Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ điều chỉnh giá thép cây, nhu cầu xuất khẩu vẫn chậm
Ngày đầu tiên của một tuần giao dịch mới mang lại những điều chỉnh mới cho nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đối với giá thép cây và thép dây trong nước, trong bối cảnh biến động tỷ giá hối đoái đang diễn ra. Giá xuất khẩu thép cây của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định mức 550- 560 USD/tấn FOB, tùy thuộc vào khối lượng và điểm đến trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ chậm tại các thị trường xuất khẩu.
Sự giảm mạnh của đồng Lira trong tuần qua đã đảo ngược vào thứ Hai sau thông báo của ngân hàng trung ương rằng họ đã quyết định hoàn thành "quá trình đơn giản hóa" liên quan đến khung hoạt động của chính sách tiền tệ. Đồng Lira bắt đầu giao dịch trong phạm vi 4.58-4.59 Lira/USD chiều thứ Hai, theo tuyên bố này, so với 4.71-4.72 Lira/USD hôm thứ sáu.
Nhà sản xuất thép dài nổi tiếng của Thổ Nhĩ Kỳ Icdas, đã tăng giá niêm yết thép cây đường kính 12-32 mm trong nước lên 3.070 Lira / tấn xuất xưởng cho Istanbul, và 3.040 Lira / tấn xuất xưởng cho Biga, Canakkale hôm thứ Hai. Các mức giá này bao gồm 18% VAT.
Icdas cũng đã tăng giá loại 10mm lên 3.080 Lira / tấn xuất xưởng hôm thứ hai, trong khi thép cây 8 mm tăng lên 3.090 Lira /tấn xuất xưởng Istanbul.
Giá niêm yết thép dây đường kính 7-8.5 mm của công ty cũng tăng lên 3.300-3.330 Lira / tấn xuất xưởng kèm VAT. Các mức giá này tương đương với 611 USD / tấn và 618 USD / tấn tương ứng, không bao gồm VAT.
Một nhà sản xuất lớn khác của Thổ Nhĩ Kỳ, Bastug Metalurji, có trụ sở tại Osmaniye, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, cũng mở cửa lại doanh số bán hàng tại thị trường nội địa với giá cao hơn hôm thứ hai.
Giá niêm yết của Bastug đối với thép cây có đường kính 12-32 mm đạt mức thấp nhất là 3.040 Lira / tấn bao gồm 18% VAT, với mức tăng giá mới nhất này, tương đương 562 USD / tấn chưa bao gồm VAT. Giá cho thép cây 10 mm đã lên đến 3.055 Lira / tấn xuất xưởng, trong khi thép cây đường kính 8 mm đã tăng lên 3.070 Lira / tấn xuất xưởng bao gồm cả thuế GTGT.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định đầu tuần này, kết thúc một tuần giảm liên tục trong tuần qua.
Tại Hồng Kông, một nhà môi giới cho biết chào bán hiện hành đối với thép cây 10-40 mm của Trung Quốc ở mức 560 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế cho lô hàng tháng 7 từ một số người bán, không thay đổi so với cuối tuần trước. Một nhà môi giới khác đã nhận được một đề nghị không đổi ở mức 555 USD/tấn CFR, tương đương với 542 USD/ tấn FOB trọng lượng thực tế của Trung Quốc, thêm rằng ông đang xem xét đặt một số lượng ở mức này
Trong khi đó, chào hàng Thổ Nhĩ Kỳ tại Hồng Kông ở mức 560- 570 USD/tấn CFR, giảm 10 USD / tấn so với tuần trước.
Tại Singapore, một nhà chế tạo thép cho biết giá chào bán ở mức 555 USD/tấn CFR đối với thép cây có nguồn gốc Trung Quốc 10-40 mm, không thay đổi so với tuần trước, tương đương với 552 USD/tấn FOB.
Chỉ số mua được nghe từ một nhà chế tạo là 530- 535 USD/ tấn CFR cho thép cây 10-40 mm giao tháng 7. Một nhà môi giới nghĩ rằng chào mua cho thép cây 10-32 mm là khoảng 535 USD/ tấn CFR, tương đương với 531- 536 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế của Trung Quốc.
Một nhà máy xuất khẩu lớn ở miền Đông Trung Quốc hôm thứ Hai đã chào giá trọng lượng lý thuyết là 545 USD/ tấn FOB cho thép cây 10-40 mm cho lô hàng tháng 7, không đổi so với thứ sáu tuần trước. Cùng ngày, hầu hết các nhà máy khác của Trung Quốc ngưng chào bán.
Việt Nam đặt HRC của Nga do nhu cầu tiêu thụ suy yếu ở Biển Đen
Các khách hàng thép cuộn cán nóng Việt Nam gần đây đã tận dụng lợi thế giá cạnh tranh của HRC Nga sau khi họ chuyển nguồn cung vào Châu Á do nhu cầu yếu hơn ở khu vực Biển Đen.
Tổng cộng, hơn 100.000 tấn HRC gần đây đã giao dịch ở mức 595 USD/tấn và 585 USD/tấn CFR Việt Nam cho các cuộn dây lớn và nhỏ tương ứng giao tháng 8. Lần cuối cùng các chuyến hàng Nga đến Việt Nam là vào tháng 11.
Giá HRC trên cơ sở FOB Biển Đen liên tục giảm kể từ giữa tháng 4 xuống hơn 50 USD/tấn, do nhu cầu từ Thổ Nhĩ Kỳ, đích đến chính của cuộn dây Nga đã cạn kiệt sau khi xuất khẩu thép của Thổ Nhĩ Kỳ bị ảnh hưởng bởi thuế suất của Mỹ.
MMK của Nga, do vị trí của nhà máy có thể lựa chọn xuất khẩu thép qua các cảng ở Biển Đen hoặc Viễn Đông. Giá FOB FOB Biển Đen của họ gần đây thấp hơn 20 USD/tấn so với giá FOB Viễn Đông. Nhà máy không trả lời câu hỏi về doanh số bán hàng của mình cho Việt Nam.
Chi phí vận tải từ vùng Viễn Đông Nga đến Việt Nam khoảng 15-18 USD/tấn, theo một thương nhân Hàn Quốc. Với các giao dịch CFR cho Việt Nam sẽ tương đương với 577-580 USD/tấn FOB Viễn Đông Nga, cao hơn ít nhất 27 USD/tấn so với giá FOB trên Biển Đen.
Các nhà sản xuất ống thép và cán lại Việt Nam đã bảo đảm nguyên liệu của Nga thấp hơn khoảng 5 USD/tấn so với giá 605-610 USD/tấn CFR Việt Nam của Formosa Hà Tĩnh, trong khi các nhà máy Trung Quốc là 600-603 USD/tấn CFR Việt Nam.
"Giá thậm chí thấp hơn 1 USD/tấn cũng tạo sự khác biệt cho người mua Việt Nam", một thương nhân cho biết. Một nhà môi giới Việt Nam cho biết ông sẽ chỉ xem xét mua từ một nhà máy của Nga nếu giá thấp hơn 5-7 USD/ tấn so với HRC Trung Quốc.
Trong khi đó, một nhà cán lại tại Việt Nam cho biết ông đã không chú ý đến HRC Nga vì nó sẽ phù hợp để làm đường ống, nhưng không phải để làm tấm mạ kẽm hoặc cuộn cán nguội, ông giải thích.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định trong bối cảnh giao dịch trì trệ
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định trong ngày thứ hai do cả bên mua và bán đều trong xu hướng chờ đợi.
Một nhà máy lớn phía đông thông báo chào giá tuần cho HRC thương phẩm ở mức 600 USD/tấn FOB Trung Quốc giao tháng 7, không đổi so với tuần trước. Chào giá cho thép cuộn cùng loại ở mức 595-600 USD/tấn FOB giao tháng 7. Chào giá tới Việt Nam tầm 600 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 7.
Đối với thép cuộn SAE1006, giá chào cho loại sản xuất ống thép và cán lại vẫn ở mức lần lượt 600 USD/tấn và 610 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 7.
Một giao dịch chốt hôm thứ hai cho lô thép cuộn SS400 loại nhỏ khối lượng 20.000 tấn ở mức 583 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 8. Tuy nhiên, giá chào thép Nga tăng 5 USD/tấn tới cuối ngày. Chào giá loại nhỏ ở mức 590 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi loại lớn là 600 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 8.
Thép Nga không còn cạnh tranh nữa so với Trung Quốc do giá tăng. Tổng cộng 10.000-15.000 tấn thép Nga vẫn được giữ bởi các thương nhân, một thương nhân Việt Nam cho biết.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tăng 10 NDT/tấn lên 4.220-4.240 NDT/tấn (660-663 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Tại sàn kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt tăng 22 NDT/tấn lên 3.786 NDT/tấn.
Feng Hsin Đài Loan giữ giá thép cây không thay đổi
Giá phế liệu trong nước của Đài Loan đã giảm 200 dolla Đài Loan/tấn (6.70 USD/ tấn) trong tuần này trước sản lượng sản xuất thấp hơn trong tháng 6, những người tham gia thị trường cho biết.
Nhà máy mini Feng Hsin của Đài Loan đã giảm giá mua phế liệu trong nước xuống còn 10.400 dolla Đài Loan/tấn (347.40 USD/ tấn) đối với HMS I / II 80:20 giao cho Đài Trung, giảm 200 dolla Đài Loan/tấn so với tuần trước, một công ty nguồn tin cho biết hôm thứ Hai.
Đài Loan sẽ bước vào giai đoạn mùa hè từ tháng 6 - tháng 9 khi giá điện tăng lên trong một số thời điểm nhất định trong ngày, dẫn đến giảm sản lượng của các nhà máy để giảm chi phí.
Tuy nhiên, Feng Hsin vẫn duy trì giá bán thép cây ở mức 17.400 dolla Đài Loan / tấn xuất xưởng Đài Trung đối với cỡ cơ bản. "Thật không may, tăng điện và điện cực cũng làm gia tăng áp lực," nguồn bổ sung.
Các nhà máy khác của Đài Loan cũng đã cắt giảm giá mua phế liệu phù hợp với kỳ vọng sản xuất thấp hơn trong tương lai, các nguồn tin cho biết.