Đài Loan giảm giá thép ống tháng 6
Được biết, các nhà sản xuất thép ống Đài Loan đã bắt đầu điều chỉnh giá tháng 6 xuống trung bình 1,800 Đài tệ/tấn từ thứ 6 tuần trước do giá giảm từ các nhà sản xuất thép cấp trên.
Thông tin cho biết, tập đoàn Thép Trung Quốc (CSC) và Chung Hung Steel thông báo sẽ giảm giá thép cán nóng xuống tương ứng 1,800 và 1,600 Đài tệ/tấn.
Các đại lý thép ống Đài Loan dự báo rằng mức giảm giá quá lớn có thể tạo lực đẩy nhu cầu mua vào.
Tokyo Steel tiếp tục giảm giá thép phế
Được biết, tập đoàn thép Tokyo Steel của Nhật đã thông báo giảm giá phế xuống 500 yên/tấn tại 5 nhà máy hôm 28/5.
Sau khi điều chỉnh, giá thép phế H2 mới nhất được bán trung bình ở mức 34,500 ~ 37,000 Yên/tấn.
Trong số đó, giá mua thép phế H2 tại nhà máy Okayama ở mức 36,000 yên/tấn; giá tại nhà máy Kyushu ở mức 36,500 yên/tấn; tại Takamatsu là 34,000 yên/tấn; tại Tahara là 36,500 – 37,000 yên/tấn và Utsunomiya là 35,000 yên/tấn.
Ngoài ra, giá liên tục giảm tại Nhật Bản cũng đã khiến giá mua phế Hàn Quốc tuần trước giảm xuống 34,500 yên/tấn FOB.
CISA dự báo năm 2011 sản lượng thép thô đạt 680 triệu tấn
Ông Li Xinchuang, phó bộ trưởng hiệp hội sắt thép Trung Quốc cho biết sản lượng thép thô của nước này trong năm 2011 có thể lên tới con số 680 triệu tấn.
Dù giá quặng nhập khẩu vài ngày qua suy yếu, nhưng do nhu cầu từ nhà sản xuất thép đang hướng lên, dự báo giá quặng khả năng duy trì mức cao và khó tạo ra bước ngoặc mới.
Theo số liệu mới nhất từ hiệp hội, sản lượng thép thô trong những ngày giữa tháng 05 của Trung Quốc chạm mức cao kỷ lục mới, với sản lượng thép thô bình quân hằng ngày đạt 1,98 triệu tấn.
Phó bộ trưởng dự báo trong hai năm tới đây nhu cầu thép nội địa sẽ tiếp tục đi lên.
Hôm 30/05, quặng 63.5% được nhập vào Trung Quốc với giá 178 USD/tấn, giảm nhẹ 5 USD/tấn so với tuần trước, còn quặng 58% chốt mức 146 USD/tấn, giảm nhẹ 6 USD/tấn so với hôm thứ 02 tuần rồi.
Các nhà phân tích quả quyết sự sụt giảm thị trường nhập khẩu quặng là do lượng dự trữ quặng tại các cảng vẫn còn ở mức cao. Theo điều tra từ Mysteel hôm 27/05, tồn quặng đạt 92,45 triệu tấn, tương đương mức đầu tháng 02.
Giá kẽm tại sàn LME hồi phục nhờ lực mua từ các nhà đầu tư
Gần đây giá kẽm tại sàn giao dịch kim loại London (LME) hồi phục nhẹ sau khi rớt xuống mức gần 2.000 USD/tấn vài tuần trước.
Vào cuối tuần trước, giá giao theo hợp đồng 03 tháng được niêm yết 2.234-2.234,50 USD/tấn, tăng nhẹ so với mức 2.100 USD/tấn đầu tháng.
“khi giá rớt xuống, hầu như mọi người tin chắc đây là cơ hội để mua hàng tích trữ, vì vậy giá hồi phục được giải thích là do cầu khả quan hơn,” một nhà kinh doanh nói. Ông cũng cho biết thêm,lực mua này chủ yếu là từ giới đầu tư.
“hiện tồn kẽm trên thị trường tương đối nhiều, một vài nhà sản xuất trong nước đang tạm ngừng bán kẽm cho các xưởng đúc nhằm kéo hàng tồn trở về mức cân bằng. Mức giá cao hơn cũng làm giảm sản lượng vì các nhà sản xuất nội địa đang cố giảm thiểu tối đa chi phí sản xuất,” một nhà phân tích cho hay.
Các nhà phân tích dự báo giá kẽm tại sàn LME sẽ dao động quanh mức 2.000-2.500 USD/tấn trong quý III.
Tokyo Steel một lần nữa hạ giá thu mua phế
Lượng dự trữ dồi dào khiến nhà sản xuất Tokyo Steel Manufacturing một lần nữa hạ giá thu mua phế khoảng 500 Yen/tấn (6 USD/tấn) đối với tất cả các mặt hàng ở tất cả các xưởng có hiệu lực từ ngày 28/05.
Sau thông báo của Tokyo Steel hôm thứ 06, một lô phế khoảng 30.000 tấn được nhập vào xưởng Okayama ở phía tây Nhật bản và một lượng phế lớn khác cũng được chuyển tới các xưởng khác, theo một nhà kinh doanh phế ở Tokyo.
Các nhà sản xuất xứ Hàn đã bắt đầu chào bán phế sang Nhật, nhưng giá giao dịch vẫn không cao, cụ thể là giá phế H2 chỉ ở ngưỡng 34.500 Yen/tấn (426 USD/tấn) fob. Do đó, không có đơn hàng nào được ký kết.
Tokyo Steel đang nỗ lực giảm thiểu tối đa chi phí sản xuất, nhưng vẫn thận trọng với giá thu mua. Hôm 21/05 vừa qua, nhà sản xuất này đã hạ giá thu mua phế với biên độ vừa phải 500 Yen/tấn ở tất cả các xưởng ngoại trừ Kyushu.
Giá phế H2 tại xưởng Utsunomiya ở khu vực miền bắc Kanto hiện là 35.000 Yen/tấn, sát với giá từ nước ngoài. Kanto được biết như là thị trường xuất khẩu phế lớn trong nước, các nhà kinh doanh hiện muốn bán phế cho khách hàng nước ngoài hơn là cung cấp cho Utsunomiya, điều này có thể buộc Tokyo Steel và các nhà sản xuất khác phải nâng giá thu mua.
Giá thu mua Phế H2 của nhà sản xuất Tokyo Steel tại Okayama chạm ngưỡng 36.000 Yen/tấn (444 USD/tấn) còn tại Kyushu và Tahara nếu được chuyên chở bằng đường biển cao hơn đôi chút 36.500 Yen/tấn. Với cùng loại phế trên tại Takamatsu và Tahara được vận chuyển bằng xe tải hiện có giá lần lượt 34.000 Yen/tấn và 37.000 Yen/tấn.
Giá nhập khẩu phế vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng nhờ lực mua mạnh
Theo nguồn tin từ thị trường cho hay, giá phế nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng lên trong 08 lô hàng được đặt mua vào tuần trước.
Trong đó, một lô hàng từ Mỹ gồm hỗn hợp 42.000 tấn phế HMS 1&2 80:20, phế vụn và phế bonus có giá lần lượt là 473 USD/tấn, 478 USD/tấn và 483 USD/tấn cfr. Một lô phế HMS 1&2 80:20 từ EU được bán sang Thổ Nhĩ Kỳ với giá 464 USD/tấn cfr. Các mức giá trên cao hơn 10 USD/tấn so với các đặt mua trước đó.
Giá chào bán tăng lên kể từ sau lần đặt mua mới nhất. Các nhà cung cấp EU hiện đang bán HMS 1&2 70:30 với giá 455 USD/tấn, còn HMS 1&2 80:20 có giá chào là 468-470 USD/tấn. Các mức chào này cao hơn 15 USD/tấn so với tuần trước.
Mỹ cũng nâng giá chào bán thêm khoảng 10 USD/tấn lên 475 USD/tấn đối với HMS 1&2 80:20, 480 USD/tấn đối với phế vụn và bonus là 485 USD/tấn cfr.
Giá chào từ CIS cũng tăng theo xu hướng bán của các nhà cung cấp khác. Hiện phế A3 được giao dịch với giá 465 USD/tấn, cao hơn 10 USD/tấn so với tuần trước.
Các nhà sản xuất nâng giá thép cây lần thứ 03 trong tuần
Giá thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Sáu tuần trước tiếp tục được điều chỉnh tăng lên 1.440 TL/tấn (897 USD/tấn), đã bao gồm thuế VAT 18%, từ mức giá trước đó là 1.390-1.410 TL/tấn (856-878 USD/tấn). Đây là lần điều chỉnh thứ 03 trong tuần.
Các nguồn thị trường cho biết nhu cầu nội địa cũng như giá nguyên liệu thô tăng lên và đồng USD mạnh hơn so với LIRA Thổ Nhĩ Kỳ là những lý do chủ yếu khiến thép cây ngày một đội giá.
Kardemir-nhà sản xuất thép dài Thổ Nhĩ Kỳ cũng điều chỉnh thép cây lên giá mới là 1.217 TL /tấn (758 USD/tấn), tương đương với 1.436 TL/tấn, bao gồm 18% VAT, cao hơn 83 TL/tấn so với giá tuần trước. Cũng trong ngày thứ Sáu tuần trước, công ty này đã chốt lời sau khi bán được 20.000 tấn.
Nhu cầu thép cây tại thị trường nội địa được dự báo tiếp tục tăng mạnh cho đến cuối tháng 06 đồng thời giá cũng sẽ tiếp tục leo thang cho tới lúc đó.
Khả năng giá thép tấm Thổ Nhĩ Kỳ giảm trong tháng tới
Giá thép cuộn cán dẹt được cho là sẽ trở yếu trong tháng tới do nhu cầu không hỗ trợ cho mức giá hiện tại. Hầu hết các nhà tham gia thị trường đều cho rằng nhu cầu không hỗ trợ cho giá và khách hàng sẽ không đặt mua với số lượng lớn vì tồn thép của họ vẫn còn cao.
HRC hiện được các nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ bán với giá 780-810 USD/tấn, còn CRC là 920-950. Tuy nhiên, giới trong ngành cho rằng CRC rất khó được chấp nhận với giá 940-950 USD/tấn, thậm chí một số nhà sản xuất sẳn sàng điều chỉnh giá cơ bản xuống 910 USD/tấn nếu khách hàng mua với số lượng lớn.
Một nhà sản xuất CRC nói triển vọng thị trường rất khó đoán vì giá dao động lên xuống từng ngày. Nhu cầu CRC tại Thổ Nhĩ Kỳ tốt hơn so với HDG nhưng giá giảm là không thể tránh khỏi trong 1 tháng hoặc tháng rưỡi tới vì không có tính hiệu nào cho thấy tiêu thụ tại thị trường nội địa sẽ bật tăng trở lại.
Hiện tại, Ukraina và Nga chào bán CRC sang Thổ Nhĩ Kỳ với giá 820-870 USD/tấn cfr.
Giá thép hình Nhật Bản bắt đầu đi xuống
Giá phế liệu dịu lại đã lèo lái giá thép góc và thép hình chữ U tại Nhật suy yếu theo, với mức giảm 1.000-2.000 Yên/tấn (12-25 USD/tấn) kể từ giữa tháng 05, một nhà phân phối ở Osaka cho hay. Hơn nữa, một số nhà sản xuất điều chỉnh giá chào bán xuống càng làm cho giá tại thị trường giảm hơn nữa, nhà sản xuất thép hình lớn nhất Nhật Bản- Osaka Steel và JFE Bars & Shapes phàn nàn.
Hai nhà sản xuất này quyết định giữ giá ổn định nhằm kiểm soát đà tăng giá phế. Các nhà phân phối cũng đang nổ lực duy trì giá không đổi. Tuy nhiên khách hàng đang phản đối vì cho rằng Tokyo Steel đã giảm giá 5.000 Yên/tấn đối với hầu hết các sản phẩm tháng 06 nên giá thép chữ U 100x50mm của công ty này cũng giảm xuống còn 73.000 Yên/tấn mà thôi.
Sumikin Steel & Shapes không bàn luận về chính sách giá của các đồng nghiệp nhưng công ty này cũng quyết định giảm giá thép hình 5.000 Yên/tấn. Hiện tại, giá thép hình chữ U (100x50mm) và thép góc (50mm) tại Tokyo có giá 85.000-86.000 Yên/tấn, giảm 1.000 Yên/tấn so với giữa tháng 05, giá tại Osaka thấp hơn chút xíu, ở khoảng 81.000-82.000 Yên/tấn.
Theo dữ liệu gần đây từ Liên đoàn ngành thép Nhật Bản cho thấy tồn thép hình vào cuối tháng 03 đạt 87.250 tấn, giảm 3,3% so với cuối tháng 02. Tuy nhiên lượng dự trữ kể từ tháng 04 đã tăng lên vì nhu cầu suy yếu do khách hàng đã mua một lượng lớn vào đầu năm, hơn nữa các giao dịch chậm hơn kể từ khi xảy ra thảm họa động đất hôm 11/03.
“Do nhu cầu yếu nên các công ty giữ giá tháng 06 ổn định có thể sẽ phải điều chỉnh giảm đối với các hợp đồng tháng 07 nhằm đảm bảo số lượng đặt hàng. Bởi vậy, giá thép hình hiện vẫn duy trì yếu,” một nhà phân phối nói.
TSI: giá tham chiếu nhập khẩu Thỗ Nhĩ Kỳ hồi phục nhẹ
Giá phế nhập khẩu tham chiếu mới nhất hằng tuần của Thỗ Nhĩ Kỳ công bố bởi The Steel Index (TSI) hôm thứ 06 đã tăng 3,3% so với tuần trước do các nhà sản xuất trong nước đã quay trở lại thị trường và đặt mua với số lượng lớn. Giá tham chiếu phế nhập khẩu tại thị trường Mỹ và Ấn Độ duy trì ổn định.
Giá tham chiếu phế tại thành phố Iskenderun, Thỗ Nhĩ Kỳ tuần qua được chốt mức 468 USD/tấn cfr, tăng 15 USD/tấn, sau khi tăng 16 USD/tấn trong tháng trước. Do giá các mặt hàng thép dài trong nước cũng như xuất khẩu tăng mạnh khuyến khích nhu cầu thu mua phế của các nhà sản xuất. Giá nhập khẩu phế của Thỗ NHĩ Kỳ đối với loại HMS 1&2 có tỷ lệ 80/20 được tính giá tùy thuộc vào từng loại.
Tại Mỹ, giá tham chiếu phế vụn đã tăng 1 USD/tấn sau khi giảm 17 USD/tấn trong 04 tuần qua. Giá phế nội địa vẫn giữ ổn định, mặc dù nhu cầu từ thị trường xuất khẩu tiếp tục đi lên.
Giá tham chiếu nhập khẩu phế vụn vận chuyển bằng container tại Ấn Độ vẫn không đổi so với tuần trước sau khi tăng 4 USD/tấn vào tháng trước.
Giá cuộn trơn Ấn Độ vẫn duy trì ổn định
Giá cuộn trơn Ấn Độ vẫn ổn định nhưng nhu cầu duy trì ở mức thấp.
“Sự bất ổn trên thị trường khiến giá cũng dao động lên xuống, đặc biệt là trong tháng 03 và tháng 04, khách hàng mua với lượng rất ít vì muốn chờ xu hướng rỏ ràng hơn,” một nhà sản xuất cuộn trơn ở Mumbai nói.
Như vậy, hầu hết các nhà sản xuất đang nỗ lực duy trì giá ổn định nhằm khuyến khích lực mua tăng trở lại. Các nhà sản xuất trên toàn quốc hiện đang bán thép cuộn mềm 6mm với giá 34.500-36.000 Rs/tấn (763-796 USD/tấn) xuất xưởng, chưa bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt và VAT.
Tuy nhiên, thép cuộn trơn có chứa hàm lượng carbon cao được dùng chủ yếu trong các ứng dụng cao cấp như sản xuất ô tô, máy móc công nghiệp có nhu cầu tốt hơn so với thép cuộn trơn chứa hàm lượng carbon thấp, sản phẩm được dùng trong ngành xây dựng.
Các nhà sản xuất đang chào bán thép cuộn trơn chứa hàm lượng carbon cao với giá 36.000-37.500 Rs/tấn xuất xưởng, chưa bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt và VAT.
Tuy nhiên, sau khi điều chỉnh giá tăng 700 Rs/tấn hôm 01/04, nhà sản xuất trực thuộc nhà nước Rashtriya Ispat Nigam Limited vẫn bán cuộn trơn 7mm với giá 41.850 Rs/tấn, cuộn trơn 8mm với giá 43.200 Rs/tấn, bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt 10,3% nhưng chưa tính VAT.
Nhà sản xuất này dự đoán nếu nhu cầu tăng không đáng kể thì trong vài tuần tới giá vẫn ở mức này.
Sản lượng thép thô Trung Quốc tiếp tục đi lên
Theo ước tính từ hiệp hội sắt thép Trung Quốc, sản lượng thép thô trong 10 ngày thứ hai của tháng năm tiếp tục tăng. Điều này chứng tỏ các nhà sản xuất thép hiện vẫn chưa bị tác động bởi tình trạng thiếu hụt nguồn điện.
Số liệu cho thấy sản lượng thép thô bình quân hằng ngày của Trung Quốc trong 10 ngày thứ hai của tháng 05 đạt 1,98 triệu tấn, tăng gần 2% so với con số 1,95 % của 10 ngày đầu tháng 05.
Con số trên không gây ngạc nhiên cho các nhà tham gia thị trường. “tháng 04 và 05 được coi như là mùa tiêu thụ đỉnh cao của thị trường thép. Hầu hết giới sản xuất đều nhận biết được điều này và hiện đang nỗ lực hoạt động với công suất tối đa nhằm củng cố lợi nhuận,” một nhà kinh doanh Hàng Châu nói. Ông ta cũng dự báo mức sản lượng cao này sẽ tiếp tục kéo dài cho tới giữa tháng 06.
Hôm thứ 06, thép cây giao kỳ hạn tháng 10 tại sàn giao dịch the Shanghai Futures Exchange đóng cửa 4.837 NDT/tấn (745 USD/tấn), tăng 0,19%. Qua đó, cho thấy mối quan ngại tình trạng dư thừa nguồn cung sẽ tạo áp lực lên giá thép nội địa.
Các chuyên gia phân tích ở Thượng Hải cho hay, giới sản xuất vẫn chưa bị tác động bởi tình trạng thiếu hụt nguồn điện trong khi dư luận tin chắc việc cắt giảm sản lượng sắp tới chỉ là do nhu cầu đầu cơ. Đa số các nhà sản xuất thép lớn trong nước đều có nhà máy phát điện riêng và hoạt động sản xuất thép vẫn được duy trì mà không phụ thuộc vào điện lưới quốc gia. Trái lại, các nhà sản xuất nhỏ chủ yếu dựa vào nguồn điện chính phủ cho nên trong thời gian tới sẽ cắt giảm sản lượng do thiếu điện.
Giá thép cây Pakistan tăng do chi phí nguyên liệu thô đắt đỏ
Giá thép cây tại thị trường Pakistan đã tăng thêm 2.500 PKR /tấn (29 USD/tấn) so với giá tháng 04 do chi phí nguyên liệu thô cũng như giá nhập khẩu phôi thanh đang tăng lên.
Hiện tại, thép cây tại Pakista được bán với giá 72.500-73.500 PKR/tấn (845-857 USD/tấn). Còn đối với thép cây chất lượng thấp hơn thì có giá 66.000 PKR/tấn (770 USD/tấn). Nghe nói giá cuộn trơn SAE 1006 chứa hàm lượng carbon thấp hiện là 86.000 PKR /tấn (1.002 USD/tấn), còn giá cuộn trơn được sản xuất từ thép tấm thì ở khoảng 75.000 PKR /tấn (874 USD/tấn).
Các nguồn thị trường cho biết, nguồn điện sản xuất vẫn trong tình trạng thiếu hụt, qua đó đẩy chi phí đầu vào của các nhà sản xuất tăng lên cao hơn. Các nhà cán lại phàn nàn giá phôi thanh tăng mạnh cũng ảnh hưởng đáng kể đến giá thép cây. Nhà sản xuất hợp nhất lớn nhất nước này là Pakistan Steel hiện vẫn không sản xuất phôi thanh.
Thị trường phế Trung Quốc duy trì ổn định
Thị trường thép thành phẩm Trung Quốc trầm lắng trong suốt thời gian qua khiến giá phế ferrous tuần trước ổn định, bất chấp nguồn cung phế từ các nhà sản xuất eo hẹp và buộc họ nâng giá thu mua.
Điển hình, tại tỉnh Giang Tô miền đông, Trung Quốc, nhà sản xuất Huaigang Special Steel trực thuộc tập đoàn Shagang hôm 27/05 vừa qua đã nâng giá thu mua phế khỏang 30 NDT/tấn (5 USD/tấn). Do đó, HMS>6mm của nhà sản xuất này có giá 3.730 NDT/tấn (575 USD/tân, gồm 17% VAT.
“nhiều nhà thu mua phế cá nhân chủ chốt là nông dân, tuần qua họ khá bận rộn với vụ mùa thu hoạch, điều này làm giảm khối lượng giao dịch và buộc chúng tôi phải điều chỉnh nâng giá thu mua,” một thương nhân ở phía đông Trung Quốc nói.
Động thái nâng giá thu mua phế của Huaigang nhằm kích thích tăng nguồn cung do hiện tại lượng phế dự trữ chỉ đủ dùng cho 02 tuần sản xuất.
Tương tự, nhà sản xuất Shougang Qian’an Iron & Steel (Shouqian), nhà tiêu thụ phế lớn ở tỉnh Hà Bắc Trung Quốc, hôm 25/05 đã nâng giá thu mua phế HMS>6mm lên 3.840 NDT/tấn (592 USD/tấn) từ mức 3.800 NDT/tấn (585 USD/tấn), gồm VAT, nhằm xoa dịu nguồn cung phế chất lượng cao thắt chặt.
Nhìn chung, giá phế trên thị trường không mấy thay đổi và được dự báo không biến động thêm nữa do vụ mùa thu hoạch của nông dân sắp kết thúc. Hiện phế HMS (>6mm) tại thị trường phía đông chào bán phổ biến 3.750-3.800 NDT/tấn (578-585 USD/tấn), gồm VAT còn ở phía bắc lại cao hơn đôi chút 3.800-3.850 NDT/tấn (585-593 USD/tấn). Hai mức giá trên tương tự như giá giao dịch của một tuần trước.
Thị trường nhập khẩu phôi Đông Nam Á tiếp tục trầm lắng
Theo nguồn tin từ các thị trường cho biết, giá chào phôi thanh Hàn Quốc sang Đông Nam Á đang đứng ở mức 670-675 USD/tấn cfr. Một thương nhân Philippine cho biết 10.000 tấn phôi thanh được đặt mua tuần trước với giá 670 USD/tấn cfr.
Giới thương nhân Hàn Quốc nói giá xuất khẩu từ các nhà sản xuất đã giảm xuống kể từ 02 tuần trước xuống còn 635 USD/tấn fob vì thị trường nội địa suy yếu. “Thị trường ngày càng trầm lắng, nhu cầu tại khu vực này không nhiều,” một thương nhân Hàn Quốc. Tại Philippine, phôi thanh Hàn Quốc đang có tính cạnh tranh hơn so với phôi Nga vì được hưởng lợi từ thuế nhập khẩu 3%, tương đương với sự chênh lệch khoảng 20 USD/tấn.
Tại Indonesia, giá phôi nội địa rẻ hơn so với nhập khẩu, một nhà cán lại nước này cho hay. Phôi thanh Hàn Quốc đang được chào bán với giá 675 USD/tấn cfr nhưng các nhà cán lại Indonesia muốn đặt mua với giá khoảng 660 USD/tấn mà thôi. Phôi Ukrainia đang được chào bán sang Indonesia với giá 680 USD/tấn.
Hiện tại, thị trường nhập khẩu phôi khá ảm đạm, một thương nhân Việt Nam nói. “Dường như Thái Lan đã tạm ngưng thu mua. Việt Nam cũng giảm tối thiểu lượng mua,” người này nói thêm. Kể từ khi phôi nội địa có giá tương đương với nhập khẩu, ở khoảng 650 USD/tấn, thì phôi nhập khẩu giảm hẳn sức cạnh tranh. Phôi Nhật hiện có giá chào sang Việt Nam ở khoảng 660-665 USD/tấn cfr.
Các nhà sản xuất Đài Loan đang nhắm đến giá phôi nhập khẩu ở mức 650-660 USD/tấn fob nhưng gần đây không có ai đặt mua. Họ đã bán hết sản xuất tháng 06 khi các đơn được đặt mua nữa đầu tháng 05 với giá 645-660 USD/tấn fob Đông Nam Á và Trung Đông.
Nhập khẩu thép tấm vào Đài Loan tăng, Hàn Quốc giảm
Nhìn chung, giá thép tấm cán nóng Đông Á tốt hơn so với giá thép cuộn cán nóng. Nghe nói rằng 8.000 tấn thép tấm dày trên 40mm xuất qua Đài Loan vào tháng 08/09 được đặt mua từ Ukrainia vào tuần trước với giá 770-780 USD/tấn cfr.
“Các nhà cung cấp Ukrainia không điều chỉnh giảm giá chào bán,” một thương nhân Singapore nói. Ông cho rằng mức giá này đang được chào bán ở hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Đài Loan là nước nhập khẩu ròng thép tấm, với lượng nhập hàng năm đạt khoảng 300.000-400.000 tấn. Các nhà dự trữ Đài Loan hiện đang gom hàng tái tích trữ vì giá giao ngay tương đối thấp. “Tôi cho rằng hoạt động tái tích trữ không còn kéo dài nữa vì ngay khi hàng nhập khẩu tràn sang thì giá sẽ chịu áp lực giảm xuống,” một thương nhân nhận định.
Các cuộc đàm phán thép tấm SS400 có chứa boron từ Trung Quốc xuất sang Đài Loan hiện đang ở khoảng 740-750 USD/tấn cfr. Trong khi đó, các giá chào bán loại thép trên sang Hàn Quốc hiện có giá 735-745 USD/tấn cfr, còn thép tấm không chứ boron thì giá là 780-800 USD/tấn cfr. Giới thị trường Hàn Quốc cho biết nhu cầu gần đây rất yếu do các lô hàng từ nước ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc sắp cập cảng tại nước này.
“Khả năng giá sẽ cao hơn tháng 05. Nhưng cho dù nó có thấp đi chăng nữa thì cũng không có ai đặt mua,” một thương nhân Hàn Quốc nói. Cước vận chuyển từ Trung Quốc sang Hàn thấp hơn 5-10 USD/tấn so với sang Đài Loan.
Thị trường nhập khẩu HRC tại khu vực này vẫn còn yếu. Một số các nhà sản xuất Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật gần đây bán HRC 2mm loại cán lại sang Việt Nam với giá 730-745 USD/tấn cfr.
Trung Quốc: thị trường ống không hàn tiếp tục đi xuống
Giá thép ống không hàn giao ngay tại thị trường nội địa Trung Quốc có dấu hiệu suy yếu trong suốt tháng 05 mà đỉnh điểm là ngày 23/05 do nhu cầu cũng như giá phôi tròn hướng xuống.
Các nhà tham gia thị trường có vẻ khá bi quan vào thị trường ống không hàn tháng 06 do bối cảnh còn ảm đảm, dù vậy hầu hết họ vẫn tin chắc sẽ không có đợt sụt giảm giá trên diện rộng trong ngắn hạn. Việc điều chỉnh giá phôi tròn của các nhà sản xuất phản ánh thị trường hiện tại khá trì trệ.
Giá ở một vài thị trường trầm lắng hơn chẳng hạn như thành phố Hàng Châu trực thuộc phía đông, Trung Quốc chỉ trượt nhẹ, chủ yếu do giá phôi và giá xuất xưởng ống không hàn của các nhà máy sụt giảm. Hôm 27/05, thép ống không hàn 219x6mm (GB/8163) từ tỉnh Giang Tô và Sơn Đông là 5.950 NDT/tấn (917 USD/tấn), gồm 17% VAT, rớt nhẹ so với tuần rồi. Hầu hết thương nhân vẫn sẽ giữ thái độ nghe ngóng nếu như thị trường thép ống còn đi xuống thêm nữa.
Hôm 21/05, đa số các nhà sản xuất phôi tròn lớn ở phía đông Trung Quốc, bao gồm Zhongtian Iron & Steel và Changqiang Iron & Steel đã thông báo hạ giá giao dịch cuối tháng 05 khoảng 70 NDT/tấn. Cụ thể là phôi tròn 20# từ các nhà sản xuất này khoảng 5.320-5.350 NDT/tấn, gồm VAT và được thanh toán bằng tiền mặt.
Do bị tác động bởi giá phôi tròn suy yếu, một vài nhà sản xuất thép ống nhỏ ở Sơn Đông cũng điều chỉnh giảm 50 NDT/tấn trong tuần trước. Nhưng lý do chủ yếu là khối lượng giao dịch thấp. Các nhà sản xuất này hy vọng với mức giá như trên sẽ kuyến khích nhiều đơn đặt mua hơn nữa.
Ấn Độ nhắm đến nâng giá HRC tháng 06
Các nhà sản xuất Ấn Độ và khách hàng HRC không đồng nhất trong nhận định về thị trường nội địa tháng tới. Một số nhà sản xuất kỳ vọng sẽ nâng giá cơ bản tháng 06 thêm 500-750 Rs/tấn (11-17 USD/tấn), nhưng số khác thì cho rằng nhu cầu không đủ mạnh để có thể đầy giá tăng lên.
JSW Steel đang nỗ lực nâng giá cơ bản tăng thêm 500-750 Rs/tấn. Một phát ngôn viên của công ty này cho hay, nhu cầu tại thị trường nội địa trong tháng 05 này khá tốt do tồn thép của khách hàng đã xuống thấp.
Nhưng hầu hết các nhà tham gia thị trường nghi ngại rằng thị trường có thể sẽ suy yếu hơn nếu như giá tăng lên. “Nguồn cung nội địa vẫn còn cao. Trên thực tế, một số các nhà sản xuất chào bán với mức chiết khẩu quá cao. Chúng tôi có thể bác bỏ khả năng giá có thể tăng lên,” một thương nhân ở bang Visakhapatnam nói.
Theo nguồn tin từ New Delhi, các nhà sản xuất đang chịu áp lực từ việc nâng giá vì chi phí đầu vào đắt đỏ nhưng giá sẽ không được điều chỉnh tăng với mức nhu cầu như hiện tại,”
Một số người tiêu dùng trực tiếp cho rằng các nhà cung cấp sẽ điều chỉnh giảm khoảng 500-700 Rs/tấn khi mùa mưa ập đến vào tháng tới. Một thương nhân ở New Delhi cho biết thường thì giá thép hay bị điều chỉnh khi mùa mưa đến, chính vì vậy mà các nhà sản xuất bắt đầu miễn cưỡng hạ giá xuống kể từ tháng 06.
Hầu hết các nguồn thị trường dự đoán các nhà sản xuất sẽ duy trì giá ổn định như tháng 05. Hiện tại, các nhà sản xuất đang chào bán HRC SS400 3mm tiêu chuẩn thương phẩm với giá trên 34.000-35.500 Rs/tấn (753-785 USD/tấn) xuất xưởng, không có gì thay đổi so với giá từ cuối tháng 03.
Giá thép cây khả năng tiếp tục suy yếu ở phía nam Trung Quốc
Giá thép cây giao ngay tại thị trường nội địa miền nam Trung Quốc rớt nhẹ tuần rồi. Trong đó,vào hôm thứ 06 thép cây HRB 335 dày 18-25mm nguồn từ nhà sản xuất Shaoguan Iron & Steel, tỉnh Quảng Châu có giá giao dịch trên thị trường 5.240 NDT/tấn (804 USD/tấn), gồm 17% VAT, giảm nhẹ 20 NDT/tấn.
Với cùng loại thép trên tại thị trường Thâm Quyến có giá chào bán dao động quanh 5,150-5,160 NDT/tấn, gồm VAT, không đổi so với tuần trước.
Nguồn tin từ nhà máy cho hay, thị trường thép cây tại khu vực miền nam Trung Quốc có dấu hiệu biến động nhẹ, và giá giao dịch tháng 06 tới có khả năng suy yếu hơn.
“chúng tôi tin chắc lực mua của giới tiêu thụ thép cây hiện đang thưa dần và tình trạng này sẽ tiếp tục kéo dài trong tháng 06 do mối quan ngại ảnh hưởng bởi vấn đề tài chính khó khăn của trung ương,”một nhà máy lớn ở khu vực cho hay.
Hiện dự trữ thép cây trên thị trường không nhiều, dù vậy cũng không có khả năng kéo giá nhích lên do lực mua của người dùng trực tiếp cũng như thương nhân trong nước suy yếu.
“tuy nhiên, những tác động của vấn nạn thiếu hụt nguồn điện vào thị trường thép ở khu vực miền nam Trung Quốc không đáng lo ngại,” dư luận cho biết.
Nhà sản xuất Shagang ở phía đông Trung Quốc gần đây đã điều chỉnh nâng giá thép cây giao cuối tháng 05 khoảng 30 NDT/tấn, nhưng thị trường vẫn không mấy khởi sắc. Thép cây tại sàn giao dịch the Shanghai Futures Exchange biến động cũng một phần nào đó gây nhiễu niềm tin thị trường.
Giá thép thanh thương phẩm tháng 05 giảm xuống còn 600 EUR/tấn
Giá thép thanh thương phẩm tại thị trường tây bắc Âu tiếp tục theo hướng giảm. Hiện giá tháng 05 ở khoảng 600 EUR/tấn.
Giá đã giảm xuống còn 600 EUR/tấn, một số nơi còn thấp hơn mức này. Chúng tôi thật sự rất ngạc nhiên.” Một khách hàng Thụy Sỹ nói. Ông cho rằng giá tại Đức có thể cao hơn mức này vì nên kinh tế tại đây đang phát triển mạnh, một giám đốc mua hàng tại Đức cũng cho biết giá thép thanh tại thị trường nước này ở khoảng 620 EUR/tấn. Bà cho biết xu hướng thị trường thật khó đoán, không biết giá rồi đây sẽ lên hay xuống nữa.
Một nhà phân phối người Hà Lan cũng cho biết giá bán tại nước này hiện là 590-600 EUR/tấn, nhu cầu không nhiều lắm. Người này nói các nhà sản xuất đang nỗ lực đẩy giá thép thanh tháng 06 tăng thêm 30 EUR/tấn đối với những kích thước khác nhau, nhưng không biết liệu nỗ lực này có đạt được hay không. “Hãy cứ hy vọng là vậy nhưng thị trường không ổn định, nhu cầu vẫn ở mức thấp,” ông tiếp lời.