Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 30/7/2018

Bản tin phế tuần: giá suy yếu tại các khu vực chính

Thị trường nhập khẩu phế Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu tuần qua do dự báo giá sẽ giảm sắp tới.

Các lô hàng tháng 8 và 9 suy yếu, cho thấy tiêu thụ từ các khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ giảm, những người đang tránh xa thị trường chờ giá ổn định. Đồng Lira vẫn yếu, làm hạn chế nhu cầu của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong khi các khách hàng EU vẫn là những người bán hàng cạnh tranh sẵn sàng giảm giá để kích cầu.

Mặt khác, các nhà cung cấp Mỹ do dự giảm giá từ đầu tuần, nhưng đã giảm giá vào thứ năm. Một giao dịch bờ Đông tới Marmara trong ngày thứ sáu chốt mức 337.75 USD/tấn CFR cho khối lượng 10.000 tấn HMS ½ (80:20) và 35.000 tấn phế vụn tại mức 347.75 USD/tấn giao tháng 8.

Tại Đông Á, phế HMS khối lượng lớn ổn định trong bối cảnh thịt rường im ắng.

Trong khi chào giá phế HMS Mỹ 1/ 2 vẫn mức 360 USD/tấn CFR Hàn Quốc, một nhà máy Đài Loan nghe đã mua phế vụn 211 Mỹ tại mức 363 USD/tấn CFR Đài Loan trong ngày 21/7, tầm 358 USD/tấn CFR cho phế HMS 1/ 2 80:20.

Trong khi đó, tại Việt Nam, giá chào phế khối lượng lớn Hồng Kông HMS 1/ 2 50:50 giảm nhẹ xuống 344-350 USD/tấn CFR Việt Nam hôm thứ tư, giảm từ mức 350 USD/tấn CFR tuần trước.

Giá tại Hồng Kông mấy tuần qua không cạnh tranh bằng Hàn và Nhật Bản, một nhà máy Việt Nam cho biết.

Nhu cầu tiêu thụ phế khối lượng lớn Việt Nam đang tăng dựa vào các kiểm soát hải quan khắt khen hơn, dẫn tới việc khai thuế bị trì hoãn trên cả nước cho phế nhập khẩu khối lượng nhỏ.

Tại Nhật, giá xuất khẩu phế tăng với các khách hàng Hàn Quốc bắt đầu chấp nhận giá cao hơn từ các nhà cung cấp, dựa vào cân bằng cung-cầu thắt chặt ở Nhật.

Nhà máy Dongkuk Steel đã chốt phế H2 Nhật tại mức 36.500 yên/tấn CFR, tầm 34.000 Yên/tấn FOB, khối lượng 4.000 tấn thông qua đàm phán riêng cuối tuần qua. Trong ngày thứ tư, phía nhà máy đã mua được thêm ít tại mức 37.500 Yên/tấn CFR.

Tại thị trường phế khối lượng nhỏ, giá tới Đài Loan giảm sau 4 tuần bình ổn liên tiếp, được hỗ trợ bởi tâm lý thị trường phế suy yếu và đồng dolla Mỹ tăng mạnh.

Giao dịch chốt trong ngày thứ sáu cho phế HMS 1/ 2 80:20 Mỹ khối lượng nhỏ ở mức 330 USD/tấn CFR Đài Loan, giảm so với thứ hai và thứ ba lúc giá 333 USD/tấn CFR.

Các nguồn tin lo lắng sức mua suy yếu cho phế khối lượng nhỏ từ Việt Nam dựa vào các kiểm soát hải quan khắt khe làm trì hoãn đơn hàng, gây áp lực cho giá sắp tới.

Bản tin quặng sắt: giá tăng nhờ các nhà máy thép tăng thu mua quặng

Giá quặng nhập khẩu tăng tuần qua nhờ các nhà máy thép tăng thu mua.

Giá quặng 62% Fe IODEX ở mức 64.80 USD/tấn CFR Trung Quốc, tăng 01.0 USD/tấn so với thứ năm và 1.30 USD/tấn so với thứ sáu tuần trước đó.

Có ít nhất 3 nhà máy ở Từ Châu được nghe đã trở lại sản xuất bình thường trong tháng 7. Một thương nhân cho hay có 70% công suất đã trở lại ở Từ Châu nên việc tái thu gom quặng tại khu vực là cần thiết.

Các đơn hàng quặng Pilbara Blend hoạt động hơn trong tuần với hàm lượng alumina của quặng này cải thiện nên người mua quan tâm hơn. Hàm lượng tầm 2.2% là thu hút các nhà máy thép.

Nhiều nguồn tin xác nhận trong các lô hàng nhập khẩu gần đây từ Úc, hàm lượng alumina thấp hơn 2.2%, Với các hạn chế về nung kết quặng, vài thương nhân có thể thấy cơ hội thương mại của quặng có hàm lượng alumina thấp cao hơn.

Sự gia tăng giá quặng nhập khẩu cũng góp vào lợi nhuận cao của các nhà máy thép. Lợi nhuận thép dẹt tầm 1.200 NDT/tấn.

Mặt khác, giá giao ngay phôi thanh Đường Sơn là 3.720 NDT/tấn xuất xưởng, tăng 20 NDT/tấn so với tuần trước đó.

Chênh lệch giá quặng cục giao ngay và quặng cám ở mức 0.3150 USD/tấn, ổn định ngày thứ ba liên tiếp nhưng tăng 0.0059 USD/tấn so với thứ sáu tuần trước đó.

Giá quặng cục tại Đường Sơn ở mức thấp hơn do nguồn cung tương đối quá cao.

Tuy nhiên, vài thương nhân lại tin tưởng về thị trường quặng cục, nhất là khi giá than đá luyện cốc giảm có thể khuyến khích các nhà máy sử dụng nhiều quặng cục hơn quặng viên.

Các kiểm soát môi trường thắt chặt nên sẽ hỗ trợ giá quặng cục trong ngắn hạn, với quặng Newman Blend được ưa chuộng nhất.

Bản tin than đá tuần: giá giảm tại Châu Á, nhu cầu tiêu thụ tăng trưởng

Giá than đá luyện cốc tại Châu Á giảm tuần qua với sức mua tăng trưởng ở cả thị trường nội địa và nhập khẩu Trung Quốc.

Giá than chất lượng cao giảm 1 USD/tấn xuống 174.50 USD/tấn FOB Úc hôm thứ sáu còn giá CFR Trung Quốc giảm 5.75 USD/tấn so với tuần trước đó xuống 179.50 USD/tấn CFR Trung Quốc.

Tại Trung Quốc, thị trường khá yếu từ đầu tuàn do lo ngại đồng NDT mất giá và các hạn chế tại cảng.

Các nguồn tin cho hay, từ đầu tuần rất khó để thanh lý hàng trong bối cảnh thị trường suy yếu.

Tuy nhiên, từ cuối tuần,có sự thu mua nhiều ở cả thị trường FOB và CFR từ nhiều nhà tiêu thụ cuối.

Các nguồn tin cho biết tiêu thụ có phục hồi, hỗ trợ thị trường và giá như vậy thu hút phần lớn người mua và các nhà tiêu thụ cuối.

Theo sau sự biến động trên thị trường Trung Quốc, các thị trường FOB đi chung hướng. Dù vài thành viên đã chào giá thấp hơn đầu tuần song vài giao dịch được chốt trong ngày thứ năm.

Giá than cốc nội địa Trung Quốc ổn định. Tuy nhiên, hai nguồn tin cho rằng giá sẽ ổn định và có thể tăng lại trong tháng 8-tháng 9.

Giá tấm mỏng Mỹ bình ổn cuối tuần qua

Giá tấm mỏng Mỹ tiếp tục ổn định trong ngày thứ sáu do hoạt động thị trường im ắng.

Một trung tâm dịch vụ cho hay giá HRC tầm 920 USD/tấn tuần này cho hầu hết giao dịch và 910 USD/tấn cho đơn hàng lớn. Tiếp tục có đàm phán giá 900 USD/tấn nhưng không phổ biến.

Thị trường khá ổn định. Chào giá sàn đã tăng trong khi giá trần ổn định.

Một trung tâm dịch vụ cho rằng, người mua đang chờ giá nội địa giảm trước sự tràn vào của hàng nhập khẩu. Song hàng nhập khẩu không thu hút khi mà giá trong nước giảm.

Giao dịch trên thị trường giao ngay vẫn hạn chế do giá hợp đồng vẫn tốt hơn. Tuy nhiên, trong khi người mua xa lánh chờ giá giảm thì các đơn hàng hợp đồng cho phép các nhà máy giữ thời gian giao hàng mạnh. Thêm vào đó, bảo trì sắp tới sẽ hỗ trợ thời gian sản xuất của các nhà máy.

Thời gian sản xuất HRC dường như khác nhau do vài nhà máy chuyển tới tháng 8 trong khi số khác tới tháng 9.

Thị trường thép cây nội địa Nga lạc quan cho tháng 8

Giá thép cây tại Maxcova tăng trong tháng 8 do các nhà máy cho biết giá chào bán đã tăng trong bối cảnh tiêu thụ khá mạnh.

Thông báo chào giá mới cho tháng 8 là 38.100 Rubs/tấn (608 USD/tấn) cho loại 14mm và 38.500 Rubs/tấn (614 USD/tấn) cho loại 12mm có VAT 18%. Giá xấp xỉ 32.300 Rubs/tấn (515 USD/tấn) và 32.630 Rubs/tấn (520 USD/tấn) không thuế.

Giá chào thấp hơn có sẵn. Một nguồn tin nhận được giá chào 37.500 Rubs/tấn (598 USD/tấn) cho loại 14mm và 38.000 Rubs/tấn (606 USD/tấn) cho loại 12mm CPT Maxcova có thuế.

Giá tăng nhờ nguồn cung thắt chặt do vài nhà máy đang có kế hoạch bảo trì nhà xưởng.

Nếu được chấp nhận bởi thị trường, giá có thể phục hồi tầm 500-1.000 Rubs/tấn (8-25 USD/tấn).

Một thương nhân dự báo giá tháng 8 đạt 31.150 Rubs/tấn (496 USD/tấn) cho loại trên 14mm và 32.000 Rubs/tấn (510 USD/tấn) cho loại 12mm chưa thuế.

Giá xuất khẩu phôi thanh Trung Quốc giảm

Giá phôi thanh xuất khẩu Trung Quốc giảm trong bối cảnh giá chào cạnh tranh từ Ấn Độ và Việt Nam dù giá nội địa gia tăng.

Trong khi tiêu thụ chậm kể từ tháng 6, chào giá cho phôi Việt Nam và Ấn Độ tầm 545 USD/tấn CFR Manila cho phôi Q275 120/130mm giao tháng 9, giảm 5-10 USD/tấn so với tuần trước.

Giá chào phôi thanh lò cảm ứng tầm 537 USD/tấn CFR, giảm 8 USD/tấn so với tuần trước đó.

Một thương nhân Manila báo cáo giao dịch mức 535 USD/tấn CFR cho phôi thanh Q275 Ấn Độ lò cảm ứng. Giá này do thị trường nội địa Ấn Độ suy yếu và đồng Rupee giảm.

Một thương nhân Thượng Hải cho biết giá giảm xuống dưới 540 USD/tấn CFR tuần này.

Trong khi đó, một thương nhân Tokyo cho hay giá vẫn ở mức 545 USD/tấn CFR Manila, không đổi cho phôi thanh lò cao.

Giá chào mua giảm xuống dưới 545 USD/tấn CFR Manila cho phôi thanh lò hồ quang điện và phôi lò cao, một thương nhân Manila cho biết, và ông nghĩ rằng giá sẽ ổn định.

Giá phôi thanh tại Đường Sơn ở mức 3.790 NDT/tấn (558 USD/taans0, tăng 70 NDT/tấn so với tuần trước đó. Với đồng NDT tiếp tục giảm giá, giá phôi thanh Đường Sơn tăng nhẹ 1 USD/tấn.

Giá chào xuất khẩu HRC Thổ Nhĩ Kỳ tới EU và các thị trường khác tăng

Giá xuất khẩu HRC của các nhà máy tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ tới EU tăng mạnh trong mấy ngày nay, với sự hỗ trợ của tâm lý thị trường lạc quan và tiêu thụ từ EU sau khi EC áp dụng các biện pháp tự vệ.

Giá xuất khẩu HRC tăng lên 616-625 USD/tấn xuất xưởng trong khi vài nguồn tin EU báo cáo giá chào từ các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ ở mức cao 560 Euro/tấn (652.40 USD/tấn) CFR cho HRC và 630 Euro/tấn CFR cho CRC. Theo một nguồn tin, giá chốt HRC tới EU từ một nhà máy lớn Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 610 USD/tấn FOB.

Vài nguồn tin thị trường tin rằng tâm lý mạnh tại EU dựa vào thuế tự vệ sẽ giúp hỗ trợ giá xuất khẩu HRC của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong khi vài nguồn tin cho rằng sự trì trệ trong hè sẽ kìm hãm tiêu thụ và đà tăng giá.

Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ tại Thổ Nhĩ Kỳ vẫn suy yếu trong bối cảnh vấn đề tiền mặt gia tăng dựa vào tỷ giá biến động. Tuy nhiên, giá chào HRC nội địa tăng cuối tuần lên mức cao 615-630 USD/tấn xuất xưởng tùy vào khu vực và khối lượng.

Dù công suất HDG mới dự báo sẽ hỗ trợ giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ, giúp hỗ trợ giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sự gia tăng cạnh tranh trên thị trường HDG Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục hỗ trợ giá thép mạ Thổ Nhĩ Kỳ.

Giá chào HDG của các nhà máy thép mạ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn tương đối ổn định trong ngày thứ sáu. Giá chào bán HDG DX51D phủ 70-100 g kẽm/m2 0.5mm ở mức 740-760 USD/tấn xuất xưởng trong và ngoài nước. Giá niêm yết HDG 2.0mm ở mức thấp 670-700 USD/tấn xuất xưởng.

Tuy nhiên, một nhà máy tăng giá niêm yết thêm 15 USD/tấn vào chiều thứ sáu. Chào giá HDG 0.50mmm của nhà máy này là 755 USD/tấn xuất xưởng còn loại 1mm là 715 USD/tấn xuất xưởng trong khi 2mm tầm 685 USD/tấn xuất xưởng dựa vào giá HRC tăng.

Trong khi đó, vài nhà máy, các nhà nhập khẩu và xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ đang thảo luận về thuế tự vệ EU và quyết định chiến lược ứng phó.

Giá thép cây nội địa Ý tăng 20-30 Euro/tấn

Giá thép cây nội địa Ý tăng ít nhất 20 Euro/tấn và nhiều nhất là 30 Euro/tấn trong tuần qua dựa vào tồn kho thấp tại các nhà máy trước lễ truyền thống tháng 8.

Giá giao dịch trung bình tăng lên 270-280 Euro/tấn (314.66-326.32 USD/tấn) xuất xưởng từ mức 2150 Euro/tấn trước đó. Trong vài trường hợp, giá ở mức 285-290 Euro/tấn xuất xưởng.

Theo một nguồn tin, vài nhà cán lại đã bán lượng đáng kể trong 2 tuần qua trước khi ngưng 3 tuần từ đầu tháng 8 như thường lệ. kết quả là tồn kho giảm và giá tăng.

Do thiếu nguyên liệu nên giá tương đối cao, một nhà máy cho hay. Các nhà nhập khẩu Ý đã bán nhiều và chỉ sản xuất sau 3 tuần nữa. Các nguồn tin cũng cho biết các nhà máy không còn chào bán xuất khẩu nữa.

Trong khi đó, giá phế vụn Nam Âu bình ổn ở mức 290-295 Euro/tấn giao tuần này.

Thị trường xuất khẩu HRC Trung Quốc bình ổn dù giá trong nước tăng

Giá xuất khẩu HRC Trung Quốc ổn định dù giá giao kỳ hạn tăng.

Không có giá chào xuất khẩu nào được nghe từ các nhà máy Trung Quốc và người mua cũng không vội. Trong khi giá chào vẫn mức 580-585 USD/tấn FOB thì giao dịch nghe chốt mức 575-580 USD/tấn FOB.

Theo một thương nhân Việt Nam, một nhà máy phía bắc đã bán tấm cắt SS400 tại mức 595 USD/tấn CFR Việt Nam tuần trước, và đồng ý giảm giá xuống 588 USD/tấn CFR Việt Nam cho người mua.

Chào giá cùng mức trong ngày thứ sáu. Đối với SAE1006, giá chào thép Trung Quốc ở mức 605-617 USD/tấn CFR Việt Nam trong khi giá nguyên liệu Ấn Độ ở mức 612 USD/tấn CFR Việt Nam. Giá chào mua cao nhất là 600 USD/tấn CFR Việt Nam.

Nhà máy Formosa Hà Tĩnh được nghe đã bán 90% trong khối lượng 324.000 tấn HRC dù vài khách hàng Việt Nam trì hoãn trước giá tương đối cao.

Các nhà cán lại Việt Nam đang bị áp lực trước tin chống bán phá giá thép mạ kẽm Trung Quốc và Việt Nam của Malaysia. Một thương nhân Việt Nam cho hay nhiều đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh trong tuần dù các nhà cán lại Việt Nam nỗ lực giảm giá.

Tại Thượng Hải, giá giao ngay HRC Q235 5.5mm tăng 35 NDT/tấn lên 4.290-4.300 NDT/tấn (623-631 USD/tấn xuất xưởng có thuế. Tại sàn kỳ hạn, hợp đồng HRC giao tháng 10 chốt tăng 105 NDT/tấn lên 4.199 NDT/tấn.

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc ổn định trong bối cảnh giá kỳ hạn chạm mưc cao 5 năm

Giá xuất khẩu thép cây Trung Quốc tiếp tục ổn định trong khi giá nội địa và giao kỳ hạn cùng tăng trưởng.

Tại Bắc Kinh, giá giao ngay thép cây HRB400 18-25mm tăng 15 NDT/tấn lên 4.185 NDT/tấn (616 USD/tấn) xuất xưởng thực tế, có thuế. Tại miền đông, giá tại Hàng Châu tăng 100 NDT/tấn trong bối cảnh tâm lý thị trường lạc quan trong tuần.

Vài chào giá được nghe trong ngày thứ sáu nhưng giá chào mua không tăng do tiêu thụ thấp. Thép cây Qatari ở mức 560 USD/tấn giao tháng 9 đã được bán hết trong tuần qua. Trong khi các thương nhân đã bắt đầu tìm kiếm chào giá tháng 10 thì họ vẫn chưa nhận được phản hồi nào, một nhà môi giới Hồng Kông cho biết.

Hai nhà môi giới Hồng Kông cho biết giá chào mua tầm 550-555 USD/tấn CFR, không đổi so với tuần trước đó, tầm 537-542 USD/tấn FOB Trung Quốc thực tế với phí vận chuyển 13 USD/tấn.

Tương tự, các khách hàng Singapore sẵn sàng mua thép cây Trung Quốc mức 555-560 USD/tấn CFR lý thuyết, không đổi. Người mua giữ giá chào mua ở mức 555-560 USD/tấn CFR, tương đương 552-557 USD/tấn FOB Trung Quốc thực tế với phí vận chuyển 20 USD/tấn và 3% chênh lệch khối lượng.

Tại Singapore, một nhà máy Trung Quốc sẵn sàng bán mức 560 USD/tấn CFR lý thuyết, không đổi nếu có đơn hàng lớn. Tuy nhiên, sức mua suy yếu.

Về giá giao kỳ hạn, một thương nhân phía đông dự báo giá giao kỳ hạn sẽ lên mức 4.200 NDT/tấn.Trong khi đó, chênh lệch giá giao ngay và kỳ hạn gần bằng nhau sau khi giá giao kỳ hạn tăng mạnh.

Hợp đồng thép cây giao tháng 10 trên sàn SHFE chốt tăng 109 NDT/tấn (2.7%) lên 4.126 NDT/tấn, mức cao 5 năm. Giá cao tương tự gần đây nhất là 4.175 NDT/tấn hồi ngày 20/2/2013.