Bản tin than đá tuần: thị trường im ắng trong khi người mua lạc quan
Thị trường than đá Châu Á- Thái Bình Dương khá trầm lắng trong tuần trước với người mua từ từ tiếp cận thị trường nhập khẩu.
Hầu hết các nhà máy thép Trung Quốc dự báo giá sẽ giảm trong thời gian tới nên trì hoãn mua vào. Platts giảm giá than đá chất lượng cao xuống 50 cents còn 181 USD/tấn FOB Úc trong khi giá giao tới thị trường Trung Quốc giảm 1.50 USD/tấn.
Trong phân khúc than cao cấp đã có một giao dịch giao ngay được thực hiện hồi đầu tuần với một nhà sản xuất thép nào đó, mặc dù hầu hết các nhà sản xuất thép Trung Quốc vẫn xa lánh thị trường.
Trong khi đó, thị trường than cốc nội địa của Trung Quốc đã lao dốc, với các nhà sản xuất than cốc ở miền Bắc Trung Quốc thấy giá giảm 200 NDT / tấn do việc cắt giảm sản lượng thép ở Bắc Trung Quốc, khiến nhu cầu tiêu thụ than giảm.
Hầu hết người mua ở Trung Quốc cũng cho biết giá than cốc sẽ giảm cả ở nội địa và thị trường nhập khẩu nên chọn cách chờ đợi.
Các nguồn tin cho biết, giá than cốc trong nước cho loại có hàm lượng lưu huỳnh cao và thấp đều giảm xuống ở Sơn Tây, khoảng 30-80 NDT/tấn nên không còn chuộng hàng nhập khẩu nhiều.
Các nhà máy Nga giảm giá thép cây/thép cuộn để kích cầu
Các nhà máy Nga giảm giá thép cuộn tháng 11 trong nước trong bối cảnh giá xuất khẩu suy yếu và tiêu thụ thấp.
Các nhà máy trong nước muốn giữ giá trong tháng 10 nhưng thực tế phải giảm giá do giá bán của các nhà phân phối giảm.
Giá thép nội địa vẫn dưới mức mong muốn. Người mua phàn nàn về giá bán lẻ thấp và lời không cao và yêu cầu phía nhà máy giảm giá tháng 10 xuống 2.000 Rubs/tấn (34 USD/tấn). Điều này cho thấy giá tấm cán nóng tháng 11 có vẻ sẽ ở mức 34.500 Rubs/tấn (588 USD/tấn).
Giá giảm chủ yếu do tồn kho tại các nhà phân phối cao lúc thị trường tăng trưởng.
Giá tấm cán nóng tháng 11 được bán ở mức 41.800-41.830 Rubs/tấn (714-715 USD/tấn) cho loại 2mm và 41.150-41.180 Rubs/tấn (703-704 USD/tấn) cho loại 4mm giao tới Maxcova đã tính thuế. Giá giảm 4%, tương đương 1.585 Rubs/tấn (27 USD/tấn) so với tháng 10.
Chênh lệch giá HRC Maxcova với FOB Biển Đen do đó thu hẹp lại còn 60 USD/tấn từ mức 90 USD/tấn tuần trước đó.
Platts giảm giá thép cuộn và tấm cán nóng Nga xuống 1.550 Rubs/tấn (26.5 USD/taans0 xuống còn 34.900-35.450 Rubs/tấn (596-606 USD/tấn) và 34.300-34.850 Rubs/tấn CPT Maxcova.
Giá CRC nội địa vẫn ổn định do nguồn cung thắt chặt. Sản lượng tấm cán nguội tháng 11 được bán ở mức 39.000 Rubs/tấn (665 USD/tấn) CPT Maxcova dày 1mm chưa thuế. Nếu cộng thuế thì giá tầm 46.000 Rubs/tấn (784 USD/tấn).
Giá thép cây tại Nga đang đảo chiều giảm. Giá tháng 11 ở mức 32.000-32.500 Rubs/tấn (547-556 USD/tấn) cho loại 12mm và 31.600-32.200 Rubs/tấn (541-551 USD/tấn) cho loại 14mm giao tới Maxcova đã tính thuế.
Platts giảm giá thép cây hàng tuần Nga xuống còn 26.800-27.200 Rubs/tấn (460-467 USD/tấn), giảm 2.770 Rubs/tấn (47 USD/tấn) so với tuần trước. Sau khi giảm, giá thép cây Maxcova thấp hơn giá FOB Biển Đen 50 USD/tấn.
Giá thép không gỉ Châu Á ổn định, thị trường đang chờ giá tháng 11
Giá chào bán thép cán nguội không gỉ 304 2mm 2B Đài Loan và Hàn Quốc ổn định trong tuần trước ở mức 2.190-2.210 USD/tấn CFR Đông và Đông Nam Á. Những người tham gia thị trường đang chờ giá mới tháng 11 từ các nhà cung cấp lớn trong khu vực, trong khi giá giao ngay tại thị trường trong nước của Trung Quốc ít thay đổi trong tuần.
Nhà sản xuất thép không gỉ của Đài Loan, Yieh United Steel Corp (Yusco) dự kiến sẽ thông báo giá mới trong tuần tới. Giá tháng 11 mới có thể tăng đáng kể so với tháng 10, do sự gia tăng hơn 10% giá niken trong tháng, một thương nhân trong khu vực cho biết. Tuy nhiên, giá của nhà máy không thay đổi nhiều so với mức giá hiện tại là 2.190-2.200 USD/tấn CFR, vì Yusco đang điều chỉnh giá thường xuyên để phù hợp sự biến động giá trên thị trường Trung Quốc.
Trong khi đó, Posco của Hàn Quốc cũng sẽ thông báo giá mới sớm, với mức giá cao hơn 2.400 USD/tấn CFR so với các nguyên liệu từ Đài Loan và Trung Quốc. Giá thép cuộn không gỉ có thời gian giao hàng ngắn hơn tới phía nam Trung Quốc vẫn ở trên 2.200 USD/tấn CFR, theo nguồn tin thị trường.
Theo một thương nhân ở miền nam Trung Quốc, nhà sản xuất thép không gỉ Taigang lớn nhất của Trung Quốc đã chào giá 2.190 USD/tấn FOB từ ngày 23-26/10. Với biên độ dao động giá hẹp, các thương nhân đang cố gắng dò tìm xu hướng giá ngắn hạn.
Giá giao dịch niken tính bằng tiền mặt trên sàn London Metal ở mức 11.845 USD/tấn vào ngày 26/10, tăng 165 USD/tấn so với tuần trước đó.
Giá HRC nội địa và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục giảm
Giá HRC nội địa và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong ngày thứ sáu do các nhà máy giảm giá để cạnh tranh với hàng nhập khẩu CIS.
Giá chào từ CIS vào Thổ Nhĩ Kỳ khoảng 540 USD/tấn FOB, sau khi các lô hàng chốt tuần trước đó ở mức 550-555 USD/tấn FOB.
Các giao dịch mới nhất trong nước chốt ở mức 575 USD/tấn xuất xưởng đối với các đơn hàng lớn trong khi giá chào bán tầm 580-600 USD/tấn.
Một nguồn tin cho biết giá bán của Thổ Nhĩ Kỳ có thể giảm còn 540 USD/tấn trong tháng tới nếu các nhà máy CIS tăng cạnh tranh để tìm kiếm thị trường mới sau khi bị EU áp thuế chống bán phá giá.
Trong bối cảnh thị trường không chắc chắn, nhu cầu trong nước vẫn còn yếu, và tiêu thụ tại thị trường xuất khẩu cũng chậm.
Đơn hàng xuất khẩu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ gần đây nhất được ký kết ở mức 565 USD/tấn FOB trong khi các đơn hàng nhập khẩu từ Châu Âu giảm xuống còn 540-545 USD/tấn FOB.
Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ dù đồng Lira giảm
Giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhẹ vào cuối tuần trước dù đồng Lira giảm mạnh.
Nhiều nguồn tin cho biết giá giao dịch ít nhất phải 520 USD/tấn FOB vì không thể nào có giá thấp hơn nữa.
Một nguồn tin cho biết giá tối thiểu là 520 USD/tấn. Ông đã bán một loo hàng 30.000 tấn tới Singapore trong tuần trước ở mức giá 530 USD/tấn CFR, tương đương 517-520 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, có thể vì khối lượng lớn.
Theo một nhà quan sát thị trường, một hợp đồng mua bán với Yemen được ký kết với giá 530 USD/tấn FOB. "Giá của Yemen cao hơn do chất lượng và chi phí kiểm tra, giá cho các thị trường khác nên thấp hơn 5-10 USD/tấn”, theo ông giải thích.
Platts định giá xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 520 USD/tấn FOB.
Các nhà máy CIS bình ổn giá gang thỏi
Các nhà máy CIS đang tìm cách ổn định giá gang thỏi sau khoảng 6 tuần liên tục giảm nhẹ, nhưng người mua tiếp tục kháng cự.
Giá gang thỏi CIS chào bán vào Mỹ ở khoảng 350 USD/tấn CIF Nola, một thương nhân Nga cho biết. "Người Mỹ muốn trả ít hơn nhưng chúng tôi không bán", ông nói thêm.
Theo ống, người mua muốn giá thấp hơn nhưng không thể. Tuy nhiên, giá cũng chẳng tăng thêm nhiều vì cung vượt quá cầu. Việc Trung Quốc áp dụng chính sách giảm sản lượng về lý thuyết sẽ giúp giá thế giới ổn định hoặc tăng nhẹ.
Giá bán tới Ý từ một nhà máy Ukraina nghe chốt ở mức 345 USD/tấn CIF, tương đương 325 USD/tấn FOB Biển Đen/Azov. Tuy nhiên, nhà máy này từ chối đã bán ở mức này, và cho rằng không bán lô hàng nào dưới 350 USD/tấn CIF.
Platts giảm giá xuất khẩu gang thỏi CIS xuống 335 USD/tấn FOB Biển Đen, giảm 2.50 USD/tấn.
Giá thép cuộn cán nóng vượt qua tấm dày Mỹ
Giá tấm dày Mỹ giảm xuống thấp hơn giá thép cuộn cán nóng lần đầu tiên trong 9 tháng qua.
Platts giảm giá tấm dày A36 xuống còn 612.50 USD/tấn trong khi giá HRC ở mức 613.75 USD/tấn xuất xưởng Indiana.
Giá tấm dày giảm 30 USD/tấn trong tháng 10 do các nhà máy cạnh tranh nhau để giành giật thị trường tiêu thụ. Trong khi đó, giá HRC giảm xuống dưới 590 USD/tấn vào giữa tháng 10 và phục hồi sau khi các nhà máy tăng giá thêm 40 USD/tấn.
Các trung tâm dịch vụ cho rằng khả năng các nhà máy sẽ tăng giá tấm dày vào giữa tháng sau. Mặc dù giá hiện chưa tăng theo HRC nhưng không có nhiều áp lực từ hàng nhập khẩu và tồn kho tương đối thấp.
Hầu hết áp lực về giá đều xuất phát từ trong nước. Theo số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, nhập khẩu tấm cắt tháng 9 giảm còn 53.105 tấn, giảm so với mức 64.240 tấn tháng 8 và 87.740 tấn tháng 9/2016.
Gần đây giá HRC thường cao hơn tấm dày. Giá HRC đắt hơn tấm từ tháng 11/2016- tháng 1/ 2017 và trước đó từ tháng 7/ 2016 –tháng 8/2016. Tuy nhiên trong quá khứ hiếm khi nào giá tấm dày lại rẻ hơn HRC. Trước năm 2016, lần cuối cùng HRC đắt hơn tấm dày vào tháng 3/2004.
Giá phôi thanh giảm tại thị trường Châu Á
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á suy yếu tuần thứ ba liên tiếp tính tới tuần qua do các thương nhân giảm giá chào dựa vào tâm lý thị trường suy yếu.
Tại Manila, giá chào phôi thanh Ấn Độ Q255 150mm ở mức 500-505 USD/tấn CFR. Phôi thanh Nga được chào ở mức 500-505 USD/tấn CFR cho phôi thanh Q275 120mm. Chào giá thấp nhất ở mức 495 USD/tấn CFR cho phôi thanh Q235 150mm Ấn Độ.
Một thương nhân cho biết phôi thanh Ấn Độ ít ổn định về chất lượng hơn so với các khu vực khác nên giá chào bán rẻ hơn. Giá mua tầm 490-495 USD/tấn CFR trong tuần trước.
Một thương nhân Trung Quốc cho biết đã nhận được chào mua ở mức 504 USD/tấn CFR Manila cho phôi thanh Việt Nam. Nhà mày này vẫn giữ giá chào ở mức 520-525 USD/tấn CFR cho phôi thanh Q275 120mm.
Một thương nhân Thái Lan cho biết phôi thanh Trung Quốc ở mức 530 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Trong ngày thứ sáu, Platts giảm giá phôi thanh 120/130mm CFR Đông Á xuống 500-505 USD/tấn CFR, giảm 10 USD/tấn so với tuần trước đó.
Bản tin quặng tuần: Chính sách giảm sản xuất thép kéo giá quặng xuống dưới 60 USD/tấn
Thị trường quặng sắt Trung Quốc suy yếu trong tuần trước do các cắt giảm sản xuất vào mùa đông kìm hãm nhu cầu tiêu thụ quặng. Platts giảm giá quặng IODEX chứa 62% sắt xuống dưới 60 USD/tấn, còn 59.10 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc hôm thứ sáu, giảm 3.20 USD/tấn so với thứ năm và 1.55 USD/tấn so với tuần trước đó.
Các cắt giảm sản xuất thép vào mùa đông dẫn tới tồn kho quặng tăng gần gấp đôi và kìm hãm tiêu thụ quặng. Do đó, người mua chỉ mua đủ dùng.
Chính sách giảm sản lượng áp dụng từ giữa tháng 11 cho tới tháng 3 tới do chất lượng không khí cả nước ở mức thấp mặc dù dữ liệu từ Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh cho thấy hàm lượng PM 2.5mm ở mức thấp trong tháng 10.
Dựa vào lợi nhuận cao và các cắt giảm sản xuất, các nhà máy Trung Quốc ưa chuộng nguyên liệu chất lượng cao hơn. Do đó, Fortescue Metals Group được nghe đang xem xét lại mức chiết khấu cho quặng cám Fortescue Blend 58.3% sắt giao tháng 11 tăng lên 25.5% từ mức 23% trước đó.
Thị trường đồng tình rằng nguồn cung thắt chặt sẽ hỗ trợ giá nhưng có nhiều quan điểm trái ngược về việc giá quặng chất lượng cao có được hỗ trợ không. Nhiều nguồn tin quan ngại về nguồn cung mạnh từ Úc và Braxin trong Q4 năm nay, dự báo giá sẽ tiếp tục gặp áp lực dựa vào tồn kho cao còn tiêu thụ thấp.
Theo một báo cáo từ một nguồn tin hôm thứ sáu, giá quặng cám 62% sắt dường như sẽ ở mức trung bình 64.10 USD/tấn CFR trong Q4 mặc dù giá cả biến động và suy yếu hơn cho quặng chất lượng thấp.
Chênh lệch giá quặng cục với quặng cám ở mức 0.2430 USD/tấn trong ngày thứ sáu, giảm 0.0070 USD/tấn so với thứ năm và 0.0070 USD/tấn so với tuần trước. Giá cả ổn định do người mua thoải mái đặt mua ở mức này, với hàng nhập khẩu giá rẻ hơn hàng nội địa.
Trong khi đó, giá giao ngay phôi thanh vuông ở Đường Sơn giảm 40 NDT/tấn xuống còn 3.700 NDT/tấn (556.62 USD/tấn) xuất xưởng Đường Sơn hôm thứ sáu.
Giá CRC Mỹ giảm do vẫn còn nhiều nhà máy chào bán giá thấp
Giá CRC Mỹ giảm vào hôm thứ sáu do chưa phải tất cả các nhà máy đều tăng giá. Platts giảm giá CRC Mỹ xuống 6.25 USD/tấn còn 800.25 USD/tấn. Nhiều nhà máy giữ giá chào bán ở mức 820 USD/tấn nhưng người mua cho biết không phải nhà máy nào cũng tăng giá.
Một nhà máy chào bán ở mức thấp 760 USD/tấn trong tuần này. Người mua cho biết các thông báo tăng giá mới nhất thành công ở thị trường HRC hơn là CRC và thép mạ. Các nhà máy Mỹ tăng giá tấm mỏng thêm 40 USD/tấn hoặc ấn định giá bán tối thiểu.
Platts vẫn duy trì giá HRC tại mức 613.75 USD/tấn. Các nhà máy đặt mục tiêu 620 USD/tấn cho các đơn hàng giao ngay.
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định dù giá trong nước đang giảm
Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định trong tuần trước do các nhà máy cố gắng giữ giá chào mặc dù giá trong nước đang giảm.
Platts vẫn giữ giá chào thép cây BS500 đường kính 16-20mm ổn định tại mức 521-522 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, không đổi so với hôm thứ năm.
Tại Singapore, các thương nhân Trung Quốc chào bán thép cây 10-40mm tại mức 530-535 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết, tương đương 528-533 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với phí vận chuyển 18 USD/tấn và chênh lệch khối lượng 3%.
Một lô hàng 10.000 tấn nghe nói chốt ở mức 515-518 USD/tấn CFR Singapore trọng lượng lý thuyết (512-515 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế) giao tháng 11 hồi đầu tuần trước. Chưa có thông tin xác nhận về giao dịch này.
Tại Hồng Kông, chào giá thép cây 10-40mm Trung Quốc ở mức 555 USD/tấn CFR trọng lượng thực tế, tương đương 544 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 11 USD/tấn. Người mua không vội chốt hàng và giá có thể giảm theo giá nguyên liệu thô, một nhà môi giới nhận định.
Các nhà máy Trung Quốc chọn cách bình ổn giá dù giá giao kỳ hạn và nội địa giảm. hai nhà xuất khẩu lớn giữ giá chào ở mức 535 USD/tấn FOB trọng lượng lý thuyết (552 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế với chênh lệch khối lượng 3%) và 545 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm do áp lực tiêu thụ thấp
Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc giảm vào hôm thứ sáu tuần trước do người mua từ chối đặt hàng vì nghĩ rằng giá cao.
Platts giảm giá HRC SS400 3.0mm Trung Quốc xuống 2 USD/tấn còn 548-550 USD/tấn FOB Trung Quốc trong khi giá tính theo CFR Đông Á cũng giảm 2 USD/tấn còn 558-560 USD/tấn CFR Đông Á.
Thông tin thị trường gần kề với HRC nội địa Trung Quốc được xem xét để định giá HRC xuất khẩu do không có giao dịch trong ngày.
Platts giảm giá HRC Q235 5.5mm giao ngay Thượng Hải xuống 90 NDT/tấn còn 3.980-4.000 NDT/tấn (598-601 USD/tấn) xuất xưởng có thuế.
Trên sàn giao kỳ hạn SHFE, hợp đồng HRC giao tháng 1/2018 chốt giảm 112 NDT/tấn xuống còn 3.834 NDT/tấn.
Một nhà máy lớn ở đông bắc giữ giá chào ở mức 570 USD/tấn FOB cho HRC SS400, không đổi so trước đó. Một nhà máy lớn ở phía đông cũng giữ giá chào ở mức 575 USD/tấn FOB và thừa nhận rằng giá quá cao so với người mua.
Các nhà máy còn lại giữ giá chào ổn định ở mức 570-575 USD/tấn FOB Trung Quốc nhưng người mua thận trọng. Họ lo ngại giá sẽ giảm.
Đối với thép cuộn SAE, một đơn hàng được bán từ một nhà máy Việt Nam tầm 5.000 tấn với giá 580 USD/tấn CFR Malaysia (phí vận chuyển 10 USD/tấn) giao tháng 12. Hai nhà máy Ấn Độ mỗi nhà bán được 5.000 tấn với giá 560-565 USD/tấn CFR Việt Nam.
Một nhà máy lớn ở đông bắc Trung Quốc chào bán thép cuộn SAE1006 tại mức 570 USD/tấn CFR Việt Nam, giảm 10 USD/tấn so với giá chào trước.
Giá giảm trên sàn giao kỳ hạn thúc đẩy người bán chốt hàng nhanh nên giá chào bán thép cuộn SAE mới giảm mạnh hôm thứ sáu dù phần lớn là chào giá từ Ấn Độ.
Chênh lệch giá thép cuộn HRC SS400 3.0mm với HRC SAE 1006 2.0mm là 5 USD/tấn.