thanh tháng 6 tại mức 385-395 USD/tấn FOB nhưng ông chưa nghe giá chào tháng 7.
Giá thép Nga giảm sau khi chênh lệch giá rẽ hướng mới
Giá thép dài và dẹt nội địa Nga đều giảm với mức giảm 400 Rubs/tấn của thép cây và 2.200 Rubs/tấn của tấm cán nóng.
Giá thép cây giảm còn 26.500 Rubs/tấn (466 USD/tấn) đối với loại 12mm và 26.100 Rubs/tấn (459 USD/tấn) đối với loại 14mm giao tới Maxcova đã tính thuế VAT. Giá thép cây nga đã giảm kể từ đầu tháng 1 sau khi đạt đỉnh 29.050 Rubs/tấn (420 USD/tấn với tỷ giá tính tại thời điểm đó). Kể từ đó tới nay, giá giảm 6.750 Rubs/tấn còn trung bình 22.300 Rubs/tấn (392 USD/tấn). Giá giảm do tiêu thụ trì trệ và chênh lệch cao bất thường giữa giá CPT Maxcova và FOB Biển Đen. Trong Q1, giá thép cây Nga cao hơn giá xuất khẩu CIS 60 USD/tấn. Tuy nhiên, cách đây 1 tháng, giá đã giảm xuống thấp hơn giá Biển Đen 20 USD/tấn. Sự tăng giá đồng Rub cũng góp phần khiến các nhà máy cắt giảm giá. Trong Q1, đồng Rub tăng mạnh so với dolla từ 60 RubS:1 USD lên 57 Rubs: 1 USD. Tháng 6 có thể làm chậm lại đà giảm hiện tại và giá trong nước có thể tăng lên ngang bằng giá CIS nếu chênh lệch giá không tăng. Một nguồn tin cho biết, từ tháng 1 cho tới đầu tháng 3, nhu cầu tiêu thụ thực sự tệ do sự trì trệ của ngành xây dựng. Trong tháng 4, dù sức mua bắt đầu cải thiện nhưng quá tình giao hàng bị ngăn bởi các chính sách hạn chế xe tải cần trục. Chính quyền đã áp dụng lệnh cấm tạm thời cho giao thông tải hạng nặng để bảo vệ mặt đường trong giai đoạn tan băng. Trong tháng 4-5, giá thép cây tiếp tục giảm với sự kiểm soát của các nhà phân phối với ý định kiềm giá xuống tối thiểu nhằm phát triển tối đa lợi nhuận trong giai đoạn dự báo tăng bắt đầu từ tháng 6. Platts giảm giá thép cây Nga xuống còn 22.150-22.450 Rubs/tấn (389-395 USD/tấn) CPT Maxcova, giảm 400 Rubs/tấn so với tuần trước đó. Giá HRC Nga cũng giảm cùng lý do. Giá giảm đẩy chênh lệch giá CPT Maxcova với FOB Biển Đen lên 100 USD/tấn. Trước đó, giá đạt mức 140 USD/tấn. Giá tấm mỏng cán nóng ở mức 36.800-36.900 Rubs/tấn (647-649 USD/tấn) cho loại dày 2mm và 36.500 Rubs/tấn (642 USD/tấn) cho loại 4mm giao tới Maxcova đã tính VAT. Giá giảm 2.200 Rubs/tấn (37 USD/tấn) so với tháng trước đó. Platts giảm định giá hàng tuần của thép cuộn và tấm cán nóng Nga xuống còn 30.950-31.200 Rubs/tấn (544-549 USD/tấn) và 30.350-30.600 Rubs/tấn (534-538 USD/tấn) CPT Maxcova.
Sản lượng thép dài, thép dẹt Trung Quốc đi ngược chiều nhau Doanh số bán các mặt hàng thép dài của các thành viên Hiệp hội thép Trung Quốc đạt mức 21.65 triệu tấn trong tháng 4, tăng 8% so với tháng 3 và 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngược lại, doanh số thép dẹt lại giảm 8% so với tháng 3 và 4% so với cùng kỳ năm ngoái, còn 24.88 triệu tấn. Trong 4 tháng đầu năm nay, doanh số thép dài và thép dẹt tổng cộng 77.78 triệu tấn và 102.84 triệu tấn, cùng tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái. Doanh số thép dẹt giảm còn thép dài tăng trong tháng qua cho thấy sự cải thiện của thị trường thép dài với thành tích vượt hẳn thị trường thép dẹt về lợi nhuận. Các thành viên thị trường tin rằng sự khác biệt lợi nhuận giữa thép dài và thép dẹt sẽ tiếp tục trong tháng 5-6. Các nhà máy đang hưởng lợi nhuận thép cây trung bình 700-800 NDT/tấn (102-117 USD/tấn) trong khi HRC chỉ 200 NDT/tấn. Một nhà máy cho rằng chính sách đóng cửa các lò cảm ứng là nhân tố chính giúp cải thiện doanh số bán thép dài. Ngoài ra, têu thụ hạ nguồn từ các dự án bất động sản và cơ sở hạ tầng cũng tốt. Để đẩy mạnh lợi nhuận, các nhà máy có thể đã tăng sản lượng thép dài hơn thép dẹt trong những tháng qua. Một nhà máy ở miền đông giảm sản lượng thép tấm dày xuống 40% trong năm nay để tập trung nguyên liệu cho nhà máy thép cây. Trong khi đó, một nhà máy khác ngưng dây chuyền CRC trong tháng 5 nhưng sẽ duy trì dây chuyền thép dài. Tuy nhiên, các nhà máy tin rằng sản lượng thép dài vẫn ở mức hết công suất nên giá không thể tăng thêm và giá thép dẹt sẽ giảm mạnh. Thép dẹt vẫn chứng kiến sản lượng cao trong khi thị trường thép dài có thể thu được lợi nhuận tốt trong ngắn hạn nhờ nguồn cung giới hạn. Trong tháng 4, Trung Quốc sản xuất 17.79 triệu tấn thép cây, tăng 6% so với tháng 4 và 2.9% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi sản lượng HRC dày trung bình ở mức 11.8 triệu tấn, giảm 6% so với tháng 4 nhưng cao hơn 14% cùng kỳ năm ngoái.