Giá phôi thép mới của Kardemir gây áp lực cho hàng nhập khẩu
Nhà máy Kardemir Thổ Nhĩ Kỳ đã mở cửa chào bán phôi thanh với giá thấp hơn. Tuy nhiên, công ty vẫn duy trì giá niêm yết của thép thành phẩm.
Kardemir thiết lập giá bán bằng lira với phôi thanh S235 150x150x6-12 tại mức 2.430 Lira/tấn 525 USD/tấn) và phôi thanh III-A 150x160x6-12 ở mức 2.450 Lira/ tấn (530 USD/tấn) xuất xưởng hôm thứ Năm.
Tuy nhiên, nhà máy này lại ngưng bán trong vòng 3 giờ sau khi nhận được một loạt các đơn đặt hàng từ thị trường trong nước. Việc cắt giảm giá phôi thép của công ty có thể làm tăng áp lực đối với phôi thép nhập khẩu trong khi thị trường đang im ắng.
Giá phôi thép trong nước và xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ khác ở mức 530 USD/tấn trong khi phôi thép nhập khẩu của các nhà máy CIS cung cấp cho Thổ Nhĩ Kỳ ở cùng mức khi tính giá CIF, không cạnh tranh trong bối cảnh tiêu thụ thép thành phẩm chậm.
Giá thép cây trong nước của Thổ Nhĩ Kỳ dao động trong khoảng 560- 565 USD/tấn trong những ngày gần đây, tùy thuộc vào khu vực, trong bối cảnh tỷ giá tiền tệ ổn định hơn, trong khi giá chào xuất khẩu của các nhà máy thường ở mức 560 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, nhu cầu từ Mỹ đối với thép cây Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong những ngày gần đây gây áp lực lên giá xuất khẩu thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ.
Do các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nói chung đang cố gắng duy trì biên độ thép phế liệu khoảng 200 USD/tấn, họ có thể tiếp tục từ chối giá thầu dưới 554-555 USD/ tấn FOB, trừ khi giá phế liệu nhập khẩu giảm xuống dưới 354-355 USD/tấn CFR.
Giá HRC Mỹ vẫn ổn định, người mua lo ngại giá cuối năm
Giá HRC Mỹ vẫn ổn định nhưng người mua tiếp tục lo lắng về xu hướng giá.
Một nguồn tin cho hay, tôi lo lắng về giá nhưng trong 2 tháng tôi chưa nghĩ giá nội địa và nhập khẩu sẽ thay đổi nhiều. Chênh lệch giá sẽ dẫn tới vài sự điều chỉnh. Giá nội địa không quá 920 USD/tấn và hầu hết chào mua đều tương đối nhỏ.
Sự suy giảm 200 USD/tấn được thảo luận trong sự kiện công nghiệp gần đây tại New York nhưng dường như không xảy ra vào cuối năm nay. Đơn hàng vẫn mạnh nhưng mọi thứ có thể rất khác trong nửa đầu năm 2019.
Giá HRC tầm 920 USD/tấn khiến người mua lo ngại bổ sung hàng tồn ở mức giá cao vì rủi ro. Chênh lệch giá thép và phế vẫn lớn và chi phí mua phế tiếp tục tăng có thể gây bất lợi về dài hạn.
Thổ Nhĩ Kỳ kháng cự chào giá nhập khẩu phôi thanh CIS do giá chào vẫn cao
Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục kháng cự chào giá phôi thanh CIS và thay vào đó là mua phôi thanh trong nước.
Các điều kiện thị trường cho thấy không có sự cải thiện sau bầu cử Thổ Nhĩ Kỳ. Giá xuất khẩu thép cây vẫn giảm trong tuần khiến họ không chấp nhận mua phôi thanh CIS giá cao.
Nhà máy Kardemir đã bán vài lô hàng trong nước ở mức 525-530 USD/tấn xuất xưởng. Mục tiêu cho giá nhập khẩu là 515 USD/tấn CFR Marmara, tầm 500 USD/tấn FOB Biển Đen, giả sử rằng giá nhập khẩu được chiết khấu so với giá trong nước.
Phôi thanh Iran có sẵn ở mức 500-505 USD/tấn FOB nhưng không thu hút Thổ Nhĩ Kỳ do chi phí vận chuyển cao so với CIS. Ai Cập đã mua từ Iran với giá 530 USD/tấn CIF, thấp hơn 5-10 USD/tấn so với CIS.
Các nhà máy CIS chào bán 515-530 USD/tấn FOB Biển Đen. Một nhà máy Nga cho hay đã bán hết phôi thanh loại 3SP, tầm 530 USD/tấn FOB Biển Đen. Các nguồn tin nghi ngờ giá 530 USD/tấn FOB là giá giao dịch, cho biết thêm đó là mức giá cao được chào bán ở thị trường giao ngay lúc này.
Một thương nhân Châu Âu cho biết thị trường đang trong xu hướng chờ đợi do các nhà máy CIS đã bán hết phôi thanh giao tháng 7 và giữ giá mục tiêu tháng 8 ổn định.
Giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc tiếp tục tăng trong tháng 6
Giá xuất khẩu tấm dày Trung Quốc tăng tháng thứ ba liên tiếp trong tháng 6 do các nhà máy Trung Quốc vẫn duy trì giá xuất khẩu ở mức cao trong khi các đơn hàng bán trong nước vẫn có lời dù giá giảm.
Chào giá xuất khẩu từ các nhà máy lớn ở mức cao 625-640 USD/tấn FOB Trung Quốc giao tháng 9. Khó để chốt đơn hàng mức này do các nhà máy không chào bán xuất khẩu nhiều dựa vào giá trong nước cao hơn trong khi các khách hàng ngoài nước chỉ mua đủ cần. Một thương nhân dự báo giá không giảm nhiều do các nhà máy đã có đủ đơn hàng.
Có vài giao dịch chốt mức 620 USD/tấn FOB. Tuy nhiên, các khách hàng ngoài nước không đặt bất cứ đơn hàng nào mức 620 USD/tấn FOB dựa vào sự suy yếu của thị trường nội địa.
Giá chào bán cùng loại tại Thượng Hải giảm 105 NDT/tấn so với cuối tháng 5 xuống 4.250-4.360 NDT/tấn (642-658 USD/tấn). Giá nội địa gặp áp lực suy yếu do tồn kho tăng và tiêu thụ chậm.
Thị trường thép cây xuất khẩu Trung Quốc ổn định theo giá trong nước
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định trong ngày thứ năm do các nhà máy giữ giá chào không đổi theo giá trong nước.
Tại thị trường Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 18-25mm tăng 10 NDT/tấn lên 4.045 NDT/tấn (613 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế có thuế.
Chào giá các nhà máy ổn định. Một nhà máy phía đông giữ giá chào không đổi mức 560 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng lý thuyết. Một nhà máy khác ở đông bắc chào bán 550 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết, không đổi so với ngày trước.
Tại Singapore, 20.000 tấn thép cây Qatari được bán tuần này ở mức 560-563 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết. giá tương đương mức 557-560 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 20 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng.
Một nhà máy Trung Quốc đang mời thầu tại mức 560 USD/tấn CFR Singapore trong ngày thứ ba nhưng sau đó giá nội địa tăng nên không còn chào giá này nữa.
Một nhà chế tạo thép thận trọng đặt hàng do giá biến động. Một nhà môi giới không quan tâm thép cây Qatari do chi phí vận chuyển và thời gian thử nghiệm. Giá chào mua ổn định mức 550 USD/tấn CFR Singapore.
Thị trường Hồng Kông không hoạt động trong ngày thứ năm do người mua không vội vì đã chốt vài đơn hàng gần đây và đang chờ sau khi nhà thầu thép cây Qatari mở phiên chiều thứ năm. Không thương nhân nào chào mua nên không biết giá.
Thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE chốt tăng 72 NDT/tấn (2%) lên 3.744 NDT/tấn (567 USD/tấn, ngưng đà giảm 5 ngày liên tục.
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc tiếp tục giảm trong bối cảnh đồng NDT mất giá
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm vào hôm qua do đồng NDT mất giá. Giao dịch chốt mức thấp hơn dù giá trong nước tăng.
Một giao dịch 1.000 tấn tấm cắt chốt ngày thứ năm ở mức 595 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 8. Đối với cùng loại, các giao dịch cũng nghe chốt mức 607-608 USD/tấn CFR Pakistan trong ngày thứ tư, tương đương 587-588 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Chào giá cho thép cuộn thương phẩm ngày thứ năm vẫn ở mức 610 USD/tấn CFR Pakistan. Đối với tấm cắt, giá chào ở mức 595-600 USD/tấn FOB Trung Quốc và 600 USD/tấn CFR Việt Nam. Tuy nhiên, người mua không chấp nhận giá này.
Đối với SAE1006, một giao dịch 10.000 tấm thép Trung Quốc 2.0-2.8mm chốt mức 613 USD/tấn CFR Việt Nam giao tháng 8. Chào giá vẫn ở mức 615-618 USD/tấn CFR Việt Nam cho cuộn cán lại và 610 USD/tấn CFR cho loại làm ống thép.
Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tăng 40 NDT/tấn lên 4.240-4.260 NDT/tấn (640-643 USD/tấn) xuất xưởng có thuế. Tại sàn kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt tăng 44 NDT/tấn lên 3.875 NDT/tấn. Dù vậy, hoạt động thị trường trì trệ trong nước.
Lợi nhuận HRC các nhà máy vẫn cao, ở mức 1.000 NDT/tấn do giá nội địa không giảm mạnh tuần này. Có thể là do sự mất giá đồng NDT gây áp lực cho giá xuất khẩu.
Một thương nhân Việt Nam cho hay các nhà máy Trung Quốc không sẵn sàng đàm phán trong ngày thứ năm do giá nội địa tăng.
Một chào giá ở 605 USD/tấn CFR Việt Nam cho thép cuộn lớn Nga giao giữa tháng 9.