Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 31/10/2013

Giá ferrochrome giao ngay của Trung Quốc theo hướng đi ngang

Hôm 30/10, giá giao ngay trong nước của ferrochrome hàm lượng carbon cao (50% Cr) tại Trung Quốc vẫn không đổi so với tuần trước đó và chốt tại 6.850-7.000 NDT/tấn (85-86,5 cents/pound) gồm VAT 17% do nhà máy Baosteel đã quyết định vẫn giữ giá đặt mua của mình trong tháng 11 và tháng 12 không đổi so với tháng 10.

Hôm 30/10, Baosteel đã đưa ra giá đặt mua tháng 11 và tháng 12 tầm 6.850 NDT/tấn, không đổi so với giá mua trong tháng 10.

Các nhà quan sát thị trường nhấn mạnh rằng Baosteel đã đưa ra giá mua trong hai tháng thay vì một tháng như mọi khi. “Điều này có nghĩa là giá ferrochrome của Baosteel sẽ ổn định từ đây cho đến cuối năm. Giá giao ngay có lẽ sẽ duy trì ở mức hiện nay cho đến tháng 12”, một nhà phân tích ở Bắc Kinh nói.

Một nhà sản xuất thép không gỉ khác, Tsingshan Holdings, hôm thứ tư cũng đã đưa ra giá giao dịch tháng 11 khoảng 6.847 NDT/tấn, không đổi so với tháng 10.

Cho đến chiều thứ tư, nhà máy Shanxi Taigang Stainless Steel đã không thông báo giá mua tháng 11, nhưng các nguồn tin cho rằng nhà máy này cũng sẽ giữ giá mua không đổi hoặc giảm xuống 50 NDT/tấn. Giá giao ngay sẽ vẫn duy trì ổn định ngay cả khi Taigang giảm giá mua của mình. Taigang có khả năng sẽ được lợi hơn về giá so với các nhà sản xuất thép không gỉ khác do nó nằm ở tỉnh Sơn Tây, gần nhiều nhà cung cấp ferrochrome.

Hồi cuối tháng 09, Taigang đã nâng giá mua tháng 10 thêm 50 NDT/tấn so với tháng 09 lên 6.750 NDT/tấn, trong khi Baosteel lại giảm 50 NDT/tấn so với tháng trước đó còn 6.850 NDT/tấn. Jiuquan Iron & Steel đưa ra giá tháng 10 tại 6.850 NDT/tấn, không đổi so với tháng 09.

Giá quặng sắt Trung Quốc ở trong nước giảm mạnh

Giá giao dịch của quặng sắt dùng để sản xuất thép loại L8 và L10 tại tỉnh Hà Bắc- Trung Quốc đã giảm 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) trong tháng qua, phản ánh thị trường thép trong nước đang suy yếu kể từ tháng 09.

Hôm 30/10, các giao dịch của quặng sắt loại này được chốt tại 2.500-2.550 NDT/tấn, giảm so với mức 2.550-2.600 NDT/tấn của ngày 30/9.

“Các nhà sản xuất quặng sắt sẽ vẫn có một khoản lợi nhuận để hoạt động mặc dù giá giảm là do giá quặng sắt nhập khẩu rẻ hơn”, một quan chức nhà máy tại Hà Bắc nói.

Ông này ước tính rằng chi phí sản xuất trung bình của quặng sắt hiện nay khoảng 2.400-2.500 NDT/tấn và tin rằng giá có thể sẽ giảm thêm nữa nếu như giá quặng sắt nhập khẩu tiếp tục lún sâu. Ông dự đoán giá quặng sắt sẽ giảm từ mức 130 USD/tấn CFR hiện nay xuống khoảng 120 USD/tấn CFR Trung Quốc trong tháng 11 và tháng 12.

Giá thép trong nước tại Trung Quốc đã giảm nhẹ trong hai tuần qua do nhu cầu suy yếu cũng như ít có cơ hội để xuất khẩu do giá trị đồng NDT của Trung Quốc cao hơn.

Trong tháng 09, sản lượng quặng sắt của Trung Quốc gồm cả loại dùng để sản xuất thép và dùng cho lò đúc, tăng 1,8% so với tháng 08 đạt 1,97 triệu tấn mỗi ngày, theo số liệu của Viện thống kê quốc gia. Sản lượng quặng sắt hàng tháng của tháng 09 chạm mốc 59 triệu tấn, còn trong 9 tháng đầu năm tổng sản lượng đạt 539,6 triệu tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2012.

 

Nhà máy Yusco của Đài Loan nâng giá thép không gỉ xuất khẩu lên 50 USD/tấn

Nhà máy Yieh United Steel Corp (Yusco) của Đài Loan hôm 30/10 đã ra thông báo nâng giá xuất khẩu thép cuộn và thép tấm cán nóng, cán nguội không gỉ giao tháng 12 thêm 30-50 USD/tấn sau khi giá nguyên liệu đã tăng gần đây.

Nhưng Yusco vẫn giữ giá thép cuộn austenit and ferrit trong nước không đổi. Theo đó, giá niêm yết của HRC 304 2mm và CRC 2B 2mm lần lượt là 89.500 NDT/tấn (3.041 USD/tấn) và 94.000 NDT/tấn, cho hàng giao tháng 11, theo bảng giá của Platts. Nhà máy này vẫn không tiết lộ giá xuất khẩu.

Giá nguyên liệu đã chạm đáy và sau đó bật tăng trở lại trong khi nhu cầu thị trường cũng đang dần cải thiện. Yusco lẽ ra đã nâng giá trong nước theo chi phí sản xuất cũng như nhu cầu phục hồi nhưng nhà máy đã duy trì giá của mình để giúp cho các khách hàng lâu năm giữ được thế cạnh tranh của họ trên thương trường.

Giá niken trên sàn LME đã bật tăng hơn 14.000 USD/tấn vào giữa tháng 10. Giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt của niken được chốt tại 14.515/20 USD/tấn hôm 29/10.

Trong khi giá niken đã tăng trở lại thì hầu hết các nguồn tin tại thị trường thép không gỉ Châu Á đều nói rằng họ không thấy giá giao dịch tăng đáng kể. Một số nhà máy Trung Quốc đã nâng chào giá xuất khẩu trong tuần trước nhưng các thương nhân nói rằng sức mua vẫn còn yếu.

 Giá HRC Ấn Độ được dự đoán là không đổi trong tháng 11

 

Giá HRC trong nước tại Ấn Độ được dự đoán là vẫn không đổi trong tháng 11 do lực mua tiếp tục suy yếu.

Trong tháng 09, các nhà sản xuất thép đã thông báo tăng thêm 500 Rupi/tấn (8,14 USD/tấn) tương đương 1,37% đối với HRC giao tháng 10 với kỳ vọng là nhu cầu tiêu thụ ở thị trường trong nước sẽ phục hồi sau mùa mưa. Tuy nhiên, hoàn toàn trái ngược với các dự đoán trước đó, thị trường vẫn tiếp tục ế ẩm sau mùa mưa.

Giá giao dịch trong nước của HRC A/B IS 2062 dày từ 3mm trở lên hiện nay khoảng 36.500-37.000 Rupi/tấn xuất xưởng. Mức giá này tương đương với giá nhập khẩu 553-560 USD/tấn CFR Mumbai gồm 7,5% thuế nhập khẩu. Trong khi đó, HRC SS400 dày từ 3mm trở lên xuất xứ Trung Quốc được chào bán với giá 515-520 USD/tấn FOB Trung Quốc. Nếu mức giá này được bán sang Ấn Độ thì sẽ tương đương ít nhất khoảng 550-555 USD/tấn CFR Mumbai.

“Thép nhập khẩu từ Trung Quốc đang được chào bán với giá quá thấp nên chúng tôi phải cân nhắc về việc giảm giá trong tháng tới. Tuy nhiên, chúng tôi muốn tiếp tục quan sát tâm lý thị trường trước khi đưa ra quyết định”, một thương nhân ở Mumbai nói.

 “Ấn Độ sẽ có cuộc bầu cử trong vài tháng tới nên nhiều người tham gia thị trường muốn rời khỏi thị trường và lui về vị trí quan sát cho đến khi có xu hướng rõ ràng hơn từ phía chính phủ mới”, một quan chức nhà máy ở Mumbai nói.

Ông nói rằng sức mua trong nước có thể sẽ tiếp suy yếu cho đến sau cuộc bầu cử và mùa lễ hội sắp tới tại Ấn Độ cũng không tác động nhiều đến nhu cầu tiêu thụ.

 Giá phế tăng tại miền Nam nước Nga và bình ổn ở các khu vực khác

Theo nguồn tin cho biết, thị trường phế Ferrite Nga phần lớn ổn định do các nhà máy đã hoàn thành việc thu mua trước mùa đông. Tuy nhiên, theo các thành viên thị trường dự báo, giá phế có thể tăng thêm 3 USD/tấn do ảnh hưởng từ xu hướng tăng của giá phế thế giới.

Các nhà xuất khẩu đã tăng giá mua phế  3A (HMS I/II 80:20)) tại cảng Saint-Petersburg lên mức 9.200 Rub/tấn trong khi tại miền Nam nước Nga cũng đã tăng thêm 550 Rub/tấn so với tháng trước, đạt mức 9.400 Rub/tấn (294 USD/tấn) chưa tính 12.5% thuế hải quan giao tại cảng Rostov-on-Don.

Các nhà máy tại khu vực phía Nam, Krasnodar, Rostov và Volgograd chưa có xác  nhận về việc tăng giá, tuy nhiên, họ dự báo sẽ tăng giá chào mua thêm 100-150 Rub/tấn trong tuần này hoặc vào tuần tới. Hiện tại, họ đang thu mua phế 3A tại mức giá 9.550-9.750 Rub/tấn giao bằng xe tải, tăng 200-250 Rub/tấn so với tháng trước.

Trong khi đó, nhà máy Byelorussian Steel Works (BMZ) vẫn giữ giá thu mua ở mức 8.600 Rub/tấn DAF Zlynka.

Giá thu mua phế tại Maxcova của các nhà tiêu thụ lớn như Severstal’s Cherepovets, NLMK’s Novolipetsk,  Kaluga steelworksvà  BMZ cũng được giữ cố định tại mức 8.000-8.300 Rub/tấn tại bãi,  tương đương mức 9.200-9.400 Rub/tấn đã gồm phí vận chuyền bằng tàu lửa.

Tại Urals, các nhà máy vẫn giữ gia sthu mua không đổi so với tháng trước, đạt mức 8.200-8.400 Rub/tấn chưa tính phí vận chuyển.

 Giá HRC nội địa Trung Quốc bật tăng

Giá HRC trong nước của Trung Quốc đã bật tăng trở lại sau ổn định vào chiều thứ ba, do phiên họp toàn thể BCH Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc khóa 18 tại Bắc Kinh được thông báo sẽ diễn ra từ ngày 9-12/11, cuộc họp này được dự đoán là sẽ đưa ra nhiều biện pháp kinh tế mới nhằm hỗ trợ cho nhu cầu của ngành thép.

Hôm 30/10, các thương nhân bắt đầu nâng giá trên thị trường giao ngay cùng với triển vọng giá thép tăng cao, kết thúc hơn hai tuần giá rớt liên tục ở thị trường trong nước. Theo đó, giá HRC Q235 5.5mm được giao dịch quanh 3.430-3.460 NDT/tấn (563-568 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 3.550-3.570 NDT/tấn tại Lecong (Quảng Đông), tăng tương ứng 15 NDT/tấn và 35 NDT/tấn so với ngày trước đó.

Một số người tham gia thị trường tin rằng giá tăng chủ yếu là do có sự điều chỉnh trên thị trường. Ngoài ra, sau khi các thương nhân giảm bớt hàng dự trữ trong tháng 09 và tháng 10, lượng hàng tồn trên thị trường nhìn chung là ở mức thấp, đánh dấu giai đoạn giá bật tăng trở lại.

HRC tồn kho tại 33 thành phố lớn của Trung Quốc đã giảm 40.000 tấn so với tuần trước đó còn 4,1 triệu tấn hôm 25/10 và giảm 122.000 tấn so với đầu tháng 10, theo một nhà phân tích ở Thượng Hải. Ông tin rằng những đơn hàng mua trả chậm trong tháng 09 và tháng 10 có thể được thực hiện trong tháng 11, sẽ hậu thuẫn cho giá giao ngay.

Tuy nhiên, một số thương nhân cẩn thận vẫn có tâm lý chờ đợi,  họ cho rằng hiện nay còn quá sớm để nói rằng giá đã nối lại đà tăng do sức mua vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể. Một thương nhân nói rằng thị trường đã đặt quá nhiều hy vọng vào cuộc họp của Đảng và điều này gây ra tình trạng một số người đang mua để đầu cơ.

 Giá tấm mỏng Mỹ có dấu hiệu tăng 

Giá tấm mỏng Mỹ đã bắt đầu xuất hiện xu hướng tăng, do cả người mua lẫn người bán có thể đang chuẩn bị tăng giá.

Nhiều người mua cho biết giá đang ổn định, trong khi một Trung Tâm dịch vụ cho biết đã  thành công trong việc nâng giá cùng với chi phí mua hàng  từ các nhà máy gia tăng.

“ Chúng tôi chưa thấy giá mua tăng hoàn toàn nhưng đang trong quá trình cải thiện, giá chào bán xuất xưởng  đối với HCR đã đạt mức 660-680 USD/tấn. Tôi nghĩ rằng các đơn hàng mới hoặc các đơn hàng khối lượng nhỏ sẽ được chốt ở mức trung bình 670 USD/tấn”, Trung Tâm này nhận định.

Một Trung Tâm dịch vụ  hàng đầu khác cho biết giá bán hiện tại ngang bằng với tuần trước, mặc dù có những lô hàng rất lớn, tới 15.000 tấn được bán tại giá 650 USD/tấn. Trung tâm này nhấn mạnh nhập khẩu vẫn đang là một mối lo, mặc dù có thể nó sẽ không ảnh hưởng tới thị trường nội địa cho tới Qúy 1/2014.

Platts vẫn giữ giá nhận định đối với CRC ở mức 755-765 USD/tấn trong khi tăng giá HRC lên mức 655-665 USD/tấn xuất xưởng Midwest.

 Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tăng giá thu mua phế nội địa

Theo nguồn tin cho biết, nhà máy thép dài tích hợp Thổ Nhĩ Kỳ, Kardemir đã tăng giá thu mua phế DKP thêm 25 TRY/tấn kể từ 30/10, đạt mức 700 TRY/tấn (386 USD/tấn) cùng với xu hướng tăng của giá phế nhập khẩu.

Trong khi đó, vào đầu tuần qua, nhà máy thép lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, Erdemir cũng đã tăng giá mua phế DKP thêm 25 TRY/tấn, đạt mức 775 TRY/tấn (389 USD/tấn).

Một nhà máy lớn khác, Colakoglu cũng tăng giá thu mua thêm 20 TRY/tấn kể từ ngày 24/10, đạt mức 740 TRY/tấn (371 USD/tấn) trong khi nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik tăng giá mua thêm 10 TRY/tấn, đạt mức 740 TRY/tấn.

Giá phế nhập khẩu Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng 10-15 USD/tấn vào tuần này. Gía thu mua phế của Ege Celik hiện đạt mức 380 USD/tấn. Phế tàu thải cũng đang được chào bán tới các nhà máy Tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, Ozkan, IDC) tại mức giá 375 USD/tấn.

Các nguồn tin nhận định, sự tăng lên của phế nội địa đã góp phần hỗ trự tăng giá phế nhập khẩu, cũng như các  nhà máy đang nỗ lực giảm thiểu nhập phế ngoài nước để tối thiểu hóa độ dao động của giá nguyên liệu thô.

 Giá HDG Trung Quốc ở trong nước giảm; chào giá xuất khẩu không đổi

Các đại lý thép cuộn mạ kẽm nhúng nóng (HDG) ở thị trường nội địa tại Trung Quốc vẫn tiếp tục tâm lý chán nản giữa lúc tình hình thị trường ảm đạm đã làm cho giá bị giảm đến mức thấp nhất kể từ tháng 06. Khối lượng hàng xuất khẩu cũng không đáng kể mặc dù các chào giá không đổi và một số nhà máy đang cố để có đủ đơn đặt hàng.

Hôm 30/10, HDG DX51D dày 1.0mm phủ 80 gram kẽm/mét vuông được giao dịch với giá 4.420-4.480 NDT/tấn (725-735 USD/tấn) xuất xưởng gồm VAT 17% tại Thượng Hải, mức giá trần giảm 10 NDT/tấn từ ngày 23/10.

Một đại lý lớn ở Thượng Hải cho biết công ty ông đã liên tục giảm giá HDG trong tuần này, tổng cộng đã giảm 30 NDT/tấn do đơn hàng thưa thớt. Tuy nhiên, sự giảm giá này cũng không giúp cho số lượng giao dịch được cải thiện. “Nền kinh tế suy yếu khiến hoạt động kinh doanh cũng bị ế ẩm theo trong năm nay, ngoài ra nhu cầu trì trệ và cũng không có bất kỳ sự cải thiện nào được trông đợi trong ngắn hạn. Tuy nhiên, giá sẽ khó mà giảm sâu thêm nữa do đã chạm đáy vào 4 tháng trước”, ông nói.

Một nhà phân tích ở Thượng Hải cho biết sản lượng cao cũng là một yếu tố khiến giá HDG liên tục giảm. Cụ thể, sản lượng HDG trong tháng 09 tăng 0,47% so với tháng 08 đạt 3,67 triệu tấn và cao hơn 21% so với cùng kỳ năm ngoái.

Các chào giá xuất khẩu HDG trong hai tuần qua vẫn không đổi mặc dù số lượng đơn đặt hàng thấp; hôm 30/10, HDG DX51D 1.0mm có giá khoảng 660-665 USD/tấn FOB Thượng Hải, mức giá này đã duy trì từ ngày 15/10 đến nay.

Một thương nhân ở miền đông nói rằng ông chỉ chắc chắn có được một hợp đồng HDG lô nhỏ trong tháng 10 và ông không muốn đảm bảo giao dịch với giá thấp hơn do không thể có được nguồn hàng cung cấp rẻ hơn nữa từ các nhà máy. Ông này nói một nhà máy ở miền bắc đã nhận đủ đơn hàng giao cho tới tháng 02/2014, sau khi nhận được các đơn đặt hàng từ một khách hàng làm ăn lâu dài, trong khi một nhà máy khác ở đông bắc cũng đã bán hết nguồn cung cho xuất khẩu.

 Thị trường xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ vẫn khó khăn dù cho giá các lô hàng giao nhanh tăng 

Các nhà xuất khẩu thép cây chịu lực Thổ Nhĩ Kỳ đang phải cố gắng thuyết phục các  khách hàng Trung Đông và Bắc Phi rằng mức giá tăng hiện tại là hợp lý, mặc dù giá nguyên liệu thô đã tăng mạnh hơn ở Đông Địa Trung Hải.

Các lô hàng xuất khẩu này được giao trong thời gian rất ngắn, với lô hàng 2.000-3.000 tấn giao vào đầu tháng 11 đạt mức giá 600 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ kỳ tới Li băng. Những lô hàng này cũng đạt mức 610 USD/tấn CFR Beirut.

Tuy nhiên, có nhiều lời chào cạnh tranh hơn cho Li băng với các lô hàng giao cuối thnags 11 tại mức giá 560 USD/tấn FOB Nikolayev t Ukraine hay cập bến tháng  1 với giá 525 USD/tấn CFR Beirut từ Trung Quốc.

Trong khi đó, các nhà máy Ả Rập Saudi vẫn đang đứng ngoài thị trường do các thông báo quan trọng về luật lao động vào cuối tuần. Gía chào cũng trở về mức 600 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ trọng lượng thực tế.

“Sau lễ Eid, nhu cầu tiêu thụ tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ mới thực sự được khôi phục. Trong khi đó, thị trường xuất khẩu vẫn chưa có biến động gì lớn cho tới giờ”, một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nhận định.

“Tôi được nghe có vài đơn chào mua từ Trung Đông tại mức giá 580 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, tuy nhiên, không có giao dịch nào được chốt tại giá trên mức này”, một thương nhân Istanbul cho biết. “ Rõ ràng là những giá chào này đã không được chấp nhận do các nhà máy đang chào bán tại mức giá 595-600 USD/tấn FOB).

Platts đã tăng giá nhận định đối với thép cây thêm 2.5 USD/tấn, đạt mức 587.50 USD/tấn FOB cảng Thổ Nhĩ Kỳ do giá chào từ các nhà máy tăng.

 Sức mua nhỏ giọt trên thị trường cuộn trơn xuất khẩu của Trung Quốc; giá không đổi

Chào giá cuộn trơn xuất khẩu của Trung Quốc gần như không đổi, với sức mua nhỏ giọt trong suốt tuần trước. Hôm 30/10, Platts định giá cuộn trơn SAE1008 đường kính 6.5mm xuất xứ Trung Quốc duy trì tại 505-510 USD/tấn FOB.

Các chào giá của thương nhân Trung Quốc vẫn dao động quanh 505-510 USD/tấn FOB, gần như không đổi kể từ tuần trước. Hầu hết các nhà máy Trung Quốc đều đang chào giá trên 505 USD/tấn FOB. Nhưng một nhà máy ở miền đông không thường xuyên xuất khẩu, nghe nói đã bán với giá 500 USD/tấn FOB cho các đại lý xuất khẩu trong nước và thậm chí là nhà máy này còn có chào giá thấp hơn.

Nhiều nguồn tin nói rằng thị trường ở miền đông bắc rất yếu ớt do thời tiết lạnh làm hạn chế nhu cầu tiêu thụ thép. Do đó, các nhà máy trong khu vực quay sang thị trường xuất khẩu với hy vọng sẽ bán được nhiều hàng hơn, nhằm bù đắp cho tình hình kinh doanh ế ẩm trong nước.

Một thương nhân ở miền đông cho biết ông đã bán cuộn trơn tới Việt Nam với giá cao hơn 520 USD/tấn CFR một chút (gồm phí vận chuyển trung bình khoảng 15 USD/tấn), nhưng cũng nghe nói các nhà sản xuất nhỏ xuất sang Việt Nam có chào giá thấp hơn chỉ khoảng 517 USD/tấn CFR.

Một thương nhân khác cũng nói rằng công ty ông đã ngưng gởi đi các chào giá trong tuần này sau khi không chấp nhận mức giá đặt mua của Việt Nam tại 520 USD/tấn CFR vào tuần trước, do chi phí mua hàng của họ từ nhà máy chỉ khoảng 510 USD/tấn FOB.

Tại thị trường trong nước, giá cuộn trơn Q195 đường kính 6.5mm được chốt với giá không đổi so với tuần trước tại 3.320-3.330 NDT/tấn (541-542 USD/tấn) gồm VAT 17%.

 Phế Thổ Nhĩ Kỳ và phôi thanh Biển Đen đã thu hẹp lại khoảng cách giá kể từ năm 2010

Theo nguồn tin cho biết, giá nhập khẩu phế HMS &2 (80:20 ) Thổ Nhĩ Kỳ hiện đạt mức 395 USD/tấn CFR cảng Thổ Nhĩ Kỳ, chỉ thấp hơn giá phôi thanh Biển Đen 110 USD/tấn FOB Biển Đen. Đây là mức chênh lệch thấp nhất giữa 2 mặt hàng này kể từ tháng 2/2010.

Được biết, giá phế đã tăng 30.50 USD/tấn kể từ tháng 10 với sự phục hồi của thị trường Mỹ và sự mạnh lên của đồng Euro, trong khi đó, phôi thanh chỉ tăng thêm 10 USD/tấn trong cùng thời điểm này. Theo thị trường dự báo, các hoạt động thu mua sẽ sôi nổi hơn trước từ các nhà máy lò điện Thổ Nhĩ Kỳ do sự chênh lệch giá giữa các mặt hàng thép bán thành phẩm với nguyên liệu thô hiện tại.

“Tôi đã chào bán lô hàng giao tháng 11 tới nhiều nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ với mức giá cạnh tranh, tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa nhà máy lò hồ quang điện nào muốn mua”, một thương nhân cho biết.

Hầu như các thành viên thị trường đều dự báo rằng giá phế sẽ đạt mức cao 400 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ trong thời gian sắp tới, và sẽ có nhiều chào mua hơn từ các nhà máy lò hồ quang điện Thổ Nhĩ Kỳ. Trong tuần trước, đã có vài đơn hàng phôi thanh đặt mua tại mức giá 500 USD/tấn FOB Nga.

Tuy nhiên, theo nhận định, sức mua tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ chỉ thực sự khởi sắc sau Lễ Tế Sinh (Eid al-Adha).

Hiện tại, giá phôi thanh cung cấp từ các nhà sản xuất nội địa đã gần với giá chào nhập khẩu, và điều này sẽ hạn chế mối quan tâm nhập hàng vào từ CIS, mặc dù các quốc gia khác chẳng hạn như Ai Cập đã bắt đầu tích trữ lại hàng hóa bằng cách mua hàng ngoài nước.