Các nhà nhập khẩu phôi thanh Đông Nam Á trì hoãn chấp nhận giá tăng
Các khách hàng mua phôi thanh ở Đông Nam Á đang phản đối việc tăng giá từ nhà xuất khẩu Trung Quốc. Các nhà cung cấp đã nâng chào giá xuất khẩu sau khi giá trong nước phục hồi do có thông tin hai nhà máy lớn ở Hà Bắc sẽ cắt giảm sản lượng để đáp ứng tiêu chuẩn môi trường.
Phôi thanh Trung Quốc đang được chào giá 380-385 USD/tấn CFR Philippines nhưng không có người mua. Các nhà cán lại đã đặt mua 20.000 tấn phôi vuông 120mm và ít nhất 10.000 tấn phôi vuông 100mm để giao tháng 05 với giá 375 USD/tấn CFR trong suốt tuần trước.
Tuần trước có nhiều tin đồn rằng các nhà cung cấp Trung Quốc sẽ hủy hợp đồng phôi thanh giao dịch với giá thấp hơn. Một thương nhân ở Manila nghe nói các nhà cung cấp có liên quan đổ lỗi do vấn đề kỹ thuật tại cơ quan Hải quan Trung Quốc cho việc họ không thể giao các lô hàng tháng 04 với ít nhất 50.000 tấn.
Một người khác cho biết ông không lấy làm ngạc nhiên khi nghe về những lô hàng không thực hiện đúng hợp đồng này mặc dù ông vẫn chưa nghe tin tức này. “Giá thị trường hiện nay là 375 USD/tấn, không có ai mua trên mức này. Giá Trung Quốc tăng đột ngột do nguồn cung giảm vì vấn đề ô nhiễm. Nhưng nhu cầu vẫn chưa xuất hiện ở đó. Do đó tình hình thị trường hiện tại đã không hỗ trợ cho giá vượt qua mốc 375 USD/tấn.
Các nguồn tin ở Jakarta không thể xác nhận liệu một số hợp đồng phôi thanh Trung Quốc trước đó được chốt tại 355-360 USD/tấn CFR Indonesia có được giao hay không. Chào giá Trung Quốc tăng lên 390 USD/tấn CFR nhưng không có người mua. Một nhà cán lại cho biết ông ngạc nhiên khi nhận được chào giá gần đây lên tới 420 USD/tấn CFR Jakarta.
Tại Thái Lan, 6.000 tấn phôi thanh xuất xứ Nhật Bản giao tháng 04 và 05 được bán với giá 372 USD/tấn CFR trong suốt tuần qua. Chào giá hiện nay là 380-385 USD/tấn CFR cho phôi thanh Trung Quốc và 390-395 USD/tấn CFR cho nguyên liệu từ các nước khác; trong khi giá mua chỉ từ 375-380 USD/tấn CFR.
Platts tăng định giá nhập khẩu phôi thanh Đông Á lên 370-380 USD/tấn CFR hôm thứ Sáu, từ mức 365-375 USD/tấn CFR của tuần trước.
Gía xuất khẩu phế khối lượng nhỏ Mỹ sang Đông Nam Á tăng
Các nhà cung cấp phế Ferrite Mỹ đang tăng giá xuất khẩu tới Đông Á do giá thép thành phẩm tăng tại Trung Quốc. Dù vậy, các nhà máy EAF vẫn chậm chạp trong việc tiếp nhận giá do nhu cầu tiêu thụ yếu.
Gía chào phế khối lượng lớn đạt mức 260-265 USD/tấn CFR tới các thị trường Đông Nam Á và Đài Loan.
Một nhà máy Việt Nam đã đặt hàng 12.000 tấn phế Úc tại mức 255 USD/tấn gikao cuối tháng 4 nửa đầu tháng 5. Đầu tuần này, một nhà máy Hàn Quốc đã đặt mua các lô hàng phế khối lượng lớn tại mức 253 USD/tấn CFR.
Một nhà máy Đài Loan đặt mua 2 lô phế khối lượng lớn Mỹ tại mức 260 USD/tấn CFR Đài Loan trong tuần này nhưng các đơn hàng chưa được xác nhận.
Các nhà nhập khẩu vẫn đang đối mặt với nhu cầu tiêu thụ trì trệ và dự báo sẽ không chấp nhận giá tăng. Các nhà máy Việt Nam sẽ dùng phôi thanh thay cho phế nếu phế tiếp tục tăng.
Trong ngày thứ sáu, Platts tăng giá phế khối lượng lớn xuất khẩu tới Đông Á lên mức 253-255 USD/tấn CFR Đông Á từ mức 250-255 USD/tấn CFR.
Gía nhập khẩu phế khối lượng nhỏ vào Đài Loan cũng tăng. Sau khi tăng thêm 5-8 USD/tấn, giá đạt mức 230-233 USD/tấn, giá đạt mức 238 USD/tấn CFR Đài Loan.
Platts cũng tăng giá phế HMS khối lượng nhỏ lên mức 215-220 USD/tấn FAS Cảng LA.
Các nhà buôn phế Mỹ đang sử dụng giá phế tăng để đẩy giá thép cây lên sau khi thu được doanh số tốt trong tuần qua.
Tuy nhiên, số khác nghi ngờ rằng lần tăng này không bền vững. Một thương nhân Đài Bắc cho biết chưa chắc chắn liệu các đơn hàng tới có trên 240 USD/tấn hay không.
Nhật: NSSC giảm giá thép dây austenite nhưng lại giữ nguyên giá cho loại ferrite
Nippon Steel & Sumikin Stainless sẽ giảm giá cuộn trơn austenite xuống 15.000 Yên/tấn (126 USD/tấn) cho những hợp đồng từ tháng 03 đến tháng 05 (sản xuất từ tháng 04 đến tháng 06), nhưng sẽ giữ nguyên giá cho thép dây ferrite. Phát ngôn viên cho biết sự sụt giảm mạnh hơn trong giá niken đã khiến nhà máy này phải giảm cách tính phụ phí hợp kim của mình.
NSSC nhấn mạnh rằng giá niken bình quân từ ngày 20/12 đến ngày 25/3 giảm 0.8 USD/lb còn 6,48 USD/lb so với ba tháng trước đó. Giá ferrochrome trong ba tháng đầu năm nay giảm với biên độ giống vậy xuống còn 116 USD/lb.
Nhưng đôla Mỹ giảm giá không giúp NSSC bởi vì mỗi Yên Nhật đã mất giá gần 5 Yên so với đồng bạc xạnh xuống còn khoảng 120 Yên/USD hiện nay.
NSSC cũng sẽ điều chỉnh phụ phí hợp kim của mình. Đơn cử như loại SUSXM7 sẽ giảm 20.000 Yên/tấn, còn SUS316 và SUS310S sẽ giảm còn lần lượt 15.000 Yên/tấn và 25.000 Yên/tấn.
Công ty hiện đang sản xuất khoảng 90% công suất nhưng phát ngôn viên cho biết sản lượng sẽ sớm được nâng lên bởi vì nhà máy cuộn trơn ở Hikari, phía tây nước này sẽ ngưng sản xuất khoảng 2 tuần vào tháng tới để bảo trì. Công suất của nhà máy này là khoảng 130.000 tấn/năm.
“Các khách hàng trong các lĩnh vực như chế tạo ô tô và xây dựng sẽ hoàn thành việc điều chỉnh dự trữ của họ từ tháng 04 đến tháng 06”, phát ngôn viên nói. “Đồng Yên suy yếu hơn sẽ khiến cho cuộn trơn không gỉ và các loại thép dây nhập khác giảm bớt- đây là tin tốt nhưng thép nhập khẩu vẫn còn cao và chúng tôi đang theo dõi thận trọng xu hướng này”, ông nói.
Nhật đã nhập khẩu 1.151 tấn cuộn trơn không gỉ trong tháng 01, tăng 21% so với tháng 12 nhưng lại giảm 37% so với năm ngoái, theo Thống kê thương mại của nước này.
Thị trường thép tấm Mỹ chờ đợi sự phục hồi phía trước
Gía thép cán dẹt Mỹ đã gần cán đáy trong ngày thứ sáu và các nguồn tin dự báo giá sẽ tăng trở lại.
Tuy nhiên, giá vẫn có khả năng giảm nữa với ít nhất một nhà máy chào bán tại mức 460-470 USD/tấn đối với HRC.
Một thương nhân cho biết có 2 nhà máy chào bán cho ông tại mức 460 USD/tấn đối với bất cứ sản lượng nào và nhận định rằng giá 450 USD/tấn là cho đơn hàng 7.500 tấn.
Các đơn kiện chống bán phá giá hàng nhập khẩu có thể tạo động lực cho các nhà máy tăng giá thép. Tuy nhiên, các nhà máy cần nhớ bài học này, ít nhất là hiện tại và tập trung vào việc kiếm đơn hàng hơn là tăng giá.
Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 465-475 USD/tấn và CRC tại mức 595-605 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Định giá phôi thanh CIS
Platts định giá phôi thanh CIS tại mức 353 USD/tấn FOB Biển Đen trong ngày thứ sáu, giảm 2 USD/tấn so với ngày trước đó.
Nhà máy Ukraina bán tại mức 350 USD/tấn FOB Biển Azov, tương đương mức 353 USD/tấn FOB Biển Đen. Vài nguồn tin cho biết giá này có thể bán được dù hầu hết giá chào Biển Đen vẫn ở mức cao 360-365 USD/tấn FOB. Không có đơn hàng được đặt tại mức này. Người mua sẵn sàng trả giá 345-350 USD/tấn FOB Biển Đen, chờ các nhà máy giảm giá chào để đặt hàng.
Trung Quốc: Giá nhập khẩu ferrochrome ổn định
Platts định giá giao ngay cho ferrochrome (58-60% Cr) xuất xứ Ấn Độ tại 80-82 cents/lb CIF Trung Quốc và quặng chrome của Nam Phi (48-52% Cr) là 78-80 cents/lb CIF Trung Quốc hôm thứ Sáu. Cả hai mức giá này đều không đổi so với tuần trước trong bối cảnh giao dịch trì trệ.
Một giao dịch được thỏa thuận giữa nhà máy thép không gỉ Trung Quốc và nhà cung cấp Ấn Độ với giá 80 cents/lb CIF trong tuần trước. Một giao dịch khác được nghe nói có giá 78 cents/lb CIF, nhưng giao dịch này không được tính vào vì hàm lượng phosphorite cao hơn 0.05%, ngoài ra còn do hầu hết người mua và bán đều không thấy mức giá này phổ biến.
Định giá ferrochrome là dành cho loại 58-60% chrome, tối đa 8% cacbon, 5% silicon, 0.04% phosphorous, 0.05% sulfur, lump size 10-150 mm, đơn hàng tối thiểu 500 tấn, tính theo giá CIF tại các cảng lớn của Trung Quốc.
Nhiều nhà sản xuất Ấn Độ hầu như đang tìm cách bán với giá thấp nhất là 80 cents/lb CIF, với chào giá nghe nói lên đến 84 cents/lb CIF. Nguyên liệu bán giao ngay từ Ấn Độ tiếp tục bị hạn chế. Một giao dịch quặng chrome được nghe nói có giá khoảng 78 cents/lb CIF trong tuần trước nhưng chi tiết vẫn chưa rõ. Tuy nhiên, các nguồn tin cho rằng chào giá và giá có thể giao dịch là 78-80 cents/lb CIF.
Nhu cầu nhập khẩu vẫn còn chậm trong tuần trước. Các giao dịch khó mà ký kết do sự chênh lệch giữa kỳ vọng giá của người bán và mua, ngoài ra còn do nhu cầu và giá thép không gỉ suy yếu ở Trung Quốc.
Gía thép cây Nga giảm do nhu cầu tiêu thụ suy yếu và đồng Rub tăng
Giá thép cây Nga đã giảm hơn nữa trong tuần qua, đánh dầu ngày thứ 5 giảm liên tiếp sau khi giá đạt mức cao nhất hồi cuối tháng 1. Gía mới hiện được áp dụng cho toàn sản lượng tháng 3 cho các khách hàng đã đặt mua cách đây 1 tháng. Gía mới cũng là giá áp dụng cho tháng 4, cho thấy sụt sụt giảm 1.920 Rub/tấn đối với tháng 3.
Gía thép cây Nga hiện đạt mức 27.000 Rub/tấn (470 USD/tấn) đối với loại 12mm và 26.600 Rub/tấn (463 USD/tấn) đối với loại 14mm giao tới Maxcova. Nếu không tính thuế VAT, giá tổng cộng đạt mức 22.880 Rub/tấn (398 USD/tấn) và 22.540 Rub/tấn (
392 USD/tấn) đối với loại 12mm và 14mm.
Các nhà phân phối đang tràn ngập hàng tồn kho do kết quả của một mùa đông kinh daonh ế ẩm khi người mua chỉ chờ đợi. Việc giảm hàng tồn có thể phải mất khoảng 1.5 tháng.
Gía thép giảm cũng do sự tăng mạnh lại của đồng Rub dù giá thép tính theo đồng tiền này đã mất 1.000 Rub/tấn trong chỉ một tuần qua. Gía tính theo đồng dolla tăng 3.5 USD/tấn.
Thị trường dường như không khởi sắc nổi trong mùa xuân tới và khác biệt so với năm ngoái khi mà giá thép tăng 6 tháng liên tiếp từ tháng 2-7 với mức tăng tổng cộng 5.200 Rub/tấn.
Thậm chí với mức cao nhất năm ngoái, 22.000 Rub/tấn CPT Maxcova, giá thép cây Nga vẫn thấp hơn 1.500 Rub/tấn so với giá hiện tại nhưng giá tính theo đồng dolla tăng ấn tượng, cao hơn 230 USD/tấn so với giá hiện tại.
Platts giảm giá thép cây Nga xuống còn 22.550-22.850 Rub/tấn (392-397 USD/tấn), giảm 850 Rub/tấn (15 USD/tấn) so với tuần trước đó từ mức 23.400-23.700 Rub/tấn (389-394 USD/tấn) tại mức tỷ giá ngày 20/3 CPT Maxcova. Cùng thời điểm, giá tính theo đồng dolla tăng 3 USĐ/tấn dựa vào sự tăng mạnh của đồng nội tệ từ mức 60 Rub/USD ngày 20/3 lên mức 57.5 Rub/USD ngày 27/3.
Giá thép cuộn không gỉ Châu Á đi ngang trong bối cảnh nhu cầu trì trệ
Platts định giá giao ngay cho CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm của Đài Loan và Hàn Quốc là 2.200-2.250 USD/tấn CFR cảng lớn Đông Á và Đông Nam Á hôm thứ sáu, không đổi so với tuần trước đó trong bối cảnh giá niken thấp và nhu cầu yếu.
Một giao dịch CRC xuất xứ Hàn Quốc được nghe nói là 2.170 USD/tấn CFR Trung Quốc tuần trước. Tuy nhiên, mức giá này không thể lặp lại cho những người mua khác thường mua vài trăm tấn hay ít hơn. Giá phổ biến cho CRC Hàn Quốc là khoảng 2.240 USD/tấn CFR.
Không có giao dịch nào khác có thể được xác nhận. Chào giá CRC Hàn Quốc và Đài Loan được nghe nói từ 2.250-2.300 USD/tấn CFR trong tuần trước. Tuy nhiên, nhiều người chốt giá có thể giao dịch cho thép từ cả hai nước này trong khoảng 2.200-2.250 USD/tấn CFR.
Nhu cầu vẫn còn trì trệ, với CRC của Hàn Quốc và Đài Loan vẫn đang đối mặt với sự cạnh tranh từ thép giá rẻ Trung Quốc.
Các giao dịch và chào giá cho CRC 304 2mm dày 2B của Trung Quốc được nghe nói là 2.150-2.200 USD/tấn FOB trong tuần trước. Giá ít thay đổi từ tuần trước đó nhưng vẫn còn nằm dưới mức chào giá cho CRC của Hàn Quốc và Đài Loan. “Hiện nay thật khó để chốt giao dịch cho CRC xuất xứ Đông Á với giá trên 2.200 USD/tấn”, một nhà nhập khẩu ở Seoul nói.
Trong khi đó, các chào giá cho HRC loại cao cấp 304 3mm xuất xứ Trung Quốc được nghe nói khoảng 2.000 USD/tấn FOB trong tuần trước, giảm từ 2.050-2.100 USD/tấn FOB Trung Quốc của hai tuần trước. Một giao dịch được nghe nói có giá 2.000 USD/tấn CFR Đông Nam Á, tuy nhiên mức giá này khó mà có thể lặp lại cho những người mua khác vì giá này chỉ dành cho quan hệ thân thiết. Giá phổ biến tầm 2.000 USD/tấn FOB.
Giá HRC Nga giảm theo đồng Rub tăng theo đồng dolla
Các nhà máy Nga đã không thành công trong việc áp dụng giá thép tấm và cuộn cán nóng tháng 3 vào tháng này do nhu cầu tiêu thụ suy yếu và đồng Rub tăng nhẹ.
Các nhà máy sản xuất thép băng đã giảm giá chào bán thép tháng 4 xuống 500 Rub/tấn (9 USD/tấn) mặc dù điều này không giúp được nhiều cho các đơn hàng.
Gía thép tấm cuộn tháng 4 hiện đạt mức 30.400-30.500 Rub/tấn (530-532 USD/tấn) đối với loại 2mm và 29.800-29.850 Rub/tấn (520-521 USD/tấn) đối với loại 4mm đã tính phí giao hàng tới Maxcova và thuế VAT.
Platts giảm giá thép tấm và cuộn cán nóng Nga loại 2-4mm xuống còn 25.280-25.800 Rub/tấn (442-451 USD/tấn) và 24.680-25.200 Rub/tấn (431-440 USD/tấn) CPT Maxcova, giảm 490 Rub/tấn (8.5 USD/tấn) từ mức 25.750-26.300 Rub/tấn (432-441 USD/tấn) và 25.150-25.700 Rub/tấn (422-431 USD/tấn) tại mức tỷ giá ngày 20/3 CPT Maxcova.
Trong khi đó,nếu tính giá thép theo đồng dolla thì ta có điều ngược lại là giá sẽ tăng 10 USD/tấn do đồng Rub dần phục hồi. Dù vậy, giá HRC nội địa hiện đang chênh ệch cao hơn tầm 50 USD/tấn so với giá nhập khẩu từ CIS.
Hegang tăng giá hợp đồng tháng 03 lên 8 USD/tấn
Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc bình ổn trong ngày thứ sáu sau nhiều ngày giảm, nhờ sự hỗ trợ từ thông báo được đưa ra bởi Hebei Iron & Steel (Hegang) rằng công ty sẽ tăng giá hợp đồng tháng 03 lên 50 NDT/tấn (8 USD/tấn).
Tại thị trường bán lẻ Bắc Kinh hôm thứ Sáu, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được chốt trong khoảng 2.455-2.465 NDT/tấn (395-396 USD/tấn) trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT. Giá đã giảm tổng cộng 100 NDT/tấn từ thứ hai tuần trước đó, sau khi tăng mạnh từ ngày 21-23/3 với 185 NDT/tấn.
Cũng trong ngày thứ Sáu, chào giá của các thương nhân được hỗ trợ bởi giá hợp đồng tháng 03 được công bố bởi Hegang.
Theo đó, giá hợp đồng thép cây HRB400 đường kính 18-22mm của Hegang lên 2.340 NDT/tấn trọng lượng lý thuyết và gồm 17% VAT (tương đương 2.410 NDT/tấn trọng lượng thực tế).
Các đại lý của công ty cũng sẽ được nhận khoản tiền hoàn lại cho những đơn hàng được đặt mua trong tháng này nếu họ đạt được từ 90% trở lên chỉ tiêu đơn hàng tháng 02 và 04.
Cụ thể, Hegang cam kết với những đại lý mà đạt chỉ tiêu tháng 04 nhưng không đạt trong tháng 02 rằng họ sẽ nhận được khoản chiết khấu 60 NDT/tấn. Còn những đại lý mà đạt chỉ tiêu cả hai tháng 02 và 04 sẽ được nhận 100 NDT/tấn.
Việc chi trả hoàn lại mà Hegang cam kết cho việc đặt mua tháng 03 sẽ giúp bù đắp những khoản lỗ mà các đại lý gánh chịu từ giá thị trường thấp trong tháng 03. Hơn thế, giá hợp đồng mới sẽ khiến họ thêm phần lưỡng lự để giảm giá nhằm tránh thua lỗ trong thời gian ngắn.
Theo nhà cung cấp thông tin ở Thượng Hải Mysteel, thép cây tồn kho ở Bắc Kinh trong tuần trước giảm 18.200 tấn (3%) còn 596.800 tấn.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC EU bình ổn trong ngày thứ sáu tại mức 410 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.
Các nhà máy đang tìm cách tăng giá thêm 10 Euro/tấn nhưng người mua không chấp nhận và giá thị trường vẫn ở mức 410 Euro/tấn. Các nhà máy Bắc Âu đã nhận đủ đơn hàng cho tới cuối tháng 5 đầu tháng 6.
Gía nhập khẩu HRC Trung Quốc là 380-385 Euro/tấn CIF Antwerp. CRC chào bán từ Trung Quốc đạt mức 450 Euro/tấn trong khi Nga không có mặt trên thị trường.
Giá CRC Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bình ổn dù tiêu thụ thấp
Các nhà máy CRC Thổ Nhĩ Kỳ đã cố gắng giữ giá chào bình ổn trong tuần qua dù tiêu thụ trong và ngoài nước thấp cộng với tỷ giá biến động dẫn tới tình trạng thiếu hụt tiền mặt.
Gía niêm yết CRC Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 540-550 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ sáu, không đổi so với trước đó. Các nhà máy đang dần bình ổn hơn. Tuy nhiên, tình trạng thiếu hụt tiền tệ đang kìm hãm giao dịch.
Mặc dù giá giao dịch CRC dự báo tăng trong Q2 nhưng các nguồn tin vẫn thận trọng. Rủi ro bất ổn chính trị và kinh tế có thể ảnh hưởng tới quyết định mua hàng.
Gía chào CRC CIS giá thấp cũng tiếp tục gây áp lực cho các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong tuần qua. Gía chào CRC CIS đạt mức 470-490 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ giao cuối tháng 4 và 5 nhưng nhu cầu tiêu thụ CRC nhập khẩu cũng thấp.
Gía phế tăng tại hầu hết các thị trường
Thị trường phế Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng trở lại trong tuần qua mặc dù tình trạng giao dịch trì trệ với cuộc họp của bộ công nghiệp tại Paris đang trì hoãn thị trường.
Platts định giá phế HMS nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tại mức 257.50 USD/tấn CFR, tăng 2.50 USD/tấn. Gía đã mắc kẹt tại mức 255 USD/tấn trong suốt tuần.
Trong khi có nhiều đàm phán tại mức 258 USD/tấn CFR hồi đầu tuần nhưng có rất nhiều tin đồn cho rằng chỉ có một giao dịch tại mức giá này.
Các nguồn tin cho rằng nguồn cung thắt chặt đang là động lực đẩy giá đi lên.
Tuần qua, Hyundai Steel cho biết đã mua 2 lô hàng phế Mỹ khối lượng lớn tại mức 253 USD/tấn CFR HMS 1. Trong ngày thứ sáu, giá chào phế khối lượng lớn đạt mức 260-265 USD/tấn CFR HMS I/II tới Đông Nam Á và Đài Loan.
Một nhà máy VietNam cho biết đã mua một đơn hàng nhỏ 12.000 tấn phế Úc tại mức 255 USD/tấn giao cuối tháng 4 nửa đầu tháng 5.
Trong ngày thứ sáu, Platts đã tăng giá phế HMS khối lượng lớn nhập khẩu vào Đông Nam Á lên mức 253-255 USD/tấn CFR Đông Á từ mức 250-255 USD/tấn CFR.
Thị trường phế Đông Á cũng tăng lại trong tuần qua. Các thương nhân Nhật mua tại mức 23.500-24.000 Yên/tấn (197.5-201.7 USD/tấn) FAS Tokyo, tăng 1.000 Yên/tấn so với tuần trước đó. Gía phế tăng do có nhiều đơn hàng hơn với ước tính 70.000 tấn/tuần, bao gồm cả phế được mua trong phiên đấu thầu của Kanto Tetsugen.
Các thương nhân hiện đang đặt mục tiêu giá xuất khẩu tối thiểu 25.000 Yên/tấn FOB đối với phế H2, tăng 500 yên/tấn so với giá trước đó.
Trong khi đó, Tokyo Steel Manufacturing vẫn giữ giá mua kể từ ngày 11/03 tại mức 24.500 Yên/tấn (206 USD/tấn) tại các xưởng Utsunomiya Bắc Kanto. Các nhà máy mini khác đã tăng giá mua phế thêm 500-1.000 Yên/tấn trong khi quá trình giao phế tới các nhà máy mini chậm chạp.
Hyundai Steel Hàn Quốc đã đặt mua phế H2 Nhật tại mức 25.000 Yên/tấn FOB, thêm 500 Yên/tấn cho khối lượng thêm vào trong tuần 27/3, cho thấy giá tăng 1.000-1.500 Yên/tấn so với hơn 1 tuần trước theo đà tăng của giá phế Nhật. Gía phế Nhật tăng nhờ nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm tăng trong mùa xuân.
Các nhà máy Ukraina chiết khấu cao hơn cho HRC để thu hút đơn hàng
Gía chào HRC từ Ukraina tới Thổ Nhĩ Kỳ đã suy yếu hơn nữa trong tuần qua do tiêu thụ trì trệ, đồng dolla tăng mạnh so với lira.
Các nhà máy Ukraina đang chào bán HRC tại mức 380-390 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, giảm 5-10 USD/tấn so với tuần trước đó trong khi giá chào từ Nga vẫn ở mức 400-410 USD/tấn CFR.
Các nhà máy Ukraina đã bắt đầu tăng chiết khấu cho các đơn hàng trên 3.000 tấn giao giữa tháng 5. Có thể Ukraina sẽ có vài giao dịch trong vài ngày tới do giá chào bán khá tốt.
Tuy nhiên, phía bên Trung Quốc lại đang cố đẩy giá tăng lên khiến tình hình thị trường có vẻ không rõ ràng. Bên cạnh đó, sự thiếu hụt tiền mặt đang kìm hãm sức mua.
Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang cố giữ giá bình ổn ở mức 445-460 USD/tấn trong tuần qua do yêu cầu hỏi mua tăng có thể dẫn tới đơn hàng. Tuy nhiên, giá chào nhập khẩu thấp từ Ukraina và giá quặng sắt suy yếu có thể tăng áp lực cho các nhà máy.
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ chật vật tìm khách hàng
Các nhà xuất khẩu HDG Ấn Độ tiếp tục chật vật để tìm người mua do nhu cầu vẫn còn trì trệ ở hầu hết các khu vực. Ngoài ra, mặt hàng này còn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt ở gần như mọi thị trường xuất khẩu.
“Khách hàng ở Mỹ đang đợi giá bình ổn”, đại diện một nhà máy ở Delhi cho biết, thêm vào đó chào giá rẻ từ Trung Quốc và Hàn Quốc đã khiến cho giá bất ổn. Ông này đã chiến đấu cam go để có được đơn đặt hàng trong suốt chuyến công tác tới nước này hồi tuần trước.
Chào giá Ấn Độ tuần trước cho thép cuộn loại thường dày 0.3mm phủ 90gram kẽm trên một mét vuông tiếp tục phổ biến quanh mức 720-725 USD/tấn CFR Hoa Kỳ. Tuy nhiên, không có giao dịch nào được ghi nhận. “Vắng bóng người mua dẫn đến giá giảm tới mức như thấp như vậy trong tháng này, so với 820-830 USD/tấn của tháng 02”, một thương nhân ở Mumbai giải thích.
Tương tự, một đại lý xuất khẩu từ Mumbai đã gặp nhiều khó khăn khi thiếu sự quan tâm từ các khách hàng thường xuyên của ông ở những thị trường xuất khẩu khác. Các khách hàng ở Nam Mỹ đã tích trữ đủ hàng trong khi biến động tiền tệ ở Châu Âu đã làm ảnh hưởng đến nhu cầu ở đó.
Nhu cầu HDG Ấn Độ cũng vẫn còn suy yếu ở Trung Đông. Đại diện nhà máy Delhi cho biết ông có thể bán HDG loại nhỏ hơn dày 0.18mm phủ 90 gram kẽm với giá khoảng 830-840 USD/tấn CFR trong tuần trước.
Tuy nhiên, việc vận chuyển tới nhà kho của ông ở UAE đang giảm. Đến tháng 12, nhà máy của ông có thể xuất khẩu đều đặn khoảng 8.000-10.000 tấn mỗi tháng ở đó, nhưng ông chỉ vận chuyển khoảng 5.000-6.000 tấn trong tháng này.
Đại diện nhà máy Delhi may mắn hơn với các sản phẩm khác tới Đông Nam Á. Ông có thể bán một số loại thép Cold Rolled Full Hard tới Philippines và Indonesia. Ông đã bán khoảng 4.000-5.000 tấn CRFH dày 1.8 mm rộng 672m với giá chừng 625 USD/tấn CFR.
Các nhà máy CIS giữ vững giá chào trong bối cảnh giá giao dịch thấp
Nhu cầu tiêu thụ suy yếu và tâm lý thị trường tiêu cực đang chi phối thị trường phôi thanh Biển Đen. Người mua Thổ Nhĩ Kỳ đang hoãn lại đơn hàng và dự báo các nhà máy CIS sẽ giảm giá chào xuống ít nhất 5 USD/tấn để thu hút đơn hàng.
Elektrostal tại Ukraine đã chốt được vài đơn hàng giao cuối tháng 4 cho các thương nhân với giá 350 USD/tấn FOB Mariupol thanh toán trước một phần nhỏ. Ông cho biết thị trường vẫn khó khăn và các nhà máy phải giảm giá chào xuống 355-360 USD/tấn FOB. Gía giao dịch vẫn ổn định ở mức 350-355 USD/tấn FOB.
Một thương nhân cho biết giá này thu hút nhưng không phải thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Người mua Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đứng bên lề thị trường và sẵn sàng đặt mua tại mức giá tối đa 365 USD/tấn CFR Aliaga, thấp hơn mức giá 350 USD/tấn FOB. Thị trường Tunisia cũng trong tình trạng tương tự.
Một thương nhân cho biết giá chào từ Biển Đen nên đạt mức 353 USD/tấn FOB để thu hút người mua nhưng giá hiện tại vẫn cao hơn 10 USD/tấn. Các nhà máy Novorosmetall và REMZ Nam Nga đang chào bán tại mức 362 USD/tấn và 363 USD/tấn FOB Biển Đen. Thời gian giao hàng là vào cuối tháng 5 đầu tháng 6. Nhà máy ArcelorMittal Krivyi Rih Ukraina đang tìm kiếm mức giá 365 USD/tấn FOB Nikolaiv nhưng không ai mua.
Platts giảm giá phôi thanh hàng ngày xuống 2 USD/tấn, còn 353 USD/tấn trong ngày thứ sáu.