Thổ Nhĩ Kỳ giảm thuế nhập khẩu thép cây xuống 10%
Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ công bố sắc lệnh chính thức giảm thuế quan thép cây nhập khẩu để vượt qua khó khăn thiếu hụt nguồn cung thép cây trong nước và ngăn chặn đà tăng giá. Sắc lệnh này được dự báo hồi đầu tháng 6 nhưng chính thức có hiệu lực từ 28/7.
Theo Sắc lệnh này, thuế nhập khẩu thép cây tiếp tục là 0 cho các nước EU, và cho các nước ký Hiệp định thương mại tự do với Thổ Nhĩ Kỳ. Thuế tiếp tục là 5.6% cho Hàn Quốc và 10% cho Malaysia. Tuy nhiên, thuế cho các nước khác giảm từ 30% xuống còn 10%.
Các nhà thầu xây dựng đã yêu cầu dùng biện pháp này để ngăn cản đà tăng giá thép trong nước trong khi các nhà máy phàn nàn rằng việc cắt giảm này sẽ gây ra vấn đề nghiêm trọng về kiểm định chất lượng và tiêu chuẩn thép.
Trong khi đó, giá thép cây trong nước vượt quá 500 USD/tấn xuất xưởng sau khi các nhà máy tăng giá và ở mức 500-510 USD/tấn trong ngày thứ sáu tùy vào khu vực trong khi giá từ các nhà môi giới cao hơn 10 USD/tấn.
Giá HRC Nga tăng và đồng Rub suy yếu kích cầu
Các nhà máy Nga đã tăng giá HRC tháng 8 nhờ tiêu thụ mạnh và giá xuất khẩu tăng.
Nhu cầu tiêu thụ mạnh nhưng được cho là do đầu cơ dựa vào giá xuất khẩu tiếp tục tăng cộng với đồng Rub suy yếu. Khối lượng giao dịch khá lớn nên xu hướng đúng của giá được cho phải tới tháng 11.
Sự suy yếu đồng Rub (từ 56-57 Rubs/USD tháng 4-nửa đầu tháng 6 xuống còn 59-60 Rubs/USD nửa sau tháng 6-tháng 7) đã khuyến khích các nhà phân phối thu mua thép do giá xuất khẩu bằng đồng dolla cao hơn cho thấy giá mua theo đồng Rub thậm chí còn cao hơn.
Giá tấm mỏng được bán ở mức 35.635-36.110 Rubs/tấn (559-607 USD/tấn) cho loại 2mm và 34.930-35.400 Rubs/tấn (587-595 USD/tấn) cho loại 4mm giao tới Maxcova dã tính thuế, tăng 7%, tương đương 2.040 Rubs/tấn (34 USD/tấn) so với tuần trước và tháng trước. Do đó, giá HRC Maxcova hầu như ngang bằng giá xuất khẩu CIS.
Platts tăng giá tấm và cuộn cán nóng Nga thêm 2.000 Rubs/tấn (33.60 USD/tấn) so với tuần trước, đạt mức 29.600-30.300 Rubs/tấn (498-510 USD/tấn) và 29.000-29.700 Rubs/tấn (488-499 USD/tấn) CPT Maxcova.
Định giá phôi thanh CIS
Platts tăng giá xuất khẩu phôi thanh CIS thêm 1 USD/tấn, đạt mức 445 USD/tấn trong ngày thứ sáu.
Giá chào phôi thanh ở mức 455-560 USD/tấn FOB trong ngày thứ sáu và là mức giá cao nhất. Một khách hàng Ai Cập nghe có giá chào 455-460 USD/tấn CFR nhưng không có người mua.
Chào mua từ Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 460 USD/tấn CFR, tầm 445 USD/tấn FOB. Chào mua từ nhà máy Iskenderun là 455 USD/tấn CFR nhưng không được chấp nhận.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ cho biết giá chào đã tăng lên 450-455 USD/tấn FOB hồi đầu tuần nhưng chưa có đơn hàng.
Một thương nhân khác cho biết chào giá từ CIS ở mức 450 USD/tấn FOB, tương đương 465-468 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.
Định giá HRC EU
Platts vẫn duy trì giá HRC Tây bắc Âu tại mức 495-505 Euro/tấn (581.87-593.63 USD/tấn) xuất xưởng Ruhr trong ngày thứ sáu.
Trong khi thị trường đã vào mùa thấp điểm, giá giao dịch tầm 500 Euro/tấn cho đơn hàng giao tháng 9 và giá có thể tăng nữa.
Các nhà máy Tây Âu không chào dưới 510 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr còn các nhà máy cấp 1 chào tới 520 Euro/tấn.
Do Ý đã bắt đầu vào lễ nên hoạt động thu mua khan hiếm vì tồn kho vẫn cao.
Giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ ổn định sau các điều chỉnh tăng giá
Giá tấm mỏng Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung ổn định trong tuần qua sau các thông báo tăng giá.
Các nhà máy vẫn duy trì giá niêm yết HRC ở mức 530-540 USD/tấn trong tuần trong khi giá giao dịch thấp hơn 10 USD/tấn. Các đơn hàng bán tới các nhà máy ống thép ở mức thấp 515 USD/tấn xuất xưởng cho các đơn hàng lớn.
Giá chào từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục tăng và gần bằng với giá trong nước. Tuy nhiên, giá này bị người mua từ chối và có vẻ không được chấp nhận trong ngắn hạn.
Giá CRC Thổ Nhĩ Kỳ cũng ổn định trong mấy ngày nay. Một nhà máy ở Marmara vẫn giữ giá CRC trong nước ổn định tạ mức 630-640 USD/tấn xuất xưởng trong ngày thứ tư tùy thuộc vào khối lượng và điều kiện thanh toán trong khi giá niêm yết các nhà máy khác ổn định ở mức 630-650 USD/tấn xuất xưởng.
Giá chào HDG 0.5mm trong nước ổn định sau khi chạm mức 750-760 USD/tấn xuất xưởng trong khi loại 1mm ở mức 680-700 USD/tấn xuất xưởng. Giá chào xuất khẩu thấp hơn 15-20 USD/tấn với chiết khấu có sẵn cho các đơn hàng lớn trong bối cảnh tiêu thụ chậm chạp tại các thị trường xuất khẩu chính, đặc biệt là Châu Âu.
Giá chào tôn kẽm mạ màu PPGI 9002 0.5mm trong nước cũng ổn định ở mức 830-850 USD/tấn xuất xưởng.
Giá thép cây Châu Á tăng
Giá thép cây Châu Á tăng hôm thứ sáu với định giá của Platts cho thép cây BS500 đường kính 16-20mm tăng 5 USD/tấn, đạt mức 493-495 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Tại Hồng Kông, một giao dịch 10.000 tấn thép cây Ấn Độ chốt ở mức 500 USD/tấn cho đơn hàng giao tháng 9.
Tại Singapore, một đơn hàng thép cây Ấn Độ được nghe từ một thương nhân tuần qua, tầm 15.000-20.0000 tấn và cũng là lô hàng thép cây Ấn Độ đầu tiên được bán sang Singapore.
Trong tháng 7, tầm 60.000-100.000 tấn thép cây Ấn Độ được bán sang Đông Nam Á. Một thương nhân Trung Quốc nghĩ rằng vẫn chưa nhận được chào mua thép cây Ấn Độ từ Hồng Kông. Ông nghĩ mức giá có thể giao dịch là 490-500 USD/tấn CFR tùy thuộc vào các nhà máy. Giá chào mua 490 USD/tấn CFR là quá thấp cho thị trường hiện tại.
Các khách hàng Hồng Kông sẵn sàng trả 500 USD/tấn CFR cho thép Trung Quốc nhưng giá thấp nhất mà các nhà máy chấp nhận bán là 505 USD/tấn CFR (đơn hàng không tính thép cây 40mm), tương đương 495 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 10 USD/tấn.
Giá thấp nhất các nhà máy Trung Quốc chào bán là 515 USD/tấn CFR Hồng Kông (không chứa loại 40mm). Thép cây Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí cao hơn thép cây Trung Quốc. Một nhà máy khác giữ chào giá ở mức 490 USD/tấn FOB, tương đương 505 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Chào giá cho thép cây Ấn Độ ở Singapore tăng lên 500 USD/tấn CFR trong ngày thứ sáu. Giá chào mua thấp hơn 480 USD/tấn CFR Singapore dựa vào giá thép giao kỳ hạn Trung Quốc biến động. Một thương nhân nghĩ rằng các khách hàng Singapore chưa chấp nhận giá 480 USD/tấn CFR.
Giá HRC Thượng Hải tăng dù đơn hàng yếu
Giá giao ngay HRC Thượng Hải tăng trong ngày thứ sáu dù khối lượng giao dịch thấp.
Platts tăng giá HRC Q235 5.5mm thêm 20 NDT/tấn, đạt mức 3.770-3.790 NDT/tấn (559-562 USD/tấn) đã tính thuế.
Một thương nhân Thượng Hải cho biết vẫn duy trì giá HRC ổn định kể từ thứ tư tuần trước ở mức 3.790 NDT/tấn do dự báo giá tăng trong tuần đầu tháng 8. Tồn kho thấp sẽ hỗ trợ giá.
Trong ngày 27/7, tồn kho tại 33 thành phố lớn là 2.2 triệu tấn, giảm 18.400 tấn so với tuần trước đó.
Một nguồn tin vẫn giữ lập trường giá sẽ tăng. Do giá quặng tăng nên chi phí sản xuất cũng tăng, cộng với tồn kho thấp sẽ hậu thuẫn giá.
Giá HRC lên mức cao hơn 4 tháng tại Đông Á
Giá HRC Châu Á tăng ngày thứ hai liên tiếp trong ngày thứ sáu, chạm mức cao 4 tháng do vài khách hàng dần chấp nhận trả cao hơn. Platts tăng giá HRC SS400 3mm xuất khẩu Trung Quốc thêm 3 USD/tấn, đạt mức 508 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Giá cùng mặt hàng ở mức 518 USD/tấn CFR Đông Á, tăng 5.50 USD/tấn so với tuần trước. Tại Thượng Hải, giá HRC Q235 5.5mm ở mức 3.770-3.790 NDT/tấn (559-562 USD/tấn) xuất xưởng đã tính thuế, tăng 20 NDT/tấn so với thứ năm.
Một nhà máy ở phía đông đã bán hết HRC SS400 tại mức 512-518 USD/tấn CFR Hàn Quốc với phí vận chuyển 10 USD/tấn trong tuần trong khi giá giao dịch các nhà máy khác là 518 USD/tấn CFR Hàn Quốc.
Tuy nhiên, sức mua từ Hàn Quốc chậm lại do hè. Thực tế, vài khách hàng đã bắt đầu nghỉ hè.
Người mua từ các khu vực khác đang cố gắng đuổi theo giá Trung Quốc. Chỉ một nhà máy nhận được chào mua 500 USD/tấn FOB Trung Quốc cho tấm cán nóng SS400 và một thương nhân Việt Nam nghe chào mua tầm 515 USD/tấn CFR Việt Nam (phí vận chuyển 10 USD/tấn) cho thép cuộn SAE. Giá thép cuộn SAE 1006 2.0mm cao hơn HRC SS400 tầm 15 USD/tấn.
Giá chào từ Ấn Độ, Đài Loan và Nga cũng ở mức cao 540 USD/tấn CFR Việt Nam, 545 USD/tấn CFR Việt Nam và 510 USD/tấn FOB Biển Đen.
Bản tin than đá tuần: Thị trường ổn định do người mua chờ đợi
Thị trường than đá Châu Á-Thái Bình Dương ổn định trong tuần qua do người mua thận trọng và chọn cách chờ đợi.
Platts tăng giá quặng chất lượng cao xuất khẩu Úc thêm 3.50 USD/tấn, đạt mức 178.50 USD/tấn trong ngày thứ sáu.
Trong khi vẫn có mối quan tâm cho than đá chất lượng cao, hầu hết người mua do dự với giá trên 180 USD/tấn.
Do phần lớn các nhà máy thép Trung Quốc đã rút lui nên nhu cầu chuyển sang các thị trường ngoài Trung Quốc với vài người đang cần gấp nguyên liệu dựa vào nhu cầu cần tích trữ hàng hoặc thiếu hụt than đá ở Illawarra.
Mặc dù than đá nhập khẩu vẫn cao hơn giá than đá trong nước nhưng có khả năng cao rằng giá than đá nội địa Trung Quốc sẽ tăng. Giá nhập khẩu đã gần chạm đỉnh và không có nhiều áp lực suy yếu.
Trong phân khúc PCI, người mua dường như đã rút lui mặc dù có nhiều chào bán.
Trong khi đó, thị trường than đá nội đại Trung Quốc cải thiện với giá tăng tại Sơn Đông và có thể khuyến khích giá tại Đường Sơn và Hà Bắc tăng.
Bản tin quặng tuần: giá giảm theo giá thép giao kỳ hạn
Giá quặng đã tăng lên trên 70 USD/tấn hồi đầu tuần trước nhờ tâm lý thị trường lạc quan trước lợi nhuận thép mang lại trước khi giảm trở lại vào cuối tuần. Platts giảm giá quặng cám IODEX 62% sắt xuống 0.10 USD/tấn so với ngày trước, còn 69.55 USD/tấn CFR Bắc Trung Quốc vào hôm thứ sáu. So với tuần trước đó, giá nhích 1.6 USD/tấn.
Trong khi nhu cầu iêu thụ đầu tuần tốt thì sau đó lại xuất hiện tâm lý do dự trước sự giảm nhẹ của giá thép.
Các tin tức về tồn kho thép cây tăng tuần thứ hai liên tiếp cộng với tiêu thụ từ ngành xây dựng chậm lại cũng gây hoang mang cho người tiêu dùng.
Dù vậy, vẫn có nhiều lạc quan về tiêu thụ quặng sẽ tăng dựa vào lợi nhuận cao mà các nhà máy thép thu được lúc này.
Giá phôi thanh Đường Sơn đã tăng 20 NDT/tấn trong ngày thứ sáu lên 3.470 NDT/tấn (515.04 USD/tấn xuất xưởng. Lợi nhuận dự báo vẫn cao và tiếp tục hỗ trợ giá quặng trong ngắn hạn.
Trong khi đó, hoạt động thu mua quặng cục nhập khẩu im ắng do các nhà máy cân nhắc vì giá đắt đỏ. Giá than đá và than cốc luyện kim cũng tăng khiến cho hoạt động thu mua suy yếu.
Platts duy trì mức chênh lệch quặng cục giao ngay với quặng cám tại mức 0.221 USD/tấn trong ngày thứ tư so với tuần trước đó.
Các nhà máy tấm mỏng Mỹ tăng giá, người mua chờ đợi
Các nhà máy tấm mỏng Mỹ rất tự tin đẩy giá chào HRC lên 640 USD/tấn với thời gian giao hàng mở rộng ra tới tháng 9 nhưng người mua tránh đặt hàng tại mức này.
Hầu hết các nhà máy đều cóthể bán giá 620 USD/tấn cho đơn hàng tháng 8 nên có thể sẽ bán được giá 640 USD/tấn cho đơn hàng giao tháng 9, theo một nguồn tin dự báo.
Các nhà máy có thể bán được HRC giá tốt nhưng CRC và thép mạ đã suy yếu. Giá cơ bản cho các mặt hàng này vẫn là 790 USD/tấn. Tuy nhiên, theo các nguồn tin tuần qua báo cáo giá cơ bản cho CRC và HDG đã tới 840 USD/tấn.
Sự trì hoãn về quyết định áp dụng mục 232 cho hàng nhập khẩu đã gây khó khăn cho các nhà máy khi muốn tăng giá. Một trung tâm dịch vụ cho rằng không giống như những lần tăng giá trước, lần tăng giá mới nhất không thu hút người mua tăng tốc đặt hàng. Họ đã chọn cách chờ đợi.
Một thương nhân cho biết kết quả điều tra 232 sẽ tới sau các vấn đề sức khỏe, thuế và cơ sở hạ tầng khiến người mua lo lắng giá có thể giảm. Tuy nhiên, trong tháng 9 và 10, lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm mạnh và trợ giá.
Các nhà máy Mỹ khả năng sẽ giữ giá ở mức cao do bắt đầu thảo luận hợp đồng năm 2018 trong vòng 45-60 ngày tới.
Platts giữ giá HRC và CRC ổn định tại mức 620-630 USD/tấn và 790-810 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Giá thép cuộn CIS tăng do thâm hụt nguồn nguyên liệu
Giá thép cuộn CIS tiếp tục tăng do thị trường thế giới trải qua thâm hụt nhẹ trong khi hoạt động thu mua diễn ra mạnh và nguồn cung hạn chế từ Trung Quốc. Nhiều nhà máy rút khỏi thị trường do đã bán hết đơn hàng cho những tháng tới. Trung Quốc giảm xuất khẩu qua từng tháng và nguồn cung thế giới không đủ nếu thiếu thép cuộn Trung Quốc.
Các nhà máy Châu Âu đã thu được lợi nhuận khổng lồ và các phát biểu về nguồn cung quá mức hay cần thiết chống bán phá giá đã lạc hậu. Vấn đề mới là thiếu nguồn cung và giá cả vẫn cao mấy tháng qua. Giá HRC có thể sẽ tới 600 USD/tấn trong năm nay. Những ai không mua giá 500-510 USD/tấn hôm nay sẽ phải mua mức cao hơn sau này.
Một nguồn tin cho hay, có rất ít thép xuất khẩu từ Trung Quốc trong khi Thổ Nhĩ Kỳ cần thép nhưng Nga chuộng bán vào Đông Nam Á hơn vì giá tốt hơn. Các khách hàng Bắc Phi có thể chấp nhận giá 490 USD/tấn FOB Biển Đen trong khi giá có thể bán đã tăng lên 495-500 USD/tấn FOB Biển Đen.
Một thương nhân cho biết MMK Nga từ chối giá chào mua 510 USD/tấn FOB Biển Đen. MMK không có hàng xuất khẩu và thậm chí nhắm tới giá 515-520 USD/tấn FOB nhưng đây chỉ là giả thuyết vì không có hàng.
Các lô hàng phôi phiến CIS được chào bán ở mức cao 440 USD/tấn FOB Biển Đen trong khi phôi phiến Braxn có sẵn ở mức 400-405 USD/tấn FOB Braxin.
Giá HRC Nga ngang bằng với giá FOB Biển Đen. Với xu hướng tăng đều, các khách hàng Nga đang ra sức mua hàng vì dự báo giá sẽ tăng nữa. Nhu cầu tiêu thụ mạnh ở Nga được thổi phồng lên bởi các đầu cơ và các nhà máy đã hết hàng. Các nhà máy Nga có thể không chuộng xuất khẩu vì doanh thu bán ra trong nước cao hơn.
Trong ngày 28/7, Platts tăng giá HRC CIS lên 495-500 USD/tấn FOB Biển Đen, tăng 5 USD/tấn so với thứ năm. Giá CRC tăng 7.50 USD/tấn lên 535-540 USD/tấn. Giá phôi phiến CIS hàng tuần tăng 5 USD/tấn lên 415-420 USD/tấn FOB.
Giá phôi thanh Đông Nam Á tiếp tục tăng
Thị trường phôi thanh Đông Nam Á tiếp tục khởi sắc tuần qua nhờ tâm lý cải thiện trong bối cảnh ít chào giá từ Trung Quốc. Các thương nhân đang sôi nổi giao dịch trên thị trường.
Một thương nhân quốc tế gần đây đã mua 15.000 tấn phôi thanh 125mm Ấn Độ tại mức 445 USD/tấn FOB và chào bán lại ở mức 475 USD/tấn CFR Manila trong tuần. Dù có chào mua cùng mức nhưng lô hàng chưa được bán.
Trong ngày thứ năm, một lô hàng 5.000 tấn phôi thanh Q275 130mm từ Trung Quốc giao tháng 9/tháng 10 được bán ở mức 470 USD/tấn CFR Manila. Các thương nhân tin rằng lô hàng này được bán bởi một thương nhân. Thị trường không có tín hiệu suy yếu.
Các thương nhân đang dự trữ nguyên liệu vì sẽ không thể mua được thép khi tiến hành mua đi bán lại trong bối cảnh thị trường tăng trưởng hiện nay. Không có chào giá từ Trung Quốc vì tăng quá mạnh.
Các thương nhân đặt mua phôi thanh Đài Loan tại mức 465 FOB trong tuần và nghĩ rằng giá giao dịch sắp tới sẽ ở mức 470 USD/tấn FOB. Phí vận chuyển từ Đài Loan san Manila là 10-12 USD/tấn. Các thương nhân đang mua bán phôi thanh từ các nước Ấn Độ, Việt Nam và Đài Loan
Tại Indonesia, nhiều lô hàng phôi thanh 150mm Nga và Trung Đông được đặt mua tạ mức 460-465 USD/tấn CFR trong tuần. Một thương nhân cho biết đã nhận được giá tốt 465 USD/tấn CFR Indonesia trong khi chào giá ở mức 470 USD/tấn CFR và cao hơn.
Phôi thanh Việt Nam chào trên 470 USD/tấn CFR Indonesia. Tuy nhiên, giá trên cao so với mức người mua chụ trả, tầm 460-465 USD/tấn CFR.
Platts tăng giá phôi thanh 120/130mm CFR Đông Á lên mức 470-475 USD/tấn CFR.