Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 31/3/2014

JFE tăng giá thép cuộn giao ngay trong nước

JFE Steel đã bắt đầu báo hiệu cho các nhà phân phối và trung tâm thép cuộn ở trong nước rằng họ sẽ phải trả thêm 3.000 Yên/tấn (29 USD/tấn) cho HRC, CRC và thép cuộn đã mạ cho những lô hàng mua giao ngay trong tháng 04.

Mặc dù JFE đã từ chối đưa ra bình luận trực tiếp về chính sách giá của mình nhưng theo Platts ghi nhận thì trong năm ngoái từ đầu tháng 04 nhà máy này cũng đã tăng 12.000 Yên/tấn và sau đó lại tăng thêm 3.000-5.000 Yên/tấn từ đầu tháng 10.

“Trong tổng mức tăng 15.000-17.000 Yên/tấn của năm ngoái thì chỉ có khoảng 10.000-12.000 Yên/tấn là được thị trường chấp nhận”, một nhà phân phối ở miền tây nói. Ông cho biết nhu cầu thép tấm mỏng hiện nay không đến nỗi nào nhưng sức mua cao nhất là hồi tháng 01 và giá hiện nay đang chững lại.

HRC SPHC 1.7-22mm được sản xuất bởi các nhà máy hợp nhất của Nhật hiện nay có giá khoảng 62.000-63.000 Yên/tấn (608-618 USD/tấn), gần như không đổi kể từ tháng 01 đến nay.

Một thương nhân khác ở miền tây cho biết cách đây không lâu các khách hàng đã có thái độ chờ đợi bởi vì hầu hết họ đều đã đảm bảo có đủ thép cuộn và giá nguyên liệu suy yếu. “Chúng tôi không nghĩ là mức giá cao hơn sẽ được chấp nhận ngay; chúng tôi có lẽ phải đợi cho đến tận tháng 07 –tháng 09 khi chính phủ hỗ trợ nhiều hơn cho các dự án công trình dân dụng”, ông nói.

Nhưng một thương nhân ở Tokyo cho biết các nhà máy hợp nhất trong nước hiện đang có kế hoạch thực hiện việc bảo trì cho các cơ sở sản xuất lớn của họ từ tháng 04 đến tháng 06. Nhiều nhà máy đã có kế hoạch bảo trì trong 3 tháng đầu năm nay nhưng lại trì hoãn để ưu tiên đáp ứng nhu cầu tiêu thụ gia tăng vào thời gian đó. “Nguồn cung từ các nhà máy hợp nhất sẽ giảm và điều này sẽ khiến các khách hàng phải chấp nhận mức giá cao hơn mà thôi”, ông nói.

JFE cũng từ chối bình luận về việc bảo trì nhưng phát ngôn viên của Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp cho biết NSSMC dự định sẽ bảo trì các cơ sở chủ chốt trong khoảng thời gian từ tháng 04 đến tháng 06. Tuy nhiên, ông cũng từ chối cung cấp thêm thông tin chi tiết.

Quặng sắt tiếp tục lên giá nhờ doanh số thép bán ra nhiều hơn

Giá giao ngay của quặng sắt nhập khẩu trong tuần trước cao hơn nhờ doanh số thép bán ra tại Trung Quốc nhiều hơn, dẫn đến niềm tin rằng các nhà máy sẽ có dòng tiền mặt cải thiện hơn để mua nguyên liệu.

Platts định giá Iron Ore Index 62% Fe tại 113,25 USD/dmt CFR miền bắc Trung Quốc, tăng 2,5 USD/dmt so với tuần trước. Giá tham khảo của loại quặng này tại TSI tăng 1,4% vào cuối tuần lên 112,3 USD/dmt CFR Thiên Tân.

Các nhà máy cho biết doanh số thép bán ra tăng mạnh, có thể là nhờ nhu cầu từ ngành xây dựng gia tăng do mùa đông ở miền bắc nước này đã kết thúc.

Điều này dẫn đến một số lạc quan trên thị trường quặng sắt và giá quặng dự trữ tại các cảng của Trung Quốc tăng mạnh vào giữa tuần.

Chẳng hạn như, quặng cám 61% Fe Australian Pilbara Blend dự trữ tại các cảng ở Jingtang được giao dịch với giá 750 NDT/wmt vận chuyển miễn phí trên xe tải, gồm phí kho bãi 35 NDT/wmt và VAT 17%, tương đương với giá nhập khẩu 105,75 USD/dmt.

Giá thép tại Trung Quốc cũng tăng, phôi thanh tại Đường Sơn lên 30 NDT/tấn so với tuần trước đó chốt tại 2.880 NDT/tấn xuất xưởng.

Nhưng tín dụng bị siết chặt và những quan ngại về các biện pháp kiểm soát môi trường nghiêm ngặt của chính phủ tiếp tục gây sức ép lên tâm lý của người mua tại các nhà máy.

“Các nhà máy không có kế hoạch thực tế hay hy vọng nào về việc sản lượng thép thô sẽ tăng trong thời gian tới. Vì vậy mức giảm của quặng sắt tại mỗi nhà máy sẽ rất hạn chế”, một nhà sản xuất thép ở Anhui nói.

Sản lượng thép thô theo ngày của Trung Quốc gần như không giảm vào giữa tháng 03

Theo ước tính của Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA), sản lượng thép thô của cả nước từ ngày 11-20/3 đạt trung bình 2,096 triệu tấn/ngày, chỉ giảm 0,04% so với đầu tháng 03.

Trong đó, sản lượng của các nhà máy thành viên CISA đạt 1,692 triệu tấn mỗi ngày, tăng 1,9%. Lượng thép tồn kho tại các nhà máy thành viên CISA hôm 20/3 tăng 2,3% so với ngày 10/3 và cao hơn 4,8% so với cuối tháng 02 đạt 17,04 triệu tấn.

Một nhà máy cho biết tồn kho tại các nhà máy nhìn chung còn cao nhưng vẫn ở mức có thể xoay sở được. Ông cho hay các đơn đặt mua trong nước không tăng và vẫn đang diễn ra. Ông dự báo giá thép trong tháng 04 nói chung là sẽ ổn định với một vài biến động nhỏ.

Một nhà máy khác cho biết do tình hình thị trường hiện nay nên các nhà máy sẽ không cắt giảm bớt sản lượng vì vậy lượng thép đưa ra thị trường tiếp tục ở mức cao.

Hôm thứ Sáu, HRC Q235 5.5mm có giá 3.200-3.250 NDT/tấn (518-523 USD/tấn) gồm VAT 17% tại Thượng Hải và 3.400-3.420 NDT/tấn tại Lecong (Quảng Đông), cả hai đều gần như không đổi so với ngày trước đó.

Niềm tin thị trường đã cải thiện nhẹ cùng với sự bình ổn của giá. Nhưng các thương nhân vẫn tỏ ra dè dặt về xu hướng thị trường do sản lượng thép còn cao.

 

Thị trường nhập khẩu cuộn trơn Mỹ im ắng

Thị trường nhập khẩu cuộn trơn Mỹ hiện tại im ắng nhưng vẫn có khả năng tái hoạt động sau các vụ kiện thương  mại chống lại cuộn trơn  Trung Quốc, và Thổ Nhĩ Kỳ sẽ là nhà xuất khẩu chính sang Mỹ do giá cả cạnh tranh.

Trong bối cảnh hàng nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ có xu hướng giảm nhẹ trong mấy  tuần qua, một nhà nhập khẩu tin rằng giá nhập khảu  đã chạm đáy và dự định tăng giá do giá phế tăng.

Trong khi chào giá cuộn trơn  từ Thổ Nhĩ Kỳ đạt mức 620 USD/tấn CFR Houston, tuy nhiên, mức giá 610 USD/tấn có thể đạt được đối với các lô hàng lớn hoặc các lô hàng kết hợp. Mức giá này cho thấy sự suy yếu 5 USD/tấn so với giá 3 tuần trước.

  Giao dịch nhập khẩu ferrochrome của Trung Quốc tiếp tục suy yếu 

Platts định giá giao ngay của ferrochrome hàm lượng cacbon cao (58-60% Cr) khoảng 83-85 cents/lb CIF Trung Quốc và quặng chrome Nam Phi 48-52% Cr) có giá 83-84 cents/lb CIF Trung Quốc. Cả hai mức giá này đều không đổi so với tuần trước đó do tiếp tục có sự cách biệt giữa người bán và người mua.

Không có giao dịch nào được xác nhận. Các chào giá ferrochrome Ấn Độ trong tuần trước nghe nói khoảng 83.5-86 cents/lb CIF, giảm nhẹ so với mức 85-86 cents/lb CIF của tuần trước đó. Nghe nói các chào giá quặng chrome Nam Phi từ 83.5-85 cents/lb CIF, cũng giảm nhẹ so với 84-85 cents/lb CIF của tuần trước đó.

Mức giá đưa ra giữa người bán và người mua tiếp tục khác biệt. Người mua chỉ quan tâm ở mức giá từ 82 cents/lb CIF trở xuống trong khi nhà cung cấp thì không sẵn lòng giảm giá xuống thấp hơn 84 cents/lb CIF vì họ cho rằng giá hiện nay đã gần sát mức hòa vốn trong khi người mua lại đang yêu cầu giá thấp hơn hoặc hạn chế nhập khẩu do sự bất ổn của thị trường sắp tới và tỷ giá hối đoái.

Những nhà nhập khẩu ở Trung Quốc hiện tỏ ra quan ngại về việc nhu cầu ngày càng ít đi từ ngành thép không gỉ vì họ sẽ giảm cắt giảm bớt sản lượng.

Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết thị trường đang dự đoán giá ferrochrome tại Trung Quốc sẽ suy yếu hơn nữa khi mùa mưa ở miền nam nước này sẽ bắt đầu từ cuối tháng 04 đầu tháng 05, nên chi phí sản xuất của các nhà luyện kim ferrochrome giảm vì ít phụ thuộc vào các nhà máy thủy điện ở miền nam.

Ngoài ra, do sự mất giá của đồng Nhân dân tệ so với đôla Mỹ nên người mua Trung Quốc cũng hạn chế bớt hàng nhập khẩu trong khi chờ các nhà máy thép không gỉ chủ chốt ở trong nước đưa ra giá mua tháng 04 của họ. 

Nguồn cung thắt chăt, giá tấm mỏng Mỹ vẫn tăng

Nguồn cung  thắt chặt cộng với chính sách giữ giá nghiêm khắc từ các nhà máy tấm mỏng Mỹ đã giúp giá mặt hàng này duy trì đà tăng. US Steel đã ngưng sản xuất  tại các công xưởng thuộc khu vực Hồ Lớn do sự cố sụp mái xưởng trong khi có nguồn tin cho rằng các công xưởng của ArcelorMittal cũng ngưng sản xuất tại lò cao ở Indiana trong 75 ngày , làm hao hụt khoảng  10.000 tấn/ngày.

Trong khi đó, thời tiết khắc nghiệt mùa đông vẫn gây khó khăn cho thị trường phía Nam và Midwest, với các chuyến hàng trên sông Misissippi vẫn ứ đọng.

Platts duy trì giá HRC và CRC lần lượt tại mức 650-660 USD/tấn và 780-790 USD/tấn xuất xưởng Midwest. 

Thép cây Nga tăng mạnh

Các nhà máy thép cây Nga đã thành công trong việc tăng giá thép tháng 4 thêm 1.100-1.150 Rub/tấn (31-32 USD/tấn), tức 6% so với tháng trước. Các nhà môi giới tại Maxcova đang bán thép cây tháng 4 tại mức giá 24.000 Rub/tấn giao tại bãi, cao hơn giá thu mua 1.000 Rub/tấn và dự báo giá sẽ không suy yếu thêm.

Hiện tại, giá từ các nhà máy đã tăng lên  mức 22.500-22.600 Rub/tấn (629-632 USD/tấn) đối với loại 14mm và 22.900-23.000 Rub/tấn (641-643 USD/tấn) đối với loại 12mm giao tại Maxcova đã gồm 18% VAT.

Giá thép cây tăng nhờ vào cán cân cung-cầu đã  đi vào trạng thái cân bằng dựa vào việc cắt giảm sản lượng từ các nhà máy và hàng nhập khẩu ít. Platts duy trì giá thép cây 12-14mm tại mức 19.150-19.450 Rub/tấn (536-544 USD/tấn) Maxcova. 

Các nhà máy Nga bảo toàn được giá tăng tấm mỏng tháng 4

Các nhà máy cán dẹt tích hợp Nga đã tăng giá tấm cán nóng tháng 4 để bù đắp lại tổn thất do đồng Rup suy yếu. Đồng Rub Nga đã rớt từ mức 32.0 Rup/USD tháng 12/2013 xuống còn 36.0 Rub/USD đầu tháng 3.

Giá thép cuộn và tấm cán nóng đã tăng thêm 840-890 Rub/tấn (24-25 USD/tấn), tương đương 4.5% so với tháng 3, dưới mức tăng giá mục tiêu 1.000-1.100 Rub/tấn.

Đối với các khách hàng tại Maxcova, giá tấm cán nóng 2mm và 4mm  đã tăng lên mức 22.700-22.800 Rub/tấn (635-638 USD/tấn) và 22.100-22.200 Rub/tấn (618-621 USD/tấn). Nếu trừ VAT ra, giá hai mặt hàng này sẽ có giá lần lượt là 19.240-19.320 Rub/tấn (538-540 USD/tấn) và 18.730-18.810 Rub/tấn (524-526 USD/tấn) CPT Maxcova.

Nếu tính bằng đồng dolla, giá tấm cán nóng đã tăng 30 USD/tấn so với đầu tháng 3. Theo dự báo, mặc dù giá cuối tháng 4 tăng nhẹ, tuy nhiên mức tăng sẽ không vượt quá 100-150 Rub/tấn (4 USD/tấn).

Trong khi đó, đối với hàng tháng 4, các nhà máy cũng tăng giá tấm cán nguội 1mm thêm 1.100-1.200 Rub/tấn (31-34 USD/tấn), tức 5% so với tháng trước, đạt mức 21.520-21.610 Rub/tấn (606-606 USD/tấn) CPT Maxcova không VAT. Nếu gồm cả VAT, giá tấm cán nguội đạt mức 25.400-25.500 Rub/tấn (712-715 USD/tấn). 

Giá phế tại Nhật Bản và Đài Loan tăng 

Các thương nhân Nhật Bản đã tăng giá phế trong tuần trước. Các thương nhân ở Vịnh Tokyo đang mua phế H2 để xuất khẩu với giá 29.000-30.000 Yên/tấn (284-294 USD/tấn) FAS, tăng 500-1.500 Yên/tấn (4,9-14,7 USD/tấn) so với tuần trước đó. Nhiều thương nhân đã thu mua phế giao từ tháng 04 đến tháng 05 vì họ dự đoán giá sẽ tăng cao hơn. Mặt khác, Tokyo Steel Manufacturing cũng duy trì giá mua phế nội địa của họ không đổi từ giữa tháng 3 tới nay. Cụ thể, giá mua phế H2 của Tokyo Steel tại các xưởng ở Utsunomiya là 29.000 Yên/tấn.

Tuần trước, các nhà máy Hàn Quốc muốn quan sát xu hướng thị trường phế Nhật hơn. Hyundai Steel và các nhà máy chủ chốt khác xác nhận rằng họ không đặt mua phế Nhật trong suốt tuần trước. Lần đặt mua phế H2 gần đây nhất của Hyundai là trong tuần kết thúc ngày 14/3 với giá 30.500-31.000 Yên/tấn FOB.

Tại Hàn Quốc, giá phế vẫn tiếp tục suy yếu trong tuần trước, một số nhà máy trong nước chẳng hạn như Dongbu Steel và Korea Steel Shapes quyết định là sẽ giảm giá mua phế xuống 5.000-10.000 Won/tấn (4,7-9,4 USD/tấn).

Thị trường nhập khẩu phế lô lớn từ Mỹ trong khu vực vẫn trầm lắng do khoảng cách giá giữa người mua và người bán. Các nhà cung cấp phế từ Mỹ được cho là đang tìm bán với giá 370 USD/tấn CFR Hàn Quốc cho loại phế HMS No.1, trong khi các nhà máy thép Châu Á đang tìm mua với giá gần mức được thiết lập trong tuần trước.

Dongkuk Steel đã đặt mua một lô lớn phế HMS1 giao tháng 04 từ nhà cung cấp ở Mỹ với giá 359 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong tuần kết thúc ngày 21/3. Nghe nói đây là nhà cung cấp đã chào bán phế 80:20 lô lớn trong tuần trước tới Đài Loan với giá 375 USD/tấn CFR.

Tuần trước Dongkuk Steel đã đặt mua 10.000 tấn phế loại A3 của Nga với giá 363 USD/tấn CFR. Các đơn đặt mua gần đây của Hàn Quốc trong đó có một nhà máy đặt mua 60.000 tấn phế A3 giao tháng 05 với giá 353 USD/tấn CFR. Giá phế nhập khẩu vào Đài Loan tăng cùng với xu hướng đi lên của giá phế tại các thị trường khác trên thế giới. Mặc dù sức mua của các nhà máy Đài Loan trì trệ nhưng việc đặt mua phế 80:20 lô nhỏ từ Mỹ lại được ký kết với giá tầm 347-350 USD/tấn CFR Đài Loan, tăng so với mức 340-342 USD/tấn CFR được thiết lập của tuần trước đó.   

Giá phế tàu Thổ Nhĩ kỳ tiếp tục tăng

Giá phế tàu Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng 5 USD/tấn trong cuối tuần qua cùng  xu hướng tăng lên của phế DKP và phế nhập khẩu.

Phế HMS từ xác tàu thuyền vỡ hiện được chào bán tới các nhà máy phía Tây (IDC, Habas, Ozkan, Ege Celik) đạt mức 370-375 USD/tấn.

Các nhà máy trong nước cũng  tăng giá thu mua phế nội địa, chẳng hạn như  Erdemir tăng giá thêm 30 TRY/tấn, đạt mức 880 TRY/tấn (400 USD/tấn) kể từ ngày 26/3 với sự tăng lên của giá phế nhập khẩu.

Nhà máy Kardemir cũng tăng giá thêm 30 TRY/tấn, đạt mức 845 TRY/tấn (385 USD/tấn) trong ngày 22/3. Nhà máy Asil Celik đồng thời tăng giá lên mức 850 TRY/tấn (387 USD/tấn) trong khi Colakoglu tăng giá lên mức 820 TRY/tấn (374 USD/tấn).  

Phí phụ thu phế thép công cụ Châu Âu giảm trong tháng 4

Tất cả các nhà máy thép công cụ Châu Âu đã giảm phí phụ thu phế tháng 4 đối với thép thanh cán nóng do sự suy yếu trở lại của giá phế tại hầu khắp các thị trường lớn ở Châu Âu. Phần lớn các nhà máy này  cũng giảm phí phụ thu trong tháng 2.

Trong số các nhà máy hạ giá, nhà máy Tata Steel Anh cắt giảm mạnh nhất  sau khi suy trì không đổi kể  từ tháng 9. Phí phụ thu tháng tới là 143 Pound/tấn (173 Euro/tấn), giảm gần 20% so với mức 178 Pound/tấn tháng 3. Tiếp theo sau là nhà máy Ovako Thụy Điển đã cắt giảm 191 SEK/tấn so với tháng trước, còn 1.593 SEK/tấn (179 Euro/tấn), giảm 11%. Nhà máy  Ascométal Pháp cũng giảm 12 Euro/tấn, tức 6%, còn 187 Euro/tấn.

Nhà máy Gerdau Tây Ban Nha và ABS của Ý cùng cắt giảm 10 Euro/tấn trong mức phí phụ thu tháng 3, còn lần lượt 237 Euro/tấn và 233 Euro/tấn trong tháng 4.

Các nhà máy Saarstahl, Georgsmarienhütte, Lech-Stahlwerke của Đức  và  Edelstahlwerke Hà Lan đều cắt giảm phí phụ thu xuống 8 Euro/tấn, dưới 4%, kéo phí pụ thu tháng 4 xuống 205 Euro/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 12. 

Thị trường thép ống hàn EU suy yếu

Giá thép ống hàn  Châu Âu giảm đáng kể trong tháng 3 so các nhà máy thép cuộn trong khu vực hạ giá chào bán và cầu không đủ mạnh.

Tại khu vực Bắc Âu, mức giá bán đối với ống hàn thương phẩm  hiện  tại đạt mức 38-39 điểm chiết khấu cơ bản. Một người mua tại  Benelux cho biết thời gian giao  hàng từ các nhà máy hiện là 2-4 tuần do các đơn hàng trong tháng 3 không tăng.

Trong khi thị trường vẫn suy yếu, các nguồn tin nhận định  rằng khối lượng giao dịch trong 3 tháng đầu năm c ó tăng nhẹ. Thị trường thép ống hàn tại Pháp trì trệ nhưng tình hình ở Anh và Hà Lan có phần khá hơn.

Thị trường thép ống Nam Âu vẫn  yếu hơn phía Bắc, với giá giao dịch hiện tại là 40-41 điểm chiết khấu. Có chào mua chỉ đạt mức thấp 42 điểm, nhưng vẫn chưa được thị trường chấp nhận hoàn toàn.

Trong khi  đó, giá HRC tại Ý vẫn ổn định ở mức 410-420 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản. Nhu cầu tiêu thụ thấp tại Ý vẫn tiếp tục kìm hãm thị trường vốn đã mong manh

Giá thép không gỉ Châu Á đi ngang trong khi chờ giá của các nhà máy 

Giá CRC không gỉ loại 304 2B dày 2mm xuất xứ Hàn Quốc và Đài Loan trong ngày thứ sáu vẫn không đổi so với tuần trước đó và duy trì tại 2.400-2.450 USD/tấn CFR Đông Á do hầu hết các nhà cung cấp đều giữ chào giá và đợi giá tháng 04 từ các nhà sản xuất.

Giao dịch khá im ắng trong tuần trước, chỉ có duy nhất một thương nhân ở Hong Kong cho biết là đã chốt giao dịch 100 tấn CRC dày 0.5mm xuất xứ Hàn Quốc là 2.600 USD/tấn CFR Hong Kong. Mức giá này tương đương 2.450 USD/tấn CFR cho CRC dày 2mm. Các chào giá của CRC dày 2mm từ Hàn Quốc và Đài Loan trong tuần trước vẫn duy trì tại 2.500 USD/tấn CFR.

Các thương nhân khác mà Platts đã thăm dò ý kiến đều cho biết trong tuần trước họ không chào bán tới thị trường do chưa có thông báo giá tháng 04 từ các nhà sản xuất thép không gỉ ở Hàn Quốc và Đài Loan.

Hầu hết mọi người đều dự đoán giá từ các nhà máy sẽ tăng sau khi giá niken lên mạnh trong tháng qua. “Chúng tôi nghe nói rằng các nhà máy Đài Loan có thể sẽ tăng thêm 3.000-5.000 Đài tệ/tấn (98-164 USD/tấn). Nhưng sau khi giá niken giảm gần đây nhất trong vài ngày trước thì các nhà máy có lẽ chỉ có thể nâng giá thêm khoảng 2.000 Đài tệ/tấn mà thôi”, một thương nhân ở miền nam Đài Loan nói hôm thứ sáu tuần trước.

Nhưng theo thương nhân ở Hong Kong thì cho rằng các nhà máy chỉ có thể giữ giá bình ổn do nhu cầu thị trường suy yếu. “Nhưng họ cũng không thể hạ giá thấp hơn nữa do chi phí sản xuất cao”, ông nói.

Giá niken bật tăng trên 16.000 USD/tấn nhưng lại giảm so với giá của đầu tuần trước. Cụ thể, giá giao dịch chính thức bằng tiền mặt trên sàn LME hôm 27/3 dừng tại 15.665-15.670 USD/tấn, vẫn cao hơn khoảng 1.000 USD/tấn so với đầu tháng 03. 

Giá thép cây Trung Quốc ổn định trước mùa tiêu thụ cao điểm truyền thống

Giá thép cây ở miền bắc Trung Quốc vẫn tiếp tục không đổi trong ngày 28/3, sự thay đổi của giá là quá nhỏ, không đáng kể so với tuần trước đó. Nhìn chung, triển vọng thị trường tháng 04 không cải thiện do các mối quan ngại về lượng tồn kho lớn trên thị trường và tín dụng tiếp tục bị siết chặt.

Tại thị trường giao ngay Bắc Kinh hôm thứ Sáu, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm được sản xuất từ nhà máy Hebei Iron & Steel vẫn không đổi so với thứ Năm và chốt tại 3.130-3.150 NDT/tấn (504-507 USD/tấn) trọng lượng thực gồm VAT 17%. Mức này rất gần với giá 3.130-3.140 NDT/tấn của ngày thứ Sáu tuần trước (21/3).

Một số người cảm thấy nhẹ nhõm khi cuối cùng giá cũng đã ngưng giảm. Giá giao kỳ hạn và nguyên liệu đang tăng dường như cũng cho thấy đà lao dốc của giá đã đến hồi kết thúc.

Hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 10 trên sàn SHFE tăng mạnh 1,16% trong ngày thứ Sáu chốt tại 3.307 NDT/tấn. Mức giá này cũng tăng 2,7% so với tuần trước đó.

Một thương nhân Bắc Kinh cho biết giao dịch tại hầu hết các đại lý lớn đều đã ổn định ở mức vừa phải trong tuần qua. Ngoài ra, tháng 04 thường là thời gian hoạt động xây dựng gia tăng nên giá sắp tới rất có thể sẽ tăng nhẹ.

Tuy nhiên, nhiều người có xu hướng tin rằng giá trên thị trường sẽ tiếp tục dao động quanh mức hiện nay. 

Giá thép hình EU khả năng còn suy yếu

Giá thép hình tại Châu Âu vẫn đang chịu áp lực giảm giá với giá chào bán từ các nhà máy đối với thép hình loại 1 đạt mức 520-530 Euro/tấn. Gía giao dich vẫn thấp hơn mức này, tùy thuộc vào khối lượng đơn hàng.

Trong khi đó, chịu áp lực từ giá phế suy yếu, nhu cầu tiêu thị trong tháng 3 vẫn nghèo nàn buộc các nhà máy phải cạnh tranh nhau gay gắt. Tuần qua, thị trường diễn biến trầm lắng. Một thương nhân Tây Bắc Âu cho biết đã mua thép hình tại mức giá 530 Euro/tấn nhưng đó chỉ là  lô hàng nhỏ 200 tấn từ một nhà máy Đức. Tuy nhiên, một nhà máy ở Bắc Âu đang chào bán với giá thấp 500 Euro/tấn dành cho các đơn hàng trọng lải lớn.

Giá chào từ một nhà môi giới Pháp là 520 Euro/tấn đã gồm phí giao hàng, tuy nhiên, Ông nghĩ giá bán cao nhất chỉ đạt 515 Euro/tấn.

Platts giữ nguyên định giá thép hình cỡ trung tại mức 520 Euro/tấn DDP EU trong tuần qua. 

Nhu cầu tiêu thụ thép tấm Thổ Nhĩ Kỳ vẫn yếu, dự báo giá tăng trong tháng tới

Theo khảo sát, nhu cầu tiêu thụ thép tấm tại thị trường Thổ Nhĩ Kỳ vẫn theo đà chậm chập kể từ cuối tháng 2, tuy nhiên, dự báo sức mua sẽ cải thiện dần trong những tuần tới.

Trong khi đó, các hoạt động tại các ngành  công nghiệp đầu tàu của nền kinh tế như xây dựng, cơ khí dự báo sẽ khôi phục trong tháng 4. Tuy nhiên, hầu như các nguồn tin đều nhận định không có cú đột phá nào trong giá cả hay nhu cầu tiêu thụ. Gía sẽ chỉ tăng ở mức độ vừa phải và thận trọng.

Giá chào bán từ các nhà máy trong nước đối với thép tấm rộng 1.500mm dày 4-12mm đạt mức 570-580 USD/tấn xuất xưởng chưa tính 18% VAT. Gía chào từ các nhà môi giới chỉ cao hơn 10 USD/tấn.

Trong khi đó, giá chào từ các nhà máy CIS đối với lô hàng giao tháng 5 đạt mức 545-565 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.   

Thị trường thép tấm Châu Âu chững lại, giá bình ổn

Thị trường thép tấm Châu Âu cuối tuần qua đã chững lại và giá cả vẫn  bình ổn mặc dù các nhà máy có động thái tăng giá.

Không giống như thị trường thép cuộn, chu kỳ thép tấm vẫn chưa quy đầu giảm. Một nhà máy cho biết giá mặt hàng này phần lớn ít biến động và xu hướng bình ổn từ đầu năm tới nay đã minh chứng cho điều đó.

Theo khảo sát tại Tây Bắc Âu, giá thép tấm tại đây dao động trong khoảng 500-530 Euro/tấn xuất xưởng và có thể lên hay xuống tùy từng trường hợp cụ thể. Định giá thép tấm thep Platts vẫn đạt mức 518 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr.

Trong khi đó, thị trường thép tấm Nam Âu rất im ắng. Gía giao dịch tại Ý vẫn đạt mức 500-510 Euro/tấn xuất xưởng cơ bản và các nhà máy không chấp nhận bán giá dưới 500 Euro/tấn. 

Nguồn cung khan hiếm hỗ trợ cho giá thép tấm Trung Quốc  

Giá thép tấm tiêu chuẩn hàng hóa của Trung Quốc vẫn giữ nguyên không đổi trong tuần trước nhờ sự cải thiện của lượng giao dịch, các đại lý tại Thượng Hải cho biết giá giao dịch trên sàn và thị trường giao kỳ hạn đều tăng cũng giúp củng cố thêm cho giá thép tấm.

Hôm thứ Sáu, thép tấm Q235 14-20mm được giao dịch phổ biến với giá khoảng 3.460-3.490 NDT/tấn (557-562 USD/tấn), gần như không đổi so với giá niêm yết hôm 20/3 của Platts. Một số thương nhân đã tăng giá lên thêm 10 NDT/tấn do nguồn cung của một số loại thép phổ biến bị thiếu hụt, trong khi giá của hầu hết các loại còn lại thì vẫn không đổi do dự đoán sức mua sẽ không tăng.

Một đại lý lớn ở Thượng Hải cho biết bà đã nâng chào giá thép tấm lên một chút do phí vận chuyển tăng nhưng bà khuyến cáo rằng giá có nguy cơ giảm trở lại do một loạt các lô hàng từ các nhà máy sẽ về đến Thượng Hải trong thời gian ngắn.

Các đại lý khác cũng cho biết lượng giao dịch có cải thiện hơn trong tuần này và họ sẽ không giữ nhiều hàng trong kho để tránh những rủi ro. Hôm 28/3, theo thống kê từ nhà cung cấp thông tin MySteel ở Thượng Hải, tồn kho thép tấm tại các nhà kho lớn ở Thượng Hải còn tổng cộng 202.500 tấn, giảm 2.200 tấn so với tuần trước đó.

Sự thay đổi của các nhà máy cũng hỗ trợ cho giá thép tấm giao ngay. Hôm thứ Sáu, một nhà máy ở miền đồng đã tăng 10 NDT/tấn cho giá hợp đồng 10 ngày (từ ngày 21-31/3) đối với thép tấm Q235 14-30mm. Một vài nhà máy ở miền bắc cũng chốt giao dịch trong tuần trước với các đại lý của họ với giá cao hơn khoảng 80 NDT/tấn so với tuần trước đó. 

Thị trường nhập khẩu thép cuộn EU trầm lắng, giá giảm

Trong tuần qua, thị trường  nhập khẩu thép cuộn Châu Âu diễn biến trầm lắng do sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng nội địa mặc dù giá chào từ Trung Quốc đã giảm. Một nguồn tin nhận định giá nhập khẩu phải rẻ hơn hàng trong nước ít nhất 40-50 Euro/tấn thì mới có thể thu hút người mua. Gía chào bán HRC nhập khẩu gần đây nhất từ Trung Quốc đạt mức 410-420 Euro/tấn.

So với Trung Quốc, giá chào từ nhà máy Severstal Nga có khả năng thu hút hơn, với giá chào chào bán đạt mức 560-570 USD/tấn (407-414 Euro/tấn) CIF Antwerp. Tuy nhiên, cuối tuần qua, các nhà xuất khẩu thép cuộn Trung Quốc đã tiếp tục hạ giá chào bán xuống còn 505 USD/tấn, tương đương 560 USD/tấn CIF Antwerp (407 Euro/tấn).

Trong khi đó, chào giá CRC đạt mức 676 USD/tấn (491 Euro/tấn) CIF Antwerp. Một nguồn tin cho hay giá đã giảm và có thể mua hàng tại mức 652 USD/tấn (474 Euro/tấn) CIF Antwerp. Tuy nhiên,  nhiều người mua cho rằng mức giá này vẫn còn quá cao và nên giảm thêm ít nhất 50 USD/tấn, nữa. Định giá CRC nội địa EU theo Platts đạt mức 520 Euro/tấn xuất xưởng, cao hơn giá nhập khẩu 35 Euro/tấn.  

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ không đổi trong bối cảnh thị trường im ắng 

Giá xuất khẩu HDG Ấn Độ vẫn không đổi, có rất ít chào giá được đưa ra do hầu hết mọi người đều đã rút lui khỏi thị trường trong những ngày cuối cùng của năm tài khóa 2013.

Thép cuộn dày 0.3mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông có giá giao dịch bình quân từ 865-875 USD/tấn CFR bờ biển phía đông Hoa Kỳ, gồm phí vận chuyển 50-60 USD/tấn, giao đầu tháng 05 và mức giá này bằng với giá niêm yết trong tuần trước đó của Platts.

Các nhà xuất khẩu Ấn Độ hiện đang đối mặt với sức ép lớn từ các nhà máy thép ở Mexico khi họ có lợi thế hơn trong việc giao hàng qua biên giới với Mỹ trong khi mức giá chào bán đưa ra lại tương tự cho loại HDG. “Chúng tôi đang nghe nói chào giá của các nhà cung cấp Mexico là khoảng 830-840 USD/tấn CFR Mỹ”, một thương nhân ở Mumbai nói. Ông lý giải rằng, với thời gian giao hàng ngắn hơn chỉ khoảng 30-35 ngày trong khi các nhà máy Ấn Độ phải mất đến 60-70 ngày nên họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải hạ giá xuất khẩu của mình xuống thêm nữa để có thể cạnh tranh.

Một nhà máy thép hợp nhất có trụ sở ở Mumbai cho biết sự mạnh lên của đồng Rupee đã khiến cho hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn đối với người mua ở Mỹ. Hôm thứ Tư, đồng Rupee đã bắt đầu chạm mức cao trong 8 tháng, tỷ giá 1 USD= 60,3 Rupee, các chuyên gia thị trường cho biết sự  mạnh lên của đồng nội tệ dẫn đến tâm lý tích cực của các nhà đầu tư khi sắp đến cuộc tổng bầu cử sẽ diễn ra từ ngày 07/4 đến 12/5.

“Thật may cho chúng tôi, chúng tôi đã tìm mọi cách để hoàn tất các đơn đặt mua cho hợp đồng tháng 04 sớm hơn vì vậy sự tăng giá gần đây của đồng Rupee đã không gây ảnh hưởng gì đến chúng tôi”, đại diện nhà máy nói.

Tuy nhiên, ông cũng cho biết thêm rằng đồng nội tệ của Ấn Độ mạnh hơn có nghĩa là thép thành phẩm nhập khẩu sẽ trở nên cạnh tranh hơn. Do đó, công ty ông sẽ cần phải theo dõi thị trường một cách chặt chẽ trong tuần tới trước khi quyết định liệu có giảm chào giá HDG xuống thấp hơn không.