THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG VIỆT NAM TUẦN 10/2016
Từ ngày 04 đến ngày 10-03-2016
1. Thị trường thép xây dựng trong nước
Tuần này, thị trường tiêu thụ dần bước đi vào ổn định trong bối cảnh hoạt động xây dựng chưa diễn ra sôi động. Thời điểm đầu năm, hoạt động vận chuyển sản phẩm thép xây dựng xây dựng diễn ra nhanh chóng, bên cạnh đó là hàng loạt các sản phẩm thép xây dựng nhập khẩu. Giá bán có xu hướng giảm nhẹ trong tuần qua nhưng chỉ mang tính tức thời không ảnh hưởng nhiều đến giá nguồn. Giá bán cuối cùng vẫn dựa trên sự thỏa thuận của bên mua và bên bán tại các đại lý.
Việc hàng hóa nhập khẩu gia tăng đã gây thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất phôi thép và thép dài trong nước. Điều này được thể hiện qua sự sụt giảm thị phần, lợi nhuận, công suất, nhân công và sự gia tăng hàng tồn kho. Đặc biệt, sự sụt giảm này được thể hiện rõ rệt trong năm 2015 và có xu hướng tiếp tục gia tăng trong thời gian tới. Nếu tình hình này tiếp diễn, ngành sản xuất phôi thép và thép dài trong nước sẽ không tránh khỏi việc tiếp tục bị mất thị phần khiến doanh thu, lợi nhuận giảm và sản xuất bị đình đốn.
Thông tin từ Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) cho hay, ngày 7/3/2016, Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 862/QĐ-BCT về việc áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời đối với sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu vào Việt Nam. Biện pháp tự vệ tạm thời được áp dụng là mức thuế tương đối là 23,3% đối với phôi thép và 14,2% đối với thép dài.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, lượng phôi thép nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam đang tăng, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Tháng 1-2016, lượng sắt thép nhập khẩu là 1,7 triệu tấn, tăng 30% so với cùng kỳ năm 2015, trong đó nhập khẩu phôi thép tăng tới 231%. Giá phôi thép nhập khẩu là 269 USD/tấn, giảm 67% so với cùng kỳ năm 2015 và thấp hơn rất nhiều so với phôi sản xuất trong nước.
Nếu tình trạng này kéo dài, các nhà máy sản xuất phôi thép trong nước sẽ phải tạm ngừng sản xuất, hoặc sản xuất cầm chừng. VSA kiến nghị, cần siết chặt quản lý nhập khẩu sắt thép, quyết liệt áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, đặc biệt là sớm xây dựng hàng rào kỹ thuật ngăn chặn phôi thép nhập khẩu tràn lan.
Tổng công ty Thép Việt Nam dẫn đầu trong số 5 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng lớn nhất của hiệp hội với thị phần 21,76%, theo sau là Hòa Phát với thị phần 21,3%, Pomina 12,6%, Vinakyoei 8,5%.
2. Thông tin thị trường giá thép xây dựng các khu vực, nhà máy
Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Bắc, sản phẩm của Công ty thép Việt Đức. Giá bán tại khu vực trung tâm, đã bao gồm thuế VAT.
Bảng giá bán thép xây dựng Việt Đức | ||||
STT | Chủng loại | Mác Thép | Đvt | Giá |
1 | Thép cuộn Ø6 | CT3 | đ/kg | 12.600 |
2 | Thép cuộn Ø8 | 12.600 | ||
7 | Thanh vằn D10 |
SD295, CB300 | 13.050 | |
8 | Thanh vằn D12 | 12.900 | ||
9 | Thanh vằn D14 | 12.900 | ||
10 | Thanh vằn D16 | 12.900 | ||
11 | Thanh vằn D18 | 12.900 | ||
12 | Thanh vằn D20 | 12.900 | ||
13 | Thanh vằn D22 | 12.900 | ||
14 | Thanh vằn D32 | 12.900 |
Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Bắc, sản phẩm thép Việt Ý. Giá bán chưa bao gồm thuế VAT.
Bảng giá bán thép xây dựng Việt Ý | ||||
STT | Chủng loại | Mác Thép | Đvt | Giá |
1 | Thép cuộn Ø6 | CT3 | đ/kg | 12.280 |
2 | Thép cuộn Ø8 | 12.280 | ||
3 | Thanh vằn D10 | SD295A | 13.720 | |
4 | Thanh vằn D12 | 13.730 | ||
5 | Thanh vằn D14 | 14.000 | ||
6 | Thanh vằn D16 | 14.000 | ||
7 | Thanh vằn D18 | 14.000 | ||
8 | Thanh vằn D20 | 14.000 | ||
9 | Thanh vằn D22 | 14.000 |
Giá bán thép cuộn tròn trơn xây dựng một số thị trường được tổng hợp theo các ngày trong tuần qua:
Bảng giá thép xây dựng | ||||
Ngày | Sản phẩm | Khu vực | Đvt | Giá |
8/3/16 | Thép cuộn Ø6 Pomina | Bình Dương | đ/kg | 11.000 |
Thép cuộn Ø8 Pomina | 11.000 | |||
Thép cuộn Ø6 | Đồng Tháp | 12.200 | ||
Thép cuộn Ø8 | 12.200 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Đồng Nai | 11.000 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 11.000 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Trà Vinh | 11.800 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 11.800 | |||
Thép cuộn Ø6 | Long An | 11.650 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.650 | |||
Thép cuộn Ø6 | Bạc Liêu | 11.600 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | An Giang | 11.550 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | Hậu Giang | 11.000 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.000 |
Thị trường Long An, giá bán sản phẩm thép cuộn có giá bán khá thấp trong các tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 11.650 ngàn đồng/kg tại các đại lý bán lẻ.
Thị trường Bình Dương, giá bán sản phẩm thép cuộn Pomina khá ổn định trong tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 11 ngàn đồng/kg.
Thị trường Đồng Nai, lượng tiêu thụ không có chuyển biến đáng kể nào trong tuần này, giá bán luôn được duy trì ở mức cao qua nhiều tuần. Giá bán thép xây dựng được công bố trong đầu tuần này là 11 ngàn đồng/kg đối với thép cuộn Ø6 và Ø8, giá bán khá cao ở thời điểm hiện tại.
Thị trường Trà Vinh, giá bán lẻ thép cuộn tròn trơn xây dựng LD duy trì mức giá bán thấp hơn các tuần trước đó. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép xây dựng Ø6 là 12.8 ngàn đồng/kg và Ø8 là 11.8 ngàn đồng/kg. Lượng sản phầm bán ra đều đặn, có chiều hướng tăng dần.
3. Dự báo thị trường thép xây dựng
Năm 2016, tình hình xuất khẩu thép trong nước được dự báo sẽ còn nhiều khó khăn do các nước áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Trong khi đó, tại thị trường trong nước, sức ép từ thép nhập khẩu vẫn rất lớn. Do đó, việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật, hàng rào thương mại chính là cách tốt nhất để bảo vệ ngành thép trong nước.
Dự báo của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), 2016, công nghiệp thép Việt Nam tiếp tục tăng trưởng xấp xỉ 15%, trong đó, phôi thép tăng 10%, thép xây dựng 15%. Ngành thép phát triển nhanh, nhưng quy mô doanh nghiệp nhỏ. Khi Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), hội nhập sâu hơn thì doanh nghiệp cần có quy mô lớn hơn để có thể liên kết thực hiện vai trò dẫn dắt thị trường.
Năm 2016, ngành thép sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn do tình trạng dư cung có thể kéo dài. Giá bán thành phẩm thép tiếp tục giảm theo xu hướng của giá nguyên liệu đầu vào. Nguồn cung dồi dào từ trong và ngoài nước sẽ đẩy giá thép tiếp tục xuống sâu. Lượng tồn kho thép xây dựng lớn.
Dự báo, tình hình tiêu thụ thép vẫn gặp nhiều khó khăn do phải cạnh tranh sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc, trong khi lượng sản phẩm thép xây dựng trong nước vẫn đang dư thừa. Thị trườn tiêu thụ vẫn khá ảm đạm mặc dù có những dấu hiệu tích cực trong tuần này. Sức ép lớn vẫn đặt lên các đơn vị sản xuất nhỏ, chi phí sản xuất cao.
Thông tin từ các đại lý cho biết, sau thời gian dài giảm giá, dự kiến giá thép xây dựng có dấu hiệu sẽ tăng trở lại. Nguyên nhân là do giá đầu nguồn có xu hướng tăng do khó khăn chung của nền kinh tế ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Hơn nữa vấn đề vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa đang gặp những khó khăn nhất định. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa trong việc sản xuất các sản phẩm chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh và rút ngắn thời gian giao hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần có chiến lược truyền thông và xây dựng thương hiệu tại các thị trường tiềm năng.
Lưu ý: Bảng giá trên đây được tham khảo tại các công ty, đại lý chuyên cung cấp thép xây dựng. Vì vậy bảng giá bán này chỉ để tham khảo không phải là giá cố định mà được điều chỉnh dựa trên số lượng lô hàng, khách hàng khi mua tại các công ty hay đại lý, phương tiện vận chuyển và hình thức thanh toán tùy thuộc vào vùng miền.
4. Bảng giá các mặt hàng cơ bản Việt Nam tuần 10
| Chào giá (đ/kg) | ||
Xuất xứ | Giá | Tăng /giảm | |
Cuộn trơn Ø6.5 | Trung Quốc | 9.700 | Tăng 2.100 |
Cuộn trơn Ø8 | Trung Quốc | 9.900 | Tăng 2.000 |
Thép tấm 3,4,5 mm | Trung Quốc | 9.400 | Tăng 1.400 |
Thép tấm 6,8,10,12 mm | Trung Quốc | 9.600 | Tăng 1.400 |
HRC 2mm | Trung Quốc | 9.900 | Tăng 1.500 |
Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 10/2016
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Thép cây đã có tuần “nhảy múa”, thậm chí đã có lúc nhảy vọt lên mức cao 10 tháng khi tâm lý thị trường bị kích động bởi giá phôi thanh tăng vọt 360 NDT/tấn (55 USD/tấn) ở thành phố Đường Sơn chỉ trong vòng có ba ngày liên tiếp tính đến 7/3. Ngoài ra, còn do suy đoán về việc cắt giảm 50% sản lượng thép trong 36 ngày trong suốt thời gian tổ chức “Triển lãm nghệ thuật làm vườn thế giới” diễn ra tại Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc từ ngày 27/4-16/10. Nhưng chuỗi ngày tăng kết thúc khi giá phôi thanh rớt mạnh vào buổi sáng ngày 9/3, sau đó tăng trở lại vào chiều cùng ngày nhưng giá cuối ngày vẫn thấp hơn 150-180 NDT/tấn. Kéo theo đó giá thép cây cũng rớt mạnh 200 NDT/tấn. Nhưng sau đó đã lấy lại đà tăng trong ngày thứ Năm, khi niềm tin cải thiện cùng với sự phục hồi của giá phôi thép. Hôm thứ Năm, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm chốt ở mức 2.330-2.350 NDT/tấn (358-361 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, cao hơn 285 NDT/tấn so với tuần trước.
Hôm 9/3 tại thị trường giao ngay Thượng Hải, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 2.230 NDT/tấn (342 USD/tấn) gồm 17% VAT, tăng 260 NDT/tấn (40 USD/tấn) so với 1 tuần trước đó. Hiện giờ thật khó để nhìn thấy xu hướng rõ ràng. Giá phôi thanh sụt giảm hôm thứ Tư đã làm suy yếu mạnh đến hoạt động thu mua và niềm tin thị trường.
Thép công nghiệp
Hôm thứ Ba, tại thị trường Thượng Hải, Platts định giá CRC SPCC 1.0mm là 3.250-3.300 NDT/tấn (500-507 USD/tấn), tăng 485 NDT/tấn so với đầu tuần trước. Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết tính cho đến tuần này sức mua CRC ở trong nước đã mạnh lên. Tuy nhiên, nhiều hoạt động thu mua là giữa các đại lý.
Tại Thượng Hải, giá thép tấm SS400 12-30mm tăng lên khoảng 2.350 NDT/tấn tính đến ngày 4/3, cao hơn gần 200 NDT/tấn so với cuối tháng 02. Giao dịch đã chậm hơn so với cuối tháng 02, nhưng tồn kho thị trường thấp đã hỗ trợ cho giá phục hồi. Thế nhưng, khi các nhà máy khởi động lại lò nung của họ thì không biết liệu thị trường có duy trì được đà tăng này hay không.
Nối tiếp đà tăng tuần trước, giá HRC vẫn tăng đột biến qua các ngày đầu tuần này, nhất là hôm thứ Hai, giá tăng chóng mặt lên 345 NDT/tấn, đây được xem là mức tăng “khùng điên” nhất trên thị trường từ trước tới nay khiến nhiều người không khỏi hoang mang. Nhưng sang ngày sau đó, giá đã dịu bớt, chỉ tăng nhẹ 10 NDT/tấn. Tuy nhiên, một lần nữa thị trường lại bị sốc khi thấy giá bốc hơi đến 200 NDT/tấn. Thị trường tuần này trải qua nhiều cung bậc cảm xúc với tính biến động cao. Do đó, gây bất an cho cả người bán và mua. Ai cũng nán lại chuyện đặt hàng để chờ xu hướng thị trường rõ ràng và ổn định hơn. Đến thứ Tư, HRC Q235 5.5mm được định giá 2.350-2.380 NDT/tấn (361-366 USD/tấn), cao hơn 170 NDT/tấn so với tuần trước.
Thị trường xuất khẩu
Giá giao ngay của cuộn trơn ở Châu Á một lần nữa lại tăng mạnh từ ngày 3-9/3 khi thị trường thép Trung Quốc tiếp tục tăng tuần thứ tư liên tiếp. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới đường kính 6.5mm ở mức 328-336 USD/tấn FOB, tăng 40,5 USD/tấn so với 1 tuần trước đó, đánh dấu mức giá cao nhất kể từ ngày 24/6/2015. Giá đã lên 75,5 USD/tấn kể từ mức thấp nhất của tháng 12.
Hôm thứ Ba, tất cả các nhà máy lớn đã ngưng chào giá xuất khẩu cho CRC Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 400-405 USD/tấn FOB, cao hơn 40 USD/tấn so với 1 tuần trước đó. Tất cả các thương nhân và nhà máy đều tin rằng thị trường sẽ nghỉ “xả hơi” trong vài ngày hay tuần tới để xem thị trường thay đổi như thế nào.
Phần lớn các nhà máy đã nâng chào giá xuất khẩu thép tấm trong bối cảnh giá trong nước tăng vào đầu tháng 3. Một số nhà xuất khẩu cho biết giá sẽ tiếp tục leo thang nếu thị trường trong nước vẫn giữ đà tăng. Hôm 4/3, chào giá phổ biến cho thép tấm SS400 12-30mm ở quanh mốc 305-315 USD/tấn FOB, tăng 20 USD/tấn so với cuối tháng 02.
HRC có chuỗi tăng giá rầm rộ qua 7 ngày liên tiếp, nhất là trong hai ngày đầu tuần, trong bối cảnh nhiều giao dịch hơn và nguồn cung thiếu hụt cũng như việc các nhà máy Trung Quốc đã ngưng chào giá hoặc thậm chí là còn phá vỡ hợp đồng đã được ký kết trước đó. Nhưng sau trận cuồng phong điên loạn đó, giá HRC đã trở nên điềm tĩnh hơn, và bắt đầu ổn định trở lại trong hai ngày 9 và 10/3. Qua đó cho thấy thị trường chưa thực sự phục hồi bền vững mà cần thêm thời gian để chấp nhận mức giá tăng quá nóng này. Người mua cũng tỏ ra thận trọng hơn và đang đứng ngoài để quan sát. Trong tuần này HRC SS400 3.0mm đã tăng tổng cộng 39 USD/tấn lên 345-350 USD/tấn.
Tương tự, thị trường thép cây cũng diễn biến theo chiều hướng đi lên cùng chiều với giá trong nước. Nhưng đến thứ Tư đà tăng bắt đầu chững lại khi giá trong nước rớt mạnh. Ngoài ra, hoạt động thị trường cũng chững lại khi hầu hết các nhà xuất khẩu đã chọn cách ngừng chào giá vì giá trong nước bất ổn. Như vậy, thép cây BS500 đường kính 16-20mm hiện đang duy trì mức 310-315 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, cao hơn tuần trước 31.5 USD/tấn.
Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 9/2016
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Thép cây đã có tuần “nhảy múa”, thậm chí đã có lúc nhảy vọt lên mức cao 10 tháng khi tâm lý thị trường bị kích động bởi giá phôi thanh tăng vọt 360 NDT/tấn (55 USD/tấn) ở thành phố Đường Sơn chỉ trong vòng có ba ngày liên tiếp tính đến 7/3. Ngoài ra, còn do suy đoán về việc cắt giảm 50% sản lượng thép trong 36 ngày trong suốt thời gian tổ chức “Triển lãm nghệ thuật làm vườn thế giới” diễn ra tại Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc từ ngày 27/4-16/10. Nhưng chuỗi ngày tăng kết thúc khi giá phôi thanh rớt mạnh vào buổi sáng ngày 9/3, sau đó tăng trở lại vào chiều cùng ngày nhưng giá cuối ngày vẫn thấp hơn 150-180 NDT/tấn. Kéo theo đó giá thép cây cũng rớt mạnh 200 NDT/tấn. Nhưng sau đó đã lấy lại đà tăng trong ngày thứ Năm, khi niềm tin cải thiện cùng với sự phục hồi của giá phôi thép. Hôm thứ Năm, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm chốt ở mức 2.330-2.350 NDT/tấn (358-361 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, cao hơn 285 NDT/tấn so với tuần trước.
Hôm 9/3 tại thị trường giao ngay Thượng Hải, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 2.230 NDT/tấn (342 USD/tấn) gồm 17% VAT, tăng 260 NDT/tấn (40 USD/tấn) so với 1 tuần trước đó. Hiện giờ thật khó để nhìn thấy xu hướng rõ ràng. Giá phôi thanh sụt giảm hôm thứ Tư đã làm suy yếu mạnh đến hoạt động thu mua và niềm tin thị trường.
Thép công nghiệp
Hôm thứ Ba, tại thị trường Thượng Hải, Platts định giá CRC SPCC 1.0mm là 3.250-3.300 NDT/tấn (500-507 USD/tấn), tăng 485 NDT/tấn so với đầu tuần trước. Một thương nhân ở Thượng Hải cho biết tính cho đến tuần này sức mua CRC ở trong nước đã mạnh lên. Tuy nhiên, nhiều hoạt động thu mua là giữa các đại lý.
Tại Thượng Hải, giá thép tấm SS400 12-30mm tăng lên khoảng 2.350 NDT/tấn tính đến ngày 4/3, cao hơn gần 200 NDT/tấn so với cuối tháng 02. Giao dịch đã chậm hơn so với cuối tháng 02, nhưng tồn kho thị trường thấp đã hỗ trợ cho giá phục hồi. Thế nhưng, khi các nhà máy khởi động lại lò nung của họ thì không biết liệu thị trường có duy trì được đà tăng này hay không.
Nối tiếp đà tăng tuần trước, giá HRC vẫn tăng đột biến qua các ngày đầu tuần này, nhất là hôm thứ Hai, giá tăng chóng mặt lên 345 NDT/tấn, đây được xem là mức tăng “khùng điên” nhất trên thị trường từ trước tới nay khiến nhiều người không khỏi hoang mang. Nhưng sang ngày sau đó, giá đã dịu bớt, chỉ tăng nhẹ 10 NDT/tấn. Tuy nhiên, một lần nữa thị trường lại bị sốc khi thấy giá bốc hơi đến 200 NDT/tấn. Thị trường tuần này trải qua nhiều cung bậc cảm xúc với tính biến động cao. Do đó, gây bất an cho cả người bán và mua. Ai cũng nán lại chuyện đặt hàng để chờ xu hướng thị trường rõ ràng và ổn định hơn. Đến thứ Tư, HRC Q235 5.5mm được định giá 2.350-2.380 NDT/tấn (361-366 USD/tấn), cao hơn 170 NDT/tấn so với tuần trước.
Thị trường xuất khẩu
Giá giao ngay của cuộn trơn ở Châu Á một lần nữa lại tăng mạnh từ ngày 3-9/3 khi thị trường thép Trung Quốc tiếp tục tăng tuần thứ tư liên tiếp. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới đường kính 6.5mm ở mức 328-336 USD/tấn FOB, tăng 40,5 USD/tấn so với 1 tuần trước đó, đánh dấu mức giá cao nhất kể từ ngày 24/6/2015. Giá đã lên 75,5 USD/tấn kể từ mức thấp nhất của tháng 12.
Hôm thứ Ba, tất cả các nhà máy lớn đã ngưng chào giá xuất khẩu cho CRC Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 400-405 USD/tấn FOB, cao hơn 40 USD/tấn so với 1 tuần trước đó. Tất cả các thương nhân và nhà máy đều tin rằng thị trường sẽ nghỉ “xả hơi” trong vài ngày hay tuần tới để xem thị trường thay đổi như thế nào.
Phần lớn các nhà máy đã nâng chào giá xuất khẩu thép tấm trong bối cảnh giá trong nước tăng vào đầu tháng 3. Một số nhà xuất khẩu cho biết giá sẽ tiếp tục leo thang nếu thị trường trong nước vẫn giữ đà tăng. Hôm 4/3, chào giá phổ biến cho thép tấm SS400 12-30mm ở quanh mốc 305-315 USD/tấn FOB, tăng 20 USD/tấn so với cuối tháng 02.
HRC có chuỗi tăng giá rầm rộ qua 7 ngày liên tiếp, nhất là trong hai ngày đầu tuần, trong bối cảnh nhiều giao dịch hơn và nguồn cung thiếu hụt cũng như việc các nhà máy Trung Quốc đã ngưng chào giá hoặc thậm chí là còn phá vỡ hợp đồng đã được ký kết trước đó. Nhưng sau trận cuồng phong điên loạn đó, giá HRC đã trở nên điềm tĩnh hơn, và bắt đầu ổn định trở lại trong hai ngày 9 và 10/3. Qua đó cho thấy thị trường chưa thực sự phục hồi bền vững mà cần thêm thời gian để chấp nhận mức giá tăng quá nóng này. Người mua cũng tỏ ra thận trọng hơn và đang đứng ngoài để quan sát. Trong tuần này HRC SS400 3.0mm đã tăng tổng cộng 39 USD/tấn lên 345-350 USD/tấn.
Tương tự, thị trường thép cây cũng diễn biến theo chiều hướng đi lên cùng chiều với giá trong nước. Nhưng đến thứ Tư đà tăng bắt đầu chững lại khi giá trong nước rớt mạnh. Ngoài ra, hoạt động thị trường cũng chững lại khi hầu hết các nhà xuất khẩu đã chọn cách ngừng chào giá vì giá trong nước bất ổn. Như vậy, thép cây BS500 đường kính 16-20mm hiện đang duy trì mức 310-315 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế, cao hơn tuần trước 31.5 USD/tấn.
Tổng quan thị trường thép Thế giới tuần 10/2016
Mỹ
Tại thị trường nội địa, sau khi thị trường khá trầm lắng đầu tuần với quyết định tăng giá tấm mỏng thêm 30usd/tấn ngắn của nhà máy cuối tuần trước, 04/03. Thì một vài tín hiệu đầu tiên của giá HRC và CRC cao hơn đang bắt đầu được nhìn thấy.
Giá HRC mới ở mức 430-450usd/tấn ngắn. Chào giá CRC ở mức 580usd/tấn ngắn từ một nhà máy ở Midwest vận chuyển cuối tháng 05. Một nhà máy khác có giá niêm yết CRC ở mức 610usd/tấn ngắn. Giá giao ngay cho CRC ở mức tối thiểu 600-620usd/tấn ngắn. Giá HDG ở mức 580-610usd/tấn ngắn.
Định giá Platts cho HRC ở mức 420-440usd/tấn ngắn cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana). Định giá CRC duy trì ở mức 580-600usd/tấn ngắn cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana).
CRC nhập khẩu ước tính ở mức 470-480usd/tấn ngắn CFR Houston vận chuyển vào mùa hè. Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ vẫn đang chào giá HRC ở mức khoảng 370usd/tấn ngắn CFR Houston.
Định giá Platts cho HRC nhập khẩu tăng ở mức 360-380usd/tấn ngắn CIF Houston, và định giá CRC ở mức 460-480usd/tấn ngắn CIF Houston.
Với giá phế tháng 03 tăng, những nhà sản xuất wire rod Mỹ đang tăng giá tháng 04 để bù đắp chi phí nguyên liệu thô tăng vọt. Gerdau Long Steel North America và Nucor thông báo rằng tăng giá bán các sản phẩm wire rod 20usd/tấn ngắn có hiệu lực với hàng giao từ 01/04. Trong số liệu định giá mới nhất, 04/03, Platts duy trì giá cuộn trơn dạng lưới ở mức 430-460usd/tấn ngắn xuất xưởng.
Giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ tới Mỹ tiếp tục tăng mạnh khi giá nguyên liệu đắt đỏ. Giá mua hiện tại từ 350 USD/tấn CFR (322 USD/tấn ngắn CIF) tới 360 USD/tấn CFR (331 USD/tấn ngắn CIF), cao hơn so với mức giá phổ biến dọc Bờ biển phía Đông.
Một thương nhân Thổ Nhĩ Kỳ nói rằng đã đạt được mức giá 360 USD/tấn CFR Mỹ trọng lượng lý thuyết (345 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế).
Platts duy trì định giá thép cây ở vùng Midwest trong phạm vi 475-500 USD/tấn ngắn xuất xưởng hôm 7/3. Giá ở vùng này đã duy trì ổn định kể từ cuối tháng 11 tới nay. Platts đã nâng định giá ngày 7/3 cho thép cây nhập khẩu của Mỹ lên 322-331 USD/tấn ngắn CIF Houston, từ mức 308-317 USD/tấn ngắn CIF.
Vấn đề nguồn cung phế Mỹ đã châm ngòi cho giá tháng 3 tăng ở thị trường trong nước khi các nhà máy không thể mua được phế từ các khu vực dư cung truyền thống.
Các nhà máy ở Ontario, Canada đã tăng giá mua lên 20 USD/tấn ngắn. Các nhà máy ở khu vực Chicago đã nâng giá mua lên tới 20 USD/tấn dài. Giá phế tháng 3 tăng trung bình 10-20 USD/tấn dài. Phế vụn ở Pittsburgh giữ mức 190 USD/tấn dài, tại Chicago giá tăng 20 USD/tấn dài lên 220 USD/tấn dài. Các nhà máy vùng đông nam phải mua với giá cao nhất, phế vụn có giá tới 235 USD/tấn dài. Xuất khẩu chào giá lên tới 145-160 USD/tấn dài cho phế HMS I tới các nhà cung cấp lớn từ xa.
Platts duy trì định giá cho phế vụn ở mức 200-220 USD/tấn dài giao tới các nhà máy ở Midwest, tăng 15 USD/tấn dài so với đầu tháng 02.
CIS
Trong bối cảnh nhận được hỗ trợ của đà tăng mạnh mẽ của giá phôi thanh và phế, các nhà máy CIS đang nâng giá chào bán xuất khẩu thép cây và wire rod lần lượt lên mức 340-350usd/tấn FOB Biển Đen.
Platts nâng định giá tháng cho thép cây xuất khẩu CIS lên mức 325-330usd/tấn FOB Biển Đen, cho wire rod lên mức 330-340usd/tấn FOB Biển Đen, tăng lần lượt 55usd/tấn và 50usd/tấn.
Trong suốt nửa tháng qua giá phế đã tăng 30usd/tấn, ở mức 210usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ. Trong thời gian đó, phôi thanh tăng 50usd/tấn, từ 255usd/tấn FOB Biển Đen, theo định giá của Platts.
Một số nhà máy CIS đang chào giá phôi vuông ở mức 260-265usd/tấn FOB Biển Đen, và người mua đang ngày một khó khăn để bảo đảm khối lượng đơn hàng do sự khan hiếm nhà cung cấp trên thị trường.
Platts có nghe nói về hai đơn hàng phôi vuông chốt giá ở mức 255usd/tấn FOB Biển Đen, và do đó đã tăng định giá phôi vuông FOB Biển Đen hàng tuần lên mức 252-258usd/tấn hôm thứ Sáu.
Các thành phần tham gia thị trường phôi thanh Biển Đen chật vật tìm kiếm mức giá mới cho phôi thanh CIS trong tuần này trong bối cảnh tính biến động mạnh bởi giá xuất khẩu của Trung Quốc.
Các nhà máy ở Nga và Ukraina chào bán cho sản lượng tháng 04 và tháng 05 với giá tăng thêm 20-40usd/tấn.
Nhà sản xuất phức hợp Ukraina ArcelorMittal Kriviy Rih đang chào giá 340-350usd/tấn CFR Marmara. Phôi thanh CIS ước tính được niêm yết ở mức 300-310usd/tấn FOB. Chào giá của Nga cao hơn giá của Ukraina với giá mục tiêu là 330-340usd/tấn FOB Biển Đen. Novorosmetall đưa ra giá 340usd/tấn của Novorossiysk.
Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 305usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Năm, tăng 15usd/tấn so với thứ Tư.
Thị trường thép cuộn Biển Đen tiếp tục duy trì đà tăng trong tuần trước trong bối cảnh thị trường thép nói chung cải thiện đáng kể, với giá chào phôi vuông của Trung Quốc và CIS tăng cao. Tuy nhiên chào giá thép cuộn CIS từ cảng Biển Đen hiện rất ít ỏi do các nhà sản xuất lớn đang không tham gia thị trường, cho thấy ý định nỗ lực tăng giá giá bán hơn nữa của mình cho sản lượng sản xuất tháng 04, giao trong tháng 05. Mặc dù vậy một số thương nhân dự đoán mức giá mới tại 330-340usd/tấn FOB Biển Đen cho HRC.
Giá chào của Nga từ Biển Đen rất khan hiếm. Hợp đồng gần đây nhất các nhà máy của Nga được ký kết ở mức giá 280usd/tấn đối với cuộn cán nóng nhỏ. Nhà máy phức hợp của Ukraina Metinvest đã ở trong thị trường với mục tiêu giá cao hơn. Gần đây nhà máy này đã gần như chốt đơn hàng tháng 04 với giá chào bán HRC là 310usd/tấn CIF Thổ Nhĩ Kỳ, 295euro/tấn Tây Âu và 330usd/tấn CIF Trung Đông /Bắc Mỹ.
Platts định giá HRC hàng ngày ở mức 305usd/tấn FOB Biển Đen. CRC định giá ở mức 357.50usd/tấn.
Thổ Nhĩ Kỳ
Kardemir, nhà sản xuất thép dài tích hợp lớn của Thổ Nhĩ Kỳ, tiếp tục tăng giá phôi thanh, thép cây và thép hình một lần nữa vào hôm thứ Năm, song song với giá nhập khẩu phôi thanh và phế cải thiện mạnh mẽ.
Hôm 10/03 Kardemir đưa ra giá bán của đối với phôi thanh tiêu chuẩn ở mức 335-340usd/tấn xuất xưởng, tăng 10usd/tấn so với giá niêm yết trước đó công bố ngày 07/03; giá phôi bloom cũng tăng tương tự lên mức 443usd/tấn. Giá phôi thanh trong nước các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ khác cũng tiếp tục lên và đạt khoảng 330-350usd/tấn xuất xưởng. Giá bán mới cho thanh tròn trơn là 1.162 TRY (402usd)/tấn xuất xưởng, tăng 34TRY (12usd)/tấn, từ mức giá niêm yết trước đó. Giá thép cây của công ty tăng một khoản tương tự lên mức 1.145 TRY (396usd)/tấn xuất xưởng.
Giá tính theo đồng euro cho thép hình cũng tăng đáng kể, thêm 25euro/tấn. Giá IPE-IPN-UPN 160mm prices tăng lên mức 385euro/tấn xuất xưởng, trong khi IPE-IPN-UPN 180-300mm tăng lên mức 390euro/tấn. Thép hình IPE-IPN-UPN 320-550mm tăng lên mức 455euro/tấn, trong khi giá HEA-HEBs 120-200mm, 220-260mm and 280-300mm cũng tăng thêm 20euro/tấn: lên mức 395euro/tấn, 455euro/tấn và 475euro/tấn, tương ứng.
Giá niêm yết thép góc cũng tăng: thêm 25euro/tấn cho 150x150mm lên mức 425-440euro/tấn; đối với 180x190mm lên mức 460euro/tấn và đối với 200x16-24mm lên mức 460-485euro/tấn. Tất cả giá niêm yết của Kardemir không bao gồm thuế VAT.
Trong khi đó, Icdas, một trong những nhà sản xuất thép dài lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, đã tăng giá niêm yết nội địa cho thép cây và wire rod hôm thứ Tư – ngày tăng thứ ba liên tiếp – cho thấy xu hướng tăng giá đáng kể trong thị trường bán thành phẩm và thành phẩm. Theo đó mức tăng thép cây của Icdas tổng cộng đã vượt 60usd/tấn kể từ giữa tháng 02.
Cụ thể Icdas thông báo tăng giá bán thép cây 12-32mm thêm 30TRY/tấn (14usd/tấn) lên mức 1.630TRY/tấn xuất xưởng Istanbul và 1.340TRY/tấn xuất xưởng Biga, Canakkale, tương đương 397usd/tấn và 390usd/tấn, tương ứng, không VAT 18%. Giá thép cây 8mm của Icdas tăng lên mức 1.380TRY/tấn xuất xưởng Istanbul. Công ty này cũng tăng giá bán cuộn trơn 7-8.5mm lên mức 1.420-1.450TRY/tấn xuất xưởng hôm 09/03, gồm VAT 18%.
Trong bối cảnh giá nguyên liệu thô, mặt hàng bán thành phẩm tăng đáng kể cũng như giá bán của nhà máy tăng vọt, giá thép cây xuất kho tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cải thiện mạnh mẽ hôm thứ Tư. Giá phổ biến của đại lý cho thép cây 8-12mm ở Marmara nằm trong mức 1.350-1.380TRY/tấn xuất xưởng (gồm VAT 18%) hôm thứ Tư, tăng 10usd/tấn so với giá hôm thứ Ba.
Các nhà máy thép cây Thổ Nhĩ Kỳ đã nâng giá chào xuất khẩu theo cấp số nhân sau đợt tăng giá không tưởng ở Trung Quốc cuối tuần trước. Người mua ở Dubai nói rằng giá chào đã tăng từ mức khoảng 370-380usd/tấn CFR trọng lượng lí thuyết cơ bản hôm thứ Hai lên mức 395-400usd/tấn CFR thứ Ba.
Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 360usd/tấn.
Một số nhà sản xuất HRC Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu kiểm tra thị trường với mức giá cao hơn đáng kể hôm thứ Ba, sau đà tăng vọt của giá quặng sắt, phôi thanh và phế, cũng như chào giá phi mã của Trung Quốc tuần này. Một số nhà sản xuất đã chốt đơn hàng hôm thứ Ba, để chờ đợi và xem xét xu hướng thị trường. Những nhà máy này dự kiến sẽ tái mở bán đơn hàng với mức giá cao hơn trong vài ngày tới.
Chào giá HRC ở mức 420-440usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Năm Đà tăng giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay đã vượt quá 100usd/tấn kể từ giữa tháng 02. Giá chào HRC nguồn gốc Ukraina đến Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 305-315usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ giao tháng 04 hôm 07/03.
Các nhà sản xuất thép cuộn cán nguội Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục chào giá cao đáng kể trong thị trường nội địa hôm thứ Năm, song song với đà tăng mạnh của giá HRC.
Giá chào bán CRC của nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trong thị trường trong nước đạt mức 490-510usd/ tấn xuất xưởng hôm thứ Năm, tăng khoảng 40usd/tấn so với giá đầu tuần. Điều này đánh dấu mức tăng của hơn 90usd/tấn của giá CRC Thổ Nhĩ Kỳ kể từ giữa tháng 02.
Do xu hướng tiếp tục đi lên đáng kể của giá HRC Thổ Nhĩ Kỳ, cũng như chi phí nguồn cung đầu vào tăng vọt, các nhà sản xuất cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ đang bắt đầu tăng giá bán niêm yết. Tuy nhiên, do việc thiếu hụt sản lượng thép thô đã ảnh hưởng đến sản lượng sản xuất của các nhà máy, hầu hết các đơn đặt hàng của các nhà sản xuất cuộn mạ đã được chốt lại hôm thứ Tư.
Giá niêm yết nội địa các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho cuộn mạ tăng mạnh khoảng 90usd/tấn trong tuần này. Giá chào nhà máy HDG dày 0.5mm ở mức 640-680usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư, trong khi giá chào nội địa cho PPGI dày 0.5mm ở mức 740-780usd/tấn xuất xưởng.
Giá mua tính theo đồng dollar của phế tàu và giá mua tính theo đồng lira của phế DKP đã tăng đáng kể hôm thứ Ba.
Phế nấu chảy từ tàu được chào báo đến hầu hết các nhà máy ở miền tây (Habas, IDC, Ozkan, Ege Celik) ở mức 200-205usd/tấn hôm 08/03, tăng 10usd/tấn so với giá thứ Hai. Theo đó đà tăng của giá phế tàu đã đạt 15usd/tấn trong hai ngày qua. Giá nhập khẩu cũng cải thiện tăng lên mức 207usd/tấn CFR tuần này và các nhà cung cấp phế đang mục tiêu mức 210-220usd/tấn CFR.
Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng tiếp tục tăng giá thu mua DKP hôm thứ Ba. Một trong những nhà sản xuất thép EAF, Colakoglu, cùng với nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celikđã nâng giá thu mua DKP hôm thứ ba thêm 65TRY (22usd)/tấn lên mức 525TRY/tấn (180usd/tấn) và thêm 15TRY (5usd)/tấn lên mức 545TRY/tấn (187usd/tấn), tương ứng.
Nhà sản xuất thép phức hợp lớn nhất, nhà máy Iskenderun đã nâng giá thu mua DKP thêm 15TRY (5usd)/tấn lên mức 580TRY/tấn (199usd/tấn). Nhà sản xuất thép dài phức hợp lớn nhất, Kardemir, cũng đã nâng giá thu mua DKP lên mức 600TRY/tấn (205usd/tấn) hôm thứ Hai. Giá mua phế nội địa của các nhà sản xuất thép EAF nằm trong mức 525-580TRY/tấn (180-199usd/tấn) hôm thứ Ba, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu của nhà máy.
Châu Âu
Nhà máy thép hình EU đã không thể áp đặt mức gia tăng mong muốn, với thị trường trì trệ của tuần trước. Người mua Bắc Âu cho biết có thể mua mua thép hình loại 1 ở mức 440euro/tấn tuần trước, trong khi giá được cho biết ở mức 435euro/tấn vận chuyển ngay lập tức từ hai nhà máy ở Tây Ban Nha. Định giá tuần của Platts cho thép hình loại 1 là 440-450euro/tấn vận chuyển, giảm 5euro/tấn từ tuần trước đó.
Platts định giá HRC EU không đổi hôm thứ Năm ở mức 330-340€/tấn xuất xưởng Ruhr.
Giá giao ngay phía bắc châu Âu không đổi ở mức 330-340€/tấn hôm thứ Năm, mặc dù áp lực tăng lên từ các nhà máy tăng giá để tiếp tục tăng giá lên khá mạnh mẽ. Một nhà máy châu Âu cho biết giá chào bán mới đã tăng 30€/tấn thứ Năm, lên mức360-370 €/tấn xuất xưởng Ruhr, do sức mua vẫn duy trì mạnh mẽ trong quý thứ hai và vào mùa hè. Nhập khẩu vẫn khan hiếm và chào gần đây nhất ở mức không cạnh tranh là 300€/tấn CIF Antwerp.
Thị trường thép dẹt Bắc Âu cho thấy nguồn cung HDG đang ngày một thắt chặt hơn do nhu cầu tiêu thụ mạnh mẽ trong lĩnh vực ô tô cũng như giá cả không cạnh tranh từ Trung Quốc đang kéo dãn nguồn cung. Giá cơ bản xuất xưởng thị trường Bắc Âu ở mức khoảng 430euro/tấn, tăng 20-25euro/tấn trong tháng trước.
Giá thép cây thương phẩm ở tây bắc và miền nam châu Âu có thể đang chạm đáy, do giá cơ sở đang ở mức thấp hơn, cùng với xu hướng đi lên của thị trường phế thế giới. Giá cả trung binh thực tế cho thép cây thương phẩm được biết ở mức 420euro/tấn vận chuyển.
Giá thanh toán tháng 03 ở thị trường phế Tây Âu đang tăng lên đáng kể chủ yếu do thị trường thế giới cải thiện mạnh mẽ.
Giá thanh toán của Đức tăng 10€/tấn, từ mức tháng 02, trong phạm vi của 165-180€ /tấn cho mặt hàng phế vụn. Tại các thị trường Pháp và Bỉ, giá đã được cho biết là đã tăng thêm 20-30€/tấn, từ giá thanh toán tháng 02. Nguồn tin cho hay giá phế vụn ở mức 180 €/tấn giao tháng 03 và HMS 1&2 ở 160-165€/tấn ở những thị trường này.
Đài Loan
Các nhà sản xuất thép cây Đài Loan đang vật lộn với việc phải hoạt động như thế nào sau khi giá phôi thép Trung Quốc tăng mạnh trong tuần này cùng với giá phế Ferrit gần như nhất định là leo thang khi quặng sắt lên giá.
Feng Hsin Iron & Steel, nhà sản xuất thép cây hàng đầu trong nước, đã nâng giá mua trong nước cho phế HMS 1&2 (80:20) thêm 200 Đài tệ/tấn (6 USD/tấn) lên 5.100 Đài tệ/tấn trong tuần này. Feng Hsin buộc phải hào phóng với các nhà cung cấp phế bởi vì từ cuối tuần trước tới thứ Hai, giá phôi thép Trung Quốc đã tăng 360 NDT/tấn (55 USD/tấn). Đà tăng của phôi thép cũng đã hỗ trợ cho giá quặng sắt toàn cầu khi tăng hơn 10 USD/tấn.
Hôm 7/3, Feng Hsin đã nâng giá niêm yết cho thép cây chuẩn 13mm thêm 200 Đài tệ/tấn lên 11.500 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung.
Ấn Độ
Các doanh nghiệp thép duy trì giá bán trong nước cho HRC trong tuần này vì sức mua không đổi. Theo đó, Platts định giá HRC IS 2062 A/B 3mm ở mức 25.500-26.500 Rupees/tấn (379-394 USD/tấn) xuất xưởng, không thay đổi kể từ tuần trước. Sức mua không thay đổi kể từ khi có chính sách giá nhập khẩu tối thiểu (MIPs) đã khiến cho tất cả việc đặt hàng nhập khẩu phải ngừng lại trong tháng trước. Người mua hiện nay đang thay thế thép nhập khẩu bằng thép cuộn trong nước.
Hàn Quốc
Nhà sản xuất thép hình Hàn Quốc- Hyundai Steel sẽ nâng giá xuất khẩu cho thép dầm hình H cỡ lớn lên 40-50 USD/tấn, giao tháng 4. Theo đó, giá bán của nhà máy tới khu vực Đông Nam Á và Trung Đông sẽ tăng lên 470 USD/tấn CFR và 530 USD/tấn tới thị trường Bắc Mỹ. Hyundai Steel cho biết vì giá phế ở Mỹ và Nhật tăng cộng thêm với đà phục hồi gần đây của giá thép Trung Quốc nên công ty đã quyết định như vậy, và nói rằng mức giá này là hợp lý.
Định giá hàng tháng của Platts cho phế vụn Bắc Âu ở mức 165-175€ / tấn vận chuyển.