Giá chào thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tới Mỹ tăng
Giá chào thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tới Mỹ tăng dựa theo đà tăng giá phế và đồng tiền nội tệ sau bầu cử. Platts đã tăng giá thép cây nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ lên mức 354-364 USD/tấn CIF Houston trong ngày thứ năm.
Giá nhập khẩu phế tăng 25 USD/tấn kể từ ngày 21/10 và thị trường thép cây nội địađã chứng kiến tiêu thụ khởi sắc. Tuy nhiên, các khách hàng Mỹ vẫn không quan tâm nhiều tới mức giá mới và đặt câu hỏi về tính bền vững của giá này.
Trong khi đó, giá thép cây tại Southeast Mỹ đạt mức 470-520 USD/tấn xuất xưởng. Mức giá này có thể gặp áp lực do giá chốt phế tháng 11 tuần này giảm 10-20 USD/tấn so với tháng 10.
Giá phế sụt giảm làm suy yếu niềm tin thị trường Mỹ
Các khách hàng trên thị trường thép cuộn Mỹ đang chờ đợi giá chạm đáy sau loạt tin xấu về giá phế giảm trong tháng 11.
Giá phế giảm từ mức 10-25 USD/tấn tùy thuộc vào loại phế và khu vực, gây áp lực cho niềm tin thị trường thép cuộn Mỹ, phát đi tín hiệu về đà giảm giá dài hạn trên thị trường thép cuộn. Platts vẫn giữ giá thép HRC tại mức 380-400 USD/tấn trong khi CRC tại mức 510-530 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Thị trường thép cuộn Mỹ cũng hướng tập trung tới các vụ kiện thương mại nhưng điều này phải mất tới một đoạn đường dài nữa.
Định giá phôi thanh CIS
Platts tăng giá phôi thanh Biển Đen lên thêm 4 USD/tấn, đạt mức 270 USD/tấn FOB Biển Đen. Trong khi phôi thanh Trung Quốc vẫn thấp thì phôi thanh Biển Đen được chuộng hơn vì giá phế tăng và tiện lợi.
Một công ty thép cho biết đã mua phôi thanh Biển Đen tại mức 270-275 USD/tấn FOB trong mấy ngày qua. Một thương nhân cho biết khối lượng thu mua tại mức giá này thường từ 60-000-80.000 tấn không thanh toán trước.
Nhiều nguồn tin cho biết một giao dịch 17.500 tấn giữa một nhà máy Ukraina và một khách hàng Ai Cập tại mức 270 USD/tấn FOB Biển Đen. Ai Cập có nhiều tiền ngoại tệ lưu thông trên thị trường hơn trong tuần này và đang tìm kiếm mua phôi thanh.
Giá dự thầu cho phôi thanh CIS gần đây đạt mức 270 USD/tấn FOB Biển Đen. Các nhà máy CIS đã tăng giá chào lên mức 280 USD/tấn FOB Biển Đen nhưng ít thu hút hơn vì khách hàng chỉ quan tâm giá 270 USD/tấn.
Nhà máy BMZ Belarus chào bán tại mức 280 USD/tấn FOB nhưng chưa có lô hàng nào chốt tại mức này. Một thương nhân nghe đâu có giá chào trên thị trường ở mức 270 USD/tấn FOB Mariupol và 275 USD/tấn FOB Novorossiysk nhưng không rõ về khối lượng và điều kiện giao dịch.
Thị trường phế Châu Âu suy yếu trong tháng 11
Triển vọng thị trường phế Châu Âu tháng 11 nhìn chung suy yếu với giá giảm từ 5-15 Euro/tấn so với tháng 10 tùy thuộc vào từng giao dịch và khu vực địa lý. Các nhà máy thép đã yêu cầu giảm giá phế dựa vào nhu cầu tiêu thụ trên thị trường thép thành phẩm thấp trong khi các nhà buôn phế đang cố gắng giữ giá bình ổn sau khi giá nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng.
Tại Đức, giá đạt mức 130-140 Euro/tấn, tương tự với giá tại Pháp. Gía tại Thụy Điển đã giảm còn 150 SEK/tấn (16 Euro/tấn) trong khi tại Ý đạt mức 150 Euro/tấn.
Các nhà máy thép đều yêu cầu giảm giá để duy trì lợi nhuận bán thép. Nhu cầu tiêu thụ thép thành phẩm vẫn rất yếu, đặc biệt là Nam Âu do bị cạnh tranh mạnh từ Trung Quốc nên các nhà máy thép không muốn trả cao cho phế.
Tuy nhiên, các nhà buôn phế vẫn muốn giữ giá bình ổn dựa trên giá nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ tăng trong 2 tuần qua thêm 20 USD/tấn. Tất cả mọi người đang để mắt tới thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Nếu Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục mua vào thì giá sẽ tăng và sẽ bù lại nhu cầu tiêu thụ thấp, đặc biệt trên thị trường Đức do các nhà buôn phế nước này có thể bán sang Thổ Nhĩ Kỳ giúp giảm áp lực cung trong nước. Dù vậy, giá phế tại Thổ Nhĩ Kỳ tăng chyur yếu do nhiều nhà máy thép bắt đầu mua vì hàng tồn thấp chứ không phải tâm lý thị trường đã cải thiện.
Sản lượng ống đúc của Trung Quốc giảm trong tháng 9
Theo số liệu gần đây được Cục Thống kê quốc gia công bố thì sản lượng ống đúc của Trung Quốc trong tháng 9 đạt 2,27 triệu tấn. Con số này chỉ tăng 1,2% so với tháng 8, nhưng thấp hơn 10% so với cùng kỳ 2014, cho thấy sức mua tiếp tục suy yếu trong năm nay.
Sản lượng tháng 9 đạt trung bình 75.533 tấn mỗi ngày, tăng 4% từ mức 72.226 tấn/ngày của tháng 8, theo số liệu từ NBS.
Tồn kho tại một nhà máy ở miền bắc đã tăng đáng kể (10%) trong hai tháng gần đây, vì sức mua trong nước không có sự cải thiện vào mùa cao điểm. Do đó, nhà máy tỏ ra thận trọng về việc tăng cường sản lượng nhiều hơn vì điều này sẽ chỉ khiến tồn kho nhà máy gia tăng. Thế nhưng, sản lượng không thể giảm mạnh trong tháng 11, vì các nhà máy phải đạt mức sản lượng hàng năm cũng như chỉ tiêu doanh số trước cuối năm nay.
Trong khi đó, sức mua ở nước ngoài cho thép ống đúc cũng quá suy yếu để dùng đến lượng thép dư thừa được xuất khẩu nhằm giảm bớt áp lực trong nước. Trong 3 quý đầu năm nay, cả nước đã xuất khẩu tổng cộng 3,45 triệu tấn ống đúc, giảm 12% so với năm ngoái.
Tại thị trường Thượng Hải tuần này, nhu cầu trì trệ và chào giá cho loại 20# 219x6mm (GB/T 8163) từ các nhà máy ở miền đông phổ biến ở mức 2.650-2.700 NDT/tấn (418-426 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT, thấp hơn 50 NDT/tấn (8 USD/tấn) cách đây 1 tháng.
NSSC duy trì giá CRC không gỉ nhưng lại nâng giá thép tấm cho tháng 11
Nippon Steel & Sumikin Stainless (NSSC) sẽ duy trì giá bán trong nước cho CRC austenite và ferrite đối với những hợp đồng tháng 11 nhưng sẽ tăng thêm 5.000 Yên/tấn (41 USD/tấn) cho thép tấm austenite.
NSSC giải thích rằng giá niken trung bình đã tăng 2 cents/lb trong tháng 10 so với tháng 9 lên 4,69 USD/lb và đồng Yên phục hồi 0.16 lên 1 USD đổi được 121,7 Yên. Do đó, phụ phí hợp kim sẽ tăng thêm thêm 5.000 Yên/tấn.
Tuy nhiên, vì giá ferrochrome trong 3 tháng cuối năm đã giảm 4 cents/lb xuống còn 112 USD/lb so với quý trước đó nên phí hợp kim cũng giảm 5.000 Yên/tấn.
“Chúng tôi đã và đang ưu tiên cho việc duy trì thị trường ổn định vì vậy chúng tôi đã giảm giá xuống 5.000 Yên/tấn cho CRC austenite và ferrite”. Công ty đã giữ giá CRC austenite không đổi kể từ tháng 02 và CRC ferrite từ tháng 5.
Công ty không tiết lộ giá niêm yết nhưng giá thị trường hiện nay cho CRC loại 304 dày 2mm ở Tokyo khoảng 315.000 Yên/tấn (2.603 USD/tấn), giảm 5.000 Yên/tấn cách đây 1 tháng. CRC loại 430 có giá 250.000 Yên/tấn (2.066 USD/tấn), không đổi so với 1 tháng trước.
Tuy nhiên, NSSC sẽ tăng thêm 5.000 Yên/tấn cho thép tấm vào tháng tới, vì phụ phí hợp kim tăng. Công ty đã giảm 10.000 Yên/tấn cho giá CRC austenite hồi tháng 10. “Giá thép tấm ổn định và việc thay đổi giá của chúng tôi sẽ không ảnh hưởng đến tình hình bởi vì khách hàng đã có đủ hàng dự trữ”, phát ngôn viên nhà máy cho biết thêm.
Giá thị trường cho HRC loại 304 dày trên 7mm ở Tokyo khoảng 510.000 Yên/tấn (4.214 USD/tấn), không đổi trong gần 10 tháng.
Định giá HRC EU
Platts giữ nguyên giá HRC Bắc Âu tại mức 330-340 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Các nhà máy lớn vẫn chào bán HRC tại mức 330-340 Euro/tấn xuất xưởng trong khi các nha máy Trung và Đông Âu chào bán tại mức 320-330 Euro/tấn xuất xưởng.
Giá nhập khẩu đạt mức 290-300 Euro/tấn nhưng không thu hút người mua do các nhà môi giới tiếp tục giữ sản lượng ở mức thấp hết sức có thể.
Thị trường HDG Thổ Nhĩ Kỳ vẫn trầm lắng sau bầu cử
Thị trường HDG và PPGI Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không có dấu hiệu cải thiện do bất ổn kinh tế ngăn cản giao dịch mặc dù cuộc bầu cử đã kết thúc thành công với tình hình chính trị bình ổn trở lại.
Hầu hết khách hàng chỉ mua vào lượng nhỏ đủ dùng do tỷ giá biến động trở lại sau 2 ngày niềm tin thị trường lạc quan sau bầu cử. Do đó, giá HDG Thổ Nhĩ Kỳ vẫn gặp áp lực tiêu thụ thấp, tài chính thiếu hụt và giá HRC tiếp tục giảm. Nhu cầu tiêu thụ thấp từ thị trường xuất khẩu trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ ngoài nước cũng tiếp tục gây áp lực cho giá HDG của các nhà máy nội địa. Giá xuất khẩu HDG 0.5mm bình ổn tại mức thấp 530-550 USD/tấn FOB trong ngày thứ năm.
Các nhà máy cũng đang cố gắng duy trì giá niêm yết HDG 0.5mm nội địa tại mức 540-560 USD/tấn xuất xưởng tuần này trong khi PPGI 9002 0.5mm bình ổn tại mức 630-650 USD/tấn xuất xưởng.
Tuy nhiên, vài nguồn tin dự báo nhu cầu tiêu thụ thép mạ phục hồi trong các tuần tới do hàng tồn nhìn chung thấp nhưng giá không thể phục hồi mạnh trong ngắn hạn.
Thép cây Châu Á dao động ở mốc thấp kỷ lục
Giá thép cây giao ngay ở Châu Á duy trì không đổi hôm thứ Năm do người mua đang đợi các nhà máy xuất khẩu Trung Quốc hạ giá thêm một lần nữa. Nhưng các nhà cung cấp hầu hết đều giữ giá ổn định vì phải đang chật vật để thẩm thấu khoản lỗ mà họ đã gánh chịu khi xuất khẩu với giá trước đây thấp hơn trong nước.
Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm ở Châu Á không đổi so với ngày trước đó và giữ ở mức 253-255 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, mức giá trung bình 254 USD/tấn FOB. Đây vẫn là mốc thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá hồi tháng 11/2006.
Có tin đồn trên thị trường về một chào giá 260 USD/tấn CFR Hong Kong trọng lượng thực tế (tương đương 247 USD/tấn FOB với phí vận chuyển 13 USD/tấn), nhưng ngay bây giờ, các nhà máy lớn lại không có tâm trạng để thỏa hiệp và giảm giá. Một nhà tích trữ ở đây không tin là có bất cứ nhà máy nào chào giá dưới 270 USD/tấn CFR vào lúc này.
“Các nhà máy sẽ chỉ chờ xem”. Nhưng ông dự báo để chốt được đơn hàng thì các nhà máy xuất khẩu của Trung Quốc sẽ phải giảm giá của họ một lần nữa cùng với giá quặng sắt suy yếu hơn gần đây. Công ty ông vẫn duy trì giá mua ở mức 260 USD/tấn CFR nhưng vẫn chưa chốt được bất cứ hợp đồng nào.
Tại Singapore, các thương nhân có thể chào giá 255 USD/tấn CFR cho những lô hàng giao cuối tháng 01 trọng lượng lý thuyết, tương đương 247 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, với phí vận chuyển khoảng 15 USD/tấn và dung sai khối lượng 3%. Nhưng mức giá này không được đưa vào định giá của Platts vì nằm ngoài thời gian theo dõi.
Chào giá thấp nhất nghe nói từ các nhà máy xuất khẩu của Trung Quốc là khoảng 255 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.
Giá phế Midwest, Southeast giảm nhưng giá ngoài vịnh ổn định
Giá phế tại Midwest và Southeast giảm trong tháng 11 trong khi giá phế tại bờ Vịnh ổn định. Xuất khẩu ổn định tại bờ vịnh giúp hỗ trợ giá phế song nhu cầu tiêu thụ yếu trong nước và nguồn cung phế chất lượng cao kéo giá Midwest giảm.
Thị trường Chicago và Detroit chịu áp lực từ nhu cầu tiêu thụ suy yếu và các nhà máy thép có thể giảm giá thu mua xuống 15-20 USD/tấn so với tháng 10. Gía phế cắt và chất lượng cao giảm 20 USD/tấn còn phế vụn giảm 15 USD/tấn. Giá phế busheling tại Detroit giảm 20 USD/tấn còn 155-160 USD/tấn và phế vụn giảm 15-20 USD/tấn còn 160-170 USD/tấn. Platts giảm giá phế vụn Midwest xuống 15 USD/tấn còn 160-170 USD/tấn đã tính phí giao hàng.
Trong khi đó, phế chất lượng cao giảm mạnh hơn hẳn các loại phế khác ở hầu hết mọi khu vực do chịu tác động từ môi trường giá thấp. Tại Southeast, phế cắt và phế vụn giảm 10-15 USD/tấn và phế chất lượng cao giảm 15-25 US/tấn.
Thép cây ổn định ở miền bắc Trung Quốc, tồn kho thấp
Giá thép cây giao ngay ở miền bắc Trung Quốc về cơ bản vẫn không đổi trong ngày thứ Năm do lượng tồn kho trên thị trường thấp. Giá đã “bốc hơi” khoảng 15 NDT/tấn (2 USD/tấn) trong tuần này sau khi phục hồi 60 NDT/tấn trong tuần trước.
Tại thị trường bán lẻ của Bắc Kinh hôm 05/11, giá giao ngay của thép cây HRB400 đường kính 18-25mm từ Hegang được định giá 1.930-1.950 NDT/tấn (304-307 USD/tấn) trọng lượng thực tế gồm 17% VAT, bằng với giá hôm thứ tư.
Giá một số loại thép cây trong đó có loại đường kính dưới 16mm và trên 25mm đã giảm 5-10 NDT/tấn so với ngày trước đó, do sức mua chậm.
Xét về loại thép mà Platts định giá thì giá vẫn duy trì ổn định vì hầu hết các thương nhân đều có lượng hàng tồn kho thấp, mặc dù việc mua vào vẫn còn yếu. Do vậy một số người thậm chí đã chào giá cao hơn cho các loại thép có thông số này mà họ không còn hàng tồn.
Trong khi đó, tâm lý thị trường bị ảnh hưởng bởi giá phôi thanh liên tục lao dốc. Cụ thể, tại thành phố Đường Sơn, phôi thanh đã giảm tổng cộng 60 NDT/tấn kể từ đầu tháng này.
Hôm thứ Năm, hợp đồng thép cây giao kỳ hạn tháng 5 trên sàn Shanghai Futures Exchange được chốt tại 1.776 NDT/tấn, giảm 4 NDT/tấn tức 0,22% so với ngày giao dịch trước đó. Mức giá này cũng đã từng chạm đến hồi ngày 3/11, đây là mốc thấp nhất kể từ khi hợp đồng được ra mắt hồi tháng 3/2009.
HRC Châu Á ổn định trong bối cảnh giá Trung Quốc sụt giảm
Hôm thứ Năm, giá HRC giao ngay ở Châu Á vẫn duy trì không đổi trong ngày thứ ba liên tiếp, do các nhà máy phản đối việc giảm giá thêm nữa. Tuy nhiên, giá tại thị trường Trung Quốc đã lao dốc do phôi thanh và giá tương lai suy yếu hơn.
Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 260-265 USD/tấn FOB, mức giá trung bình 262,5 USD/tấn, bằng với ngày trước đó. Trong khi đó, tại thị trường Thượng Hải, HRC Q235 5.5mm được định giá 1.850-1.860 NDT/tấn (292-293 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Năm, giảm 10 NDT/tấn so với ngày thứ Tư.
Mức giá giao dịch phổ biến của HRC SS400 là 260-265 USD/tấn FOB. Một nhà xuất khẩu cho biết ông đã chốt giao dịch ở mức 260-265 USD/tấn FOB, nhưng từ chối tiết lộ thêm chi tiết về đơn hàng này.
Mặc dù đơn hàng ở nước ngoài trì trệ nhưng các nhà máy vẫn khăng khăng duy trì giá ít nhất là 260-265 USD/tấn FOB. Một nhà máy cho biết họ không muốn hạ giá xuống thêm bất cứ mức nào bởi vì không thể lỗ nhiều hơn nữa.
Một khách hàng ở Saudi Arabia đã đặt mua với giá chỉ 250 USD/tấn FOB. “Giá có lẽ sẽ rớt xuống 200 USD/tấn FOB vào ngày mai”, vì giá nguyên liệu như quặng sắt và phôi thanh có khả năng sụt giảm. Giá xuất khẩu của Trung Quốc có thể sẽ rớt xuống dưới mốc 200 USD/tấn trong năm tới.
Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết vào mùa đông sức mua sẽ hạn chế hơn từ tháng 11, do hoạt động xây dựng chậm lại. Điều này sẽ dẫn đến sự sụt giảm của giá HRC trong nước, trừ phi các nhà máy lớn bắt đầu giảm bớt sản lượng. “Giá xuất khẩu cũng sẽ bị kéo xuống thêm nữa nếu như thị trường nội địa tiếp tục suy yếu”.
Một thương nhân khác dự báo sản lượng HRC sẽ giảm trong tháng 11 vì các nhà máy tìm cách cắt giảm thua lỗ, nhưng nhấn mạnh rằng sức mua có thể thu hẹp lại thậm chí nhiều hơn, khiến cho giá HRC khó mà nhìn thấy được sự bình ổn nào.
Thép cuộn loại cán lại, nghe nói một giao dịch 10.000 tấn từ Baosteel được chốt ở mức 280 USD/tấn CFR Hàn Quốc trong tuần này để giao tháng 12. Một giao dịch 5.000 tấn từ Benxi Iron & Steel đang được chốt với giá 275 USD/tấn CFR Việt Nam trong tuần trước, giao tháng 12.
Các chào giá của Trung Quốc cho thép cuộn SAE1006 2.0mm duy trì ổn định ở mức 272-280 USD/tấn CFR Việt Nam.