Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thế giới ngày 9/10/2013

Giá tấm mỏng Mỹ vẫn theo hướng đi ngang, các khách hàng chỉ mua cầm chừng

Mặc dù các nhà máy đã đồng loạt đưa ra thông báo nâng giá tấm mỏng và kiên quyết giữ mức giá mới này nhưng theo giá niêm yết Platts cho đến ngày hôm qua (08/10) giá vẫn chưa thay đổi do các khách hàng chỉ mua rất ít hoặc rời khỏi thị trường khi giá cao hơn.

“Việc tăng giá lần này đã khiến ông chỉ mua đủ cho nhu cầu hiện tại mà thôi. Các nhà máy có lẽ sẽ đạt được một phần khi tăng giá CRC và thép cuộn đã mạ nhưng tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu như họ đạt được mức giá tăng mới đối với HRC”, một nhà phân phối nói.

Đại diện một nhà máy hàng đầu ở đây nói rằng giá mua của HDG tương đương với CRC tại 750 USD/tấn ngắn. Mức giá này cũng tương tự với giá 745-755 USD/tấn ngắn tại Platts. HRC cũng không đổi vẫn duy trì tại 640-650 USD/tấn ngắn. Tất cả các giá trên đều xuất xưởng từ khu vực Trung Tây (Indiana).

Một nhà phân phối thứ hai cho biết hầu hết các nhà máy hợp nhất hàng đầu đều không có nhiều đơn hàng giao ngay để cung cấp, trong khi đó các nhà máy với quy mô nhỏ đang hưởng nhiều lợi nhuận và không có mục tiêu nâng giá bán.

“Đối với quan điểm của các nhà máy có quy mô nhỏ thì đó là khoản lợi nhuận cao nhất mà họ có được trong cả năm và có lẽ là trong hai năm nên họ sẽ không bỏ qua cơ hội kinh doanh này đâu”, ông nói.

Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ nâng giá mua phế nội địa

Một số nhà máy ở Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục điều chỉnh giá mua phế trong nước, nguyên nhân chủ yếu là do sự biến động của tỷ giá khi sắp tới lễ Eid.

Colakoglu đã nâng giá thu mua phế DKP thêm 10 TRY/tấn lên 720 TRY/tấn (362 USD/tấn), áp dụng từ ngày 06/10; đồng thời Asil Celik cũng tăng giá mua phế này lên mức tương tự.

Hôm 28/9, Kardemir đã giảm 25 TRY/tấn trên giá mua phế DKP còn 745TRY/tấn (374 USD/tấn), Erdemir cũng giảm 20 TRY/tấn còn 750 TRY/tấn (377 USD/tấn) vào ngày 25/9. Các nhà máy này có thể phải nâng giá thu mua phế của họ lên sau lễ Eid vì khi đó nhu cầu phế gia tăng và giá phế nhập khẩu cũng cao hơn.

Trong khi đó, giá phế từ tàu cũ vẫn không đổi trong tuần này. giá mua của Ege Celik không đổi từ tuần trước vẫn là 355 USD/tấn. Phế nấu chảy từ tàu cũ được chào bán tới các nhà máy khác ở miền Tây Thổ Nhĩ Kỳ với giá dao động quanh 360-365 USD/tấn gồm phí vận chuyển, Platts biết được từ Hiệp hội các nhà tái chế tàu cũ của Thổ Nhĩ Kỳ (Gemisander).

Giá thép ống trong nước và xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đều giảm do lực mua yếu

Giá thép ống hàn trong nước và xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ đều mất khoảng 10 USD/tấn kể từ cuối tháng 09 theo đà giảm giá HRC cũng như lực mua yếu.

“Sự biến động tỷ giá hối đoái và giảm đầu tư vào cơ sở hạ tầng đã kéo nhu cầu trong nước giảm xuống mức thấp, trong khi đó thị trường xuất khẩu cũng khá trì trệ. Giá nguyên vật liệu hạ nhiệt đang làm giảm bớt áp lực lên việc niêm yết giá; tuy nhiên, hầu hết những người mua đều muốn trì hoãn việc đặt hàng do họ dự đoán là giá sẽ tiếp tục được điều chỉnh theo hướng đi xuống trong vài tuần tới”, một nhà phân tích nói.

Hiện nay, giá xuất xưởng của thép ống cán nóng ERW loại S235 dày 2-4mm là 660-680 USD/tấn ở thị trường trong nước; còn thép ống cán nguội ERW loại dày 1.2-1.5mm có giá 740-790 USD/tấn, hai mức giá này đều thấp hơn 10 USD/tấn so với tháng 09.

Giá xuất khẩu cũng giảm khoảng 10 USD/tấn. Cụ thể, thép ống hàn cán nguội loại S235 dày 2mm đường kính 48mm có giá 710-730 USD/tấn FOB. Loại S275 với kích thước tương tự có giá 740-760 USD/tấn FOB, S355 thì chốt tại 770-790 USD/tấn FOB. Tất cả các giá này đều tính trên trọng lượng thực tế.

Sản lượng thép ống xuất khẩu trong tháng 09 đạt 173.812 tấn, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 150 triệu USD, tăng 1,2%.

Trong đó, Iraq vẫn là thị trường xuất khẩu chính của nước này trong tháng 09, đạt 42.091  tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2012. Xuất khẩu sang Mỹ trong tháng 09 cũng tăng lên 33.665 tấn sau khi giảm trong tháng 08. Đứng thứ ba là Romania với 23.630 tấn, tăng 111%, còn xuất khẩu sang Algeria lại giảm 43% chỉ có 7.408 tấn. Xuất khẩu tới Anh giảm 2,3% xuống còn 16.312 tấn, xuất sang Pháp tăng 25% đạt 7.194 tấn, theo số liệu của Hiệp hội các nhà sản xuất thép ống Thổ Nhĩ Kỳ.

Chào giá xuất khẩu HRC-CRC từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ không đổi, sức mua yếu

Các chào giá HRC và CRC từ CIS tới Thổ Nhĩ Kỳ vẫn không đổi từ giữa tháng 09 cho đến nay, mặc dù sức mua yếu dẫn đến giá trong nước giảm khi sắp diễn ra lễ Eid vào tuần tới.

Các nhà máy Ukraina hiện đang chào bán HRC với giá khoảng 545-555 USD/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ, còn chào giá của Nga vẫn không đổi so với tuần trước tại 560-570 USD/tấn CFR. Chào giá CRC từ Ukraina và Nga cũng vẫn duy trì lần lượt tại 630-635 USD/tấn CFR và 645-655 USD/tấn CFR, tuy nhiên nhu cầu tiêu thụ vẫn chậm.

“Nhu cầu tiêu dùng trực tiếp đối với HRC và cả CRC tại Thổ Nhĩ Kỳ đều suy yếu, chúng tôi không muốn bước vào kỳ nghỉ lễ này với lượng hàng tồn cao nên sẽ trì hoãn lại việc đặt mua. Tuy nhiên, nếu giá của các nhà máy ở CIS giảm ít nhất thêm 10 USD/tấn nữa trong tuần tới cùng với giá trong nước thì có thể chúng tôi sẽ mua, do thị trường trong nước được dự đoán là sẽ có sự cải thiện nhẹ sau lễ Eid”, một nhà phân phối nói.

Các nhà máy trong nước hiện đang chào bán HRC và CRC tháng 11 với giá lần lượt là 585-600 USD/tấn xuất xưởng và 690-710 USD/tấn xuất xưởng. HDG dày 0.5mm có giá 790-810 USD/tấn xuất xưởng; PPGI 9002 dày 0.5mm vẫn chốt tại 990-1.020 USD/tấn xuất xưởng, thanh toán trong vòng 30 ngày, không thay đổi kể từ tuần trước.

Các nhà nhập khẩu Việt Nam hoãn nhập hàng do thị trường HRC trầm lắng

Theo nguồn tin cho biết, các nhà nhập khẩu Việt Nam đã hoãn việc nhập thêm hàng HRC trong tuần qua để chờ xem dxu hướng thị trường Trung Quốc sẽ như thế nào sau Lễ.

Người mua đang chờ  do họ nghĩ rằng giá sẽ hạ thêm nữa”, một nhà nhập khẩu Việt Nma cho hay. Ông cũng nói rằng các nguồn HRC nhập khẩu khác không gây ảnh hưởng lớn do hàng Trung Quốc có tính cạnh tranh cao nhất trong nước.

Được biết, giá chào bán HRC SAE 1006B 2mm  từ Trung Quốc đạt mức 550 USD/tấn CFR , không đổi so với cuối tháng 9.

Trong khi đó, giá chào bán các lô hàng HRC giao giữa tháng 11 và đầu tháng 12 đạt mức 555 USD/tấn CFR Việt Nam. Trong tuần trước, ,ột nhà nhập khẩu Việt Nam đã dấu thầu lô hàng HRC Ấn Độ giao tháng 11 ở mức giá 550 USD/tấn CFR, tuy nhiên, nhà xuất khẩu Ấn đã không chấp nhận. Cũng có thông tin về đấu thầu lô hàng HRC SAE 1006 2mm của Nhật tại mức giá 575 USD/tấn CFR nhưng không có giao dịch diễn ra.

Giá chào từ Đài Loan và Nhật Bản cho cùng mặt hàng trên đạt mức 580-590 USD/tấn CFR Việt Nam.

 Giá thép tấm Nhật tăng do nhu cầu cải thiện

Được biết, giá thép tấm hạng nặng Nhật đã tăng lên do nhu cầu tiêu thụ được cải thiện trong bối cảnh nguồn cung hạn chế, và hầu như các nhà phân phối dự báo giá mặt hàng này sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới

Hiện tại, giá thép tấm SS400 19mm thick (1,524x3,480mm) tại Tokyo đạt mức  82.000-84.000 Yên/tấn (845-866 USD/tấn). Đối với mặt hàng thép tấm thương phẩm không phân loại, giá đạt mức 78.000-80.000 Yên/tấn. Như vậy, gái cả hai mặt hàngnày đều đã nhích thêm 1.000 Yên/tấn (10 USD/tấn) so với đầu tháng 10.

“ Hầu như các nhà phân phối đều đã tăng giá thêm 2.000 Yên/tấn hồi đầu tháng 10. Chusngt ôi tin rằng mức tăng thêm 1.000 Yên/tấn  cũng có thể được các khách hàng chấp nhận sớm do các đơn hàng đã tăng”, một nhà phân phối thép tại Tokyo cho hay.

Một thương nhân khác tại miền tây Nhật Bản nhạn định, đồng Yên suy yếu đã ngăn cản hàng nhập khẩu vào nước, hỗ trợ sự cân bằng cung- cầu.” Chúng tôi tin rằng đây là cơ hội tốt để tăng giá, do vậy, các nhà phân phối nên tiếp tục nỗ lực tăng giá thép”, thương nhân này nhận định.

Trong tháng 8, Nhật đã nhập khẩu 26.753 tấn thép tâm hạng nặng, giảm 25.5% so với tháng 7 và 29.6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 23.268 tấn, tương đương với 87%, thấp hơn tháng 7 29.9% và cùng kỳ năm ngoái 32.6%.

 Thổ Nhĩ Kỳ: Lợi nhuận bán thép cây của các nhà máy giảm đáng kể khi giá phế đắt đỏ

Lợi nhuận của các nhà sản xuất thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đang bị giảm xuống khi quý IV bắt đầu, do chênh lệch giữa giá phế nhập khẩu và thép cây xuất khẩu thu hẹp lại, theo như Platts quan sát từ các giao dịch trên thị trường.

Từ đầu tháng 04 đến đầu tháng 09, các nhà sản xuất thép ở đây có thể điều chỉnh sự chênh lệch giữa giá phế (HMS 1&2 80:20 CFR Thổ Nhĩ Kỳ) và thép cây (FOB Thổ Nhĩ Kỳ) khoảng 210-230 USD/tấn. Nhưng hiện nay khoảng cách này đã thu hẹp lại chỉ còn 202-211 USD/tấn do giá phế “leo thang” trong khi nhu cầu tiêu thụ thép cây ở các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ vẫn theo hướng đi ngang.

Hôm thứ Ba, các nhà sản xuất thép trong nước đưa ra giá bán quanh mức 575-580 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ, đối với các lô nhỏ hơn giao tới thương nhân ở Istanbul, và giá thấp hơn khi bán cho các nhà tích trữ ở Ả Rập Saudi, Yemen và UAE, Platts nghe nói từ những người tham gia trên thị trường.

Hôm thứ Ba, Platts đã nâng giá thép cây thêm 3 USD/tấn lên 575 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù có rất ít giao dịch được thực hiện ở mức giá này nhưng việc giá phế gần đây tăng đã làm các nhà sản xuất kiên quyết giữ giá bán của mình.

Hôm thứ Hai tuần này, giá phế đã tăng 4 USD/tấn, cụ thể một lô phế chất lượng cao được bán với giá tầm 370-379 USD/tấn CFR. “Chúng tôi không tin là các nhà máy ở Thổ Nhĩ Kỳ không có lời, mà chỉ là lời ít hơn thôi”, một nhà nhập khẩu phế nói.

Hầu hết các giao dịch thép cây với khu vực Trung Đông được dự đoán là sẽ diễn ra khi người mua quay lại thị trường sau lễ Eid. Còn ở thị trường Viễn Đông, giá thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ lại bị cạnh tranh bởi Trung Quốc: một lô hàng trọng tải 10.000 tấn của Trung Quốc được bán tới Myanmar với giá 535 USD/tấn CFR Yangon, thấp hơn 50 USD/tấn so với giá FOB Thổ Nhĩ Kỳ.

Những người mua ở Lebanon đang đặt mua hàng của Trung Quốc và hiện nay đang đợi các chào giá mới từ nước này sau đợt nghỉ lễ trong tuần trước, sở dĩ họ chọn mua hàng của Trung Quốc là vì giá rẻ hơn đáng kể so với thép cây của Thổ Nhĩ Kỳ.

Giá thép ống không hàn miền ĐôngTrung Quốc ổn định do giao dịch lắng xuống sau Bão

Theo nguồn tin cho biết, giá thép ống không hàn giao ngay tại thị trường Thượng Hải vẫn ổn định trong ngày 8/10.Tuy nhiên, sức mua đã bị ảnh hưởng bởi cơn bão Fitow đổ bộ vào miền Đông Trung Quốc hôm thứ hai.

Trong ngày hôm qua (8/10), các thương nhân Thượng Hải đã chào bán thép ống không hàn 20# 219x6mm (GB/T 8163) tại mức giá 4.300-4.350 NDT/tấn (703-711 USD/tấn) đã gồm 17% VAT , không  đổi so với ngày 27/9.

Nhu cầu tiêu thụ từ các nhà dùng cuối cũng không hề có dấu hiệu tăng lên sau Lễ do ảnh hưởng từ các cơn mưa lớn tại thành phố hôm thứ hai.

Thêm vào đó, giá thép  ống không hàn trên thị trường cũng đang chịu phải sức ép giảm giá xuất xưởng từ các nhà máy trong khu vực.

Nhiều nhà máy thép ống tại thành phố Lâm Nghi cũng đã hạ giá xuất xưởng xuống thêm 50 NDT/tấn do giá thép tròn đặc suy yếu.

Trong ngày 1/10, các nhà máy tại miền Đông Trung Quốc đã công bố giá xuất xưởng mới đối với mặt hàng thép tròn đặc giao ngày 1-11/10 , trong đó, đa phần là hạ giá xuống cùng với chính sách cắt giảm giá thép dài. Nhà máy Huaigang Special Steel đã cắt giảm giá thép tròn đặc 20# 41-60mm giao ngày 1-11/10 thêm 80 NDT/tấn (13 USD/tấn) xuống còn 3.630 NDT/tấn (593 usd/tấn) xuất xưởng đã gồm 175 VAT.

Trong khi đó, hai nhà máy khác là  Zenith Steel Group and Changqiang Iron & Steel lại duy trì giá không đổi ở mức 3.680 NDT/tấn và 3.630 NDT/tấn đã gồm VAT đối với cùng mặt hàng trên.

 Nhà máy Shagang thông báo cắt giảm giá HRC tháng 10, thị trường giao ngay nội địa u ám

Theo nguồn tin cho biết, nhà máy Shagang đã thông báo cắt giảm giá HRC thnags 10 thêm 200 NDT/tấn. Tương tự, nhà máy này cũng điều chỉnh giá thép tấm hạ xuống thêm 150 NDT/tấn trong ngày đầu tháng 10. Chính sách giá mới của nhà máy này đã gây chán nản đến tâm lý thị trường thép mặc dù giá giao ngay vẫn ổn định.

Sau khi điều chỉnh, giá các mặt hàng HRC Q235 5.5mm và HRC SPHC 3.0mm đã giảm lần lượt xuống còn 3.550 NDT/tấn và 3.600 NDT/tấn trong khi giá thép tấm đạt mức 3.550 NDT/tấn đã gồm VAT.

Được biết, đây là lần cắt giảm giá đầu tiên của nhà máy Shagang sau 3 tháng tăng thành công trước đó. Lần hạ giá này đã không nằm ngoài dự kiến do giá xuất xưởng của nhà máy này trong tháng  9 đã nhích hơn 200 NDT/tấn so với giá thị trường.

Một thương nhân lớn tại Thượng Hải cho biết, các giuao dịch trong ngày thứ ba (8/10), ngày hoạt động đầu tiên sau Lễ diễn ra chậm, cũng một phần do thời tiết ẩm ướt sau cơn bão Fitow đã cản trở các giao dịch.

Trong khi đó, một thương nhân lớn khác tại Le Cong cho hay, một số công ty đã trở lại hoạt động kinh doanh vào 2 ngày cuối của kỳ nghỉ Lễ trong khi số khác vẫn mở cửa trong Lễ để phòng trường hợp có người  đặt hàng. Hiện tại, hàng tồn kho tại khu vực cũng đã giảm.    

Trong ngày 8/10, giá HRC Q235 5.5MM tại thị trường Thượng Hải đạt mức 3.470-3.500 NDT/tấn đã gồm VAT, trong khi giá tại Le Cong đạt mức 3.580-3.600 NDT/tấn, bình ổn so với trước Lễ.

 

Phôi thanh CIS tăng giá, thời gian giao hàng kéo dài

Các chào giá phôi thanh CIS trong tuần này tăng lên, sau đợt tăng 4 USD/tấn đối với phế xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Hai, mặc dù cũng có rất ít giao dịch được ghi nhận là vẫn giữ nguyên mức giá đặt mua tại 500 USD/tấn FOB Biển Đen.

Trong tuần này đã có nhiều đơn đặt hàng hơn của Thổ Nhĩ Kỳ, một nhà cán lại ở Ả Rập Saudi muốn mua phôi thanh chứa nhiều mangan cũng đang tìm kiếm hàng giao tháng 11. Giá đặt mua của Thổ Nhĩ Kỳ dao động quanh mức 495-497 USD/tấn FOB Biển Đen, còn các thương nhân và nhà sản xuất vẫn đang muốn bán hàng giao tháng 11 với giá ít nhất là 500 USD/tấn FOB.

Platts nâng giá phôi thanh thêm 1,5 USD/tấn lên 498,50 USD/tấn FOB Biển Đen theo sự tăng giá chào bán và chào mua, mặc dù vẫn chưa có giao dịch nào được ghi nhận ở mức giá mới này.

Các thương nhân đang chào giá sang Ai Cập khoảng 525 USD/tấn CIF Alexandria đối với hàng giao tháng 10 và tháng 11 mặc dù một số thương nhân chỉ bán khi thư tín dụng (L/C) của Ai Cập được đảm bảo bởi một ngân hàng Châu Âu hay Thụy Sĩ. Còn thép bán thành phẩm và thành phẩm xuất khẩu tới Ai Cập, các thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông cũng đang yêu cầu thanh toán 10-20% bằng tiền mặt.

Nhà cán lại Saudi hi vọng là có thể duy trì được giá mua tại 525 USD/tấn CFR Yanbu, được xem là thấp hơn đáng kể so với giá đặt mua của Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập tính theo giá FOB. Mức giá đặt mua thấp có thể là do giá thép cây ở thị trường nội địa Saudi đã giảm ít nhất 50 USD/tấn trong thời gian gần đây.

Các chào giá phôi thanh của Ấn Độ tiếp tục được gởi tới các nhà cán lại Kenya do sự suy yếu của đồng rupee và sức mua trong nước chậm lại, các thương nhân đang chào bán tới Đông Phi với điều kiện trả chậm. Giá chào bán chốt tại 555-570 USD/tấn CFR Mombasa.

Thị trường ở khu vực Vịnh Ba Tư vẫn khá im ắng mặc dù nghe nói đã có một giao dịch tới nhà máy thép có giá gần 500 USD/tấn FOB Nga với khối lượng khoảng 40.000-45.000 tấn.

Các nhà máy ở CIS hầu như đã đặt mua xong hàng giao tháng 11 và các thương nhân cũng không vội dỡ hàng xuống. Một nhà máy đã từ chối cung cấp sản lượng trong tháng này do giá phế tăng cao. tuy nhiên khi được hỏi về vấn đề này nhà máy không đưa ra lời bình luận nào.

Giá thép cây miền Bắc Trung Quốc ổn định, triển vọng thị trường sau Lễ ảm đạm

 Trong ngày hôm qua (8/10), giá thép cây giao ngay tại miền Bắc Trung Quốc gần như bình ổn. Tuy nhiên, giá thép cây giao kỳ hạn tháng 1/2014 tại sàn ShangHai Future Exchange lại tăng thêm 0.33%, đạt mức 3.599 NDT/tấn (588 USD/tấn) từ mức thấp nhất 3 tháng 3.542 NDT/tấn trước đó.

Tại thị trường giao ngay Bắc Kinh, trong ngày 8/10, giá thép  cây HRB400 18-25mm do nhà máy Hegangs ản xuất đạt mức 3.370-3.380 NDT/tấn (551-552 USD/tấn) đã gồm 17% VAT, không đổi so với trước lễ. Tuy nhiên, giá hiện tại vẫn thấp hơn giá đầu tháng 9 là 180 NDT/tấn (29 USD/tấn).

“Trong ngày hôm nay, doanh số bán ra đã tăng lên do các khách hàng thu mua trở lại sau lễ cho các hoạt động xây dựng”, một thương nhân Bắc Kinh cho hay. Thương nhân này đã nâng giá chào thêm 20 NDT/tấn (3 USD/tấn), đạt mức 3.990 NDT/tấn (554 USD/tấn) đối với mặt hàng thép cây HRB400 do nhà máy Hegang sản xuất dựa vào hỗ trợ từ hàng tồn kho thấp.

Một thương nhân khác cho biết công ty Ông đã tăng giá bán thêm 10 NDT/tấn cho cùng mặt hàng trên trong khi vaanxduy trì bình ổn đối với các mặt hàng khác. Ông cũng cho biết doanh số bán ra trong ngày khá tốt do là ngày đầu tiên thị trường trở lại hoạt động sau Lễ.

Tuy nhiên, theo nhận định, vẫn còn là quá sớm để dự báo gia sgiao ngay sẽ mạnh hơn vào thời gian tới. Nhìn chung, thị trường thép vẫn suy yếu do nhu cầu tiêu thụ trì trệ và mối lo về nguồn cung quá mức.

Bên cạnh đó, khí hậu đã chuyển lạnh hơn trong tháng 10 và có ít ngày làm việc hơn nên dường như giá thép không thể tăng trở lại, một thương nhân khác nhận định.

 

Giá chào xuất khẩu CRC Trung Quốc suy yếu,  giá nội địa ổn định

Trong ngày thứ ba vừa qua (8/10), thị trường CRC nội địa Trung Quốc vẫn suy yếu mặc dù giá thép tại Thượng Hải ổn định. Các giao dịch nội địa diễn ra chậm chạp do người mua vẫn chưa trở lại thị trường sau Lễ Quốc Khánh (1-7/10) hoặc còn trong tâm lý chờ xu hướng thị trường rõ ràng hơn. Trong khi đó, giá chào xuất khẩu CRC cũng suy yếu do không thu hút được mối quan tâm của các khách hàng ngoài nước.

Cụ thể, trong ngày 8/10, giá CRC SPCC 1.0mm giao dịch tại Thượng Hải đạt mức 4.320-4.400 NDT/tấn đã gồm 175 VAT, cùng mức với giá nhận định của Platts trong ngày 29/9. Trong khi đó, giá mặt hàng này tại thị trường Le Cong ( Quảng Đông) đã giảm 10 NDT/tấn xuống còn mức 4.320-4.380 NDT/tấn đã gồm VAT.

Theo nguồn tin cho biết, hai nhà máy Anshan Iron & Steel (Angang) và  Benxi Iron & Steel (Bengang) đang có khuynh hướng duy trì giá chào bán bằng cách cắt giảm sản lượng. Tuy nhiên, được biết nhà máy Angang đã hoàn  thành việc bảo trì công xưởng kéo dài trong suốt tháng 6-8 trước đó nên không hề có thông  tin nào về việc nhà máy này sẽ bảo dưỡng máy móc vào thời điểm này.

Giá chào xuất khẩu CRC 1.0mm hiện đạt mức 615-620 USD/tấn FOB, không đổi so với trước Lễ nhưng giảm 5 USD/tấn so với ngày 24/9.

Một thương nhân lớn tại miền Đông Trung Quốc cho biết các nhà máy vẫn chưa công bố giá chào mới, trong khi người mua đấu thầu với mức giá rất thấp , gần như ngang bằng với chi phí sản xuất của các nhà máy, do vậy, rất khó để chốt hàng vào thời điểm hiện tại.

Chí số PMI ngành thép Trung Quốc đã gaimr trở lại sau 2 tháng tăng liên tiếp trước đó, giảm 4.2% so với tháng 8. Nguồn cung quá mức  vẫn còn là nhân tố chính gây sức ép giảm giá lên thép nội địa.