Để sử dụng Satthep.net, Vui lòng kích hoạt javascript trong trình duyệt của bạn.

To use Satthep.net, Please enable JavaScript in your browser for better use of the website.

Loader

Bản tin thép xây dựng tuần 11/2016

THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG VIỆT NAM TUẦN 11/2016

Từ ngày 11 đến ngày 17-03-2016

1.              Thị trường thép xây dựng trong nước

Do nhu cầu tiêu thụ và giá nguyên liệu thép trên thế giới những ngày gần đây tăng, cùng với việc Bộ Công Thương mới đây ban hành Quyết định áp thuế tự vệ tạm thời với phôi và thép dài, đã khiến cho giá mặt hàng này biến động mạnh trong vài ngày qua.Theo Quyết định mới ban hành của Bộ Công Thương ngày 07/03/2016 thì mức thuế đối với phôi thép tăng từ 10% lên mức 23,3%, thép dài (thép cuộn và thanh) đang chịu thuế nhập khẩu 0%-5% tăng lên 14,2% dưới dạng thuế nhập khẩu bổ sung… Chính sách này có lợi cho doanh nghiệp thép trong nước và làm tăng giá thép nhập khẩu. Một số doanh nghiệp thép cũng đã tăng giá bán thép tại nhà máy cao hơn 250.000 đồng/tấn trong khi đó một số doanh nghiệp vẫn tiếp tục găm hàng chờ tăng giá.

Các doanh nghiệp khác cho rằng, nếu áp thuế tự vệ đối với phôi thép sẽ đồng nghĩa với việc tăng thuế suất thuế nhập khẩu phôi thép vào Việt Nam, dẫn tới giá phôi thép trong nước sẽ tăng theo, từ đó sẽ phải phụ thuộc vào một số nhà cung ứng phôi thép trong nước. Điều này sẽ dẫn tới hệ lụy lớn, đó là thay vì bảo vệ thị trường, lại chỉ làm lợi cho một vài nhà cung ứng phôi thép lớn trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất thép sẽ vừa rơi vào thế phụ thuộc, lại vừa phải gánh chịu thêm chi phí, khiến giá thành sản phẩm tăng, từ đó làm tăng khả năng thua lỗ do phải giảm giá trong cuộc cạnh tranh.

Một số doanh nghiệp sản xuất cho biết, phôi thép là nguyên liệu chiếm 85% tổng chi phí đầu vào sản xuất thép, và việc áp thuế nhập khẩu chắc chắn sẽ đẩy giá phôi tăng, kéo theo giá thép trên thị trường tăng, thiệt thòi cuối cùng là người tiêu dùng. Bên cạnh đó, sản lượng tiêu thụ thép trong tháng 2 tăng đến 62% so với cùng kỳ năm ngoái cho thấy nhu cầu tiêu thụ thép tăng cao. Lượng bán sản phẩm thép các loại trong tháng 2/2016 đạt gần 920.000 tấn, tăng hơn 70% so với cùng kỳ 2015. Xuất khẩu sản phẩm thép các loại tháng 2 này cũng đạt gần 180.000 tấn, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước.

2.    Thông tin thị trường giá thép xây dựng các khu vực, nhà máy

Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Bắc, sản phẩm của Công ty thép Vina Kioel. Giá bán tại khu vực trung tâm, đã bao gồm thuế VAT.

Bảng giá bán thép xây dựng Vina Kyoel

STT

Chủng loại

Mác Thép

Đvt

Giá

1

      Thép cuộn Ø6

CB240

      đ/kg

12.850

2

Thép cuộn Ø8

12.850

7

Thanh vằn D10

 

SD295, CB300

13.300

8

Thanh vằn D12

13.200

9

Thanh vằn D14

13.200

10

Thanh vằn D16

13.200

11

Thanh vằn D18

13.200

12

Thanh vằn D20

13.200

13

Thanh vằn D22

13.200

14

Thanh vằn D32

13.200

 

Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Bắc, sản phẩm thép Việt Ý. Giá bán chưa bao gồm thuế VAT.

Bảng giá bán thép xây dựng Việt Ý

STT

Chủng loại

Mác Thép

Đvt

Giá

1

      Thép cuộn Ø6

CT3

      đ/kg

12.280

2

Thép cuộn Ø8

12.280

3

Thanh vằn D10

SD295A

13.720

4

Thanh vằn D12

13.730

5

Thanh vằn D14

14.000

6

Thanh vằn D16

14.000

7

Thanh vằn D18

14.000

8

Thanh vằn D20

14.000

9

Thanh vằn D22

14.000

 

Giá bán thép cuộn tròn trơn xây dựng một số thị trường được tổng hợp theo các ngày trong tuần qua:

Bảng giá thép xây dựng

Ngày

Sản phẩm

Khu vực

Đvt

Giá

15/3/16

Thép cuộn Ø6 Pomina

Bình Dương

đ/kg

11.000

Thép cuộn Ø8 Pomina

11.000

Thép cuộn Ø6

Đồng Tháp

12.200

Thép cuộn Ø8

12.200

Thép cuộn Ø6 LD

Đồng Nai

11.000

Thép cuộn Ø8 LD

11.000

Thép cuộn Ø6 LD

Trà Vinh

11.800

Thép cuộn Ø8 LD

11.800

Thép cuộn Ø6

Long An

11.650

Thép cuộn Ø8

11.650

Thép cuộn Ø6

Bạc Liêu

11.600

Thép cuộn Ø8

11.500

Thép cuộn Ø6

An Giang

11.550

Thép cuộn Ø8

11.500

Thép cuộn Ø6

Hậu Giang

11.000

Thép cuộn Ø8

11.000

 

Thị trường Long An, giá bán sản phẩm thép cuộn có giá bán khá thấp trong các tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 11.650 ngàn đồng/kg tại các đại lý bán lẻ.

Thị trường Bình Dương, giá bán sản phẩm thép cuộn Pomina khá ổn định trong tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 11 ngàn đồng/kg.

Thị trường Đồng Nai, lượng tiêu thụ không có chuyển biến đáng kể nào trong tuần này, giá bán luôn được duy trì ở mức cao qua nhiều tuần. Giá bán thép xây dựng được công bố trong đầu tuần này là 11 ngàn đồng/kg đối với thép cuộn Ø6 và Ø8, giá bán khá cao ở thời điểm hiện tại.

Thị trường Trà Vinh, giá bán lẻ thép cuộn tròn trơn xây dựng LD duy trì mức giá bán thấp hơn các tuần trước đó. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép xây dựng Ø6 là 12.8  ngàn đồng/kg và Ø8 là 11.8 ngàn đồng/kg. Lượng sản phầm bán ra đều đặn, có chiều hướng tăng dần.

 

3.              Dự báo thị trường thép xây dựng

Từ đầu năm 2016, thép thế giới đã nhích lên, đặc biệt là thép Trung Quốc. Trước đó, cả năm 2015, Trung Quốc đã xuất khẩu một lượng thép lớn với giá rẻ và chấp nhận lỗ đến 15 tỉ USD. Thế nhưng, đầu năm 2016 đến nay, Trung Quốc đã giảm sản lượng khiến giá thép tăng từ sau Tết Nguyên đán.

Áp thuế cao, trước mắt nhiều doanh nghiệp thép sẽ được hưởng lợi, nhưng về lâu dài có cứu được ngành thép và quyền lợi của người tiêu dùng được đặt ở đâu là việc phải tính đến. Từ lâu, những bất cập của ngành thép đã được chỉ ra: đó là loanh quanh với gia công (nhập phôi để cán ra thành phẩm mà ít đầu tư sản xuất khép kín, làm phôi thép từ quặng); dùng công nghệ lạc hậu hao tốn nhiều năng lượng nên chi phí sản xuất cao.

Dù mức giá hiện tại tăng khoảng 3% nhưng so với mặt bằng chung của năm 2015 thì mức giá mới vẫn thấp hơn. Thông tin từ một số doanh nghiệp lớn trong ngành thép như Công ty cổ phần Thép Việt (Pomina), Công ty TNHH một thành viên thép miền Nam (VNSteel) cũng cho hay, giá thép đã tăng trong những ngày qua. Lượng hàng xuất bán tăng lên gấp đôi so với trước đó, bởi nhiều đại lý lớn tranh thủ nhập hàng trước khi giá biến động hơn nữa trong tuần tới.

Tại các đại lý tiêu thụ cho biết: giá thép sẽ tăng trong những ngày tới. Chủ cửa hàng đang tính toán nhập thêm hàng trước khi tăng giá mạnh, nhưng nhập lượng bao nhiêu thì còn xem xét, tính toán dựa trên nhu cầu tiêu dùng. Giá bán lẻ chỉ nhích nhẹ trong vài ba ngày gần đây vì đại lý vừa điều chỉnh giá, vừa phải nghe ngóng phản ứng của khách hàng.

Với những yếu tố trên, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) dự báo giá thép trên thị trường trong nước có thể sẽ tiếp tục đà tăng trong những ngày tới, nhưng chỉ tăng nhẹ, không có tính đột biến. Lượng hàng chuyển giao sẽ giảm trước khi mức áp thuế chính thức có hiệu lực, nguyên nhân được các nhà sản xuất thép xây dựng cho là do giá bán có thể tăng trong tuần tới và sự cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn nữa trong thời gian tới.

 

 

Lưu ý: Bảng giá trên đây được tham khảo tại các công ty, đại lý chuyên cung cấp thép xây dựng. Vì vậy bảng giá bán này chỉ để tham khảo không phải là giá cố định mà được điều chỉnh dựa trên số lượng lô hàng, khách hàng khi mua tại các công ty hay đại lý, phương tiện vận chuyển và hình thức thanh toán tùy thuộc vào vùng miền.

4.    Bảng giá các mặt hàng cơ bản Việt Nam tuần 11

 

Chào giá (đ/kg)

Xuất xứ

Giá

Tăng /giảm

Cuộn trơn Ø6.5

Trung Quốc

  9.400

Giảm 300

Cuộn trơn Ø8 

Trung Quốc

  9.700

Giảm 200

Thép tấm 3,4,5 mm

Trung Quốc

  9.200

Giảm 200

Thép tấm 6,8,10,12 mm

Trung Quốc

  9.300

Giảm 300

HRC 2mm

Trung Quốc

  9.600

Giảm 300

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 11/2016

Thị trường trong nước

Thép xây dựng

Hôm 16/3, tại thị trường giao ngay Thượng Hải, thép dây Q195 6.5mm được định giá 2.100-2.110 NDT/tấn (322-324 USD/tấn) gồm 17% VAT, giảm 125 NDT/tấn (19 USD/tấn) so với 1 tuần trước đó. Nhiều người sợ giá sẽ tiếp tục rớt ở trong nước vì hoạt động giao dịch chậm lại trong khi lượng hàng tồn đang tăng.

Thép cây là mặt hàng có tốc độ lao dốc nhanh nhất trong tuần này sau khi tăng nóng trong những tuần trước. Giá liên tục rớt qua 4 ngày liên tiếp với tổng cộng 265 NDT/tấn cùng với xu hướng của phôi thép. Giá càng rớt thì càng khiến tâm lý của các đại lý bất an và muốn đẩy hàng ra bằng cách hạ giá khi thấy phôi thanh rớt giá và khối lượng giao dịch chậm lại trong bối cảnh tâm lý ngày càng bi quan. Người mua cũng quay lưng lại khi thấy giá đảo chiều quá nhanh. Nhưng thật may, đến thứ Năm giá đã tăng trở lại 30 NDT/tấn khi niềm tin phần nào được củng cố nhờ sự phục hồi mạnh của giá phôi thép và thép cây giao sau dù vẫn không thấm vào đâu so với mức đã “bốc hơi”. Như vậy tính đến thứ Năm, giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm đã giảm 235 NDT/tấn so với tuần trước chốt tại 2.090-2.120 NDT/tấn (321-325 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT.

Thép công nghiệp

Hôm 15/3, tại thị trường Thượng Hải, Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 3.120-3.150 NDT/tấn (479-484 USD/tấn), giảm 140 NDT/tấn so với tuần trước sau khi tăng 485 NDT/tấn vào đầu tháng 3. Sự sụt giảm này là nằm trong dự báo, bởi vì giá tăng hồi đầu tuần trước là đầu cơ và bất hợp lý. Các giao dịch trên thị trường CRC đã giảm cùng với đà giảm của giá, và thật khó để dự báo liệu sức mua sụt giảm có gây thêm sức ép lên giá hay không.

Hôm 16/3, tại thị trường Thượng Hải, giá giao dịch phổ biến cho thép tấm SS400 12-30mm là khoảng 2.460-2.500 NDT/tấn (377-384 USD/tấn), giảm 260 NDT/tấn so với giữa tuần trước. Tuy nhiên, dựa trên định giá của Platts hôm 29/2 thì giá hôm thứ Tư vẫn còn cao hơn 320 NDT/tấn. Giao dịch giao ngay đã chậm lại khi giá rớt nhưng dự báo giá sẽ không giảm nhiều hơn nữa bởi vì trong khi  nhu cầu theo mùa đang dần hồi phục thì lượng thép tấm tích trữ của các đại lý nhìn chung vẫn còn thấp.

 

 

Sau khi tăng vọt lên 210 NDT/tấn trong tuần trước, giá HRC ở Thượng Hải đã để mất đến 150 NDT/tấn chỉ trong hai ngày, cùng với sự suy yếu của thị trường giao sau. Các đại lý tỏ ra bối rối trước sự đảo chiều đột ngột này và không chắc giá sẽ đi về đâu trong tuần này. Trong khi đó, người mua cũng đang rút lại đơn đặt hàng khi thấy giá lao dốc, và đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn. Thật may, đà giảm đã chững lại trong thứ Ba và Tư và giữ vững ở mức 2.250-2.260 NDT/tấn. Do các nhà máy thấy giá thấp hơn nên cũng đã ngưng chào giá vì không biết nên bán ra với giá nào bây giờ và thị trường giao sau phục hồi nên đã hỗ trợ giúp giá tăng đáng kể lên 65 NDT/tấn vào ngày thứ Năm đạt mức 2.310-2.330 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT. Tuy vậy, nhìn chung giá vẫn còn thấp hơn nhiều so với tuần trước.

Thị trường xuất khẩu

Platts định giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 400-405 USD/tấn FOB hôm thứ Ba, không đổi so với 1 tuần trước đó. Giá xuất khẩu trung bình hiện nay tương đương khoảng 2.911 NDT/tấn gồm thuế 13%. Mức giá này vẫn còn thấp hơn 224 NDT/tấn so với giá giao ngay trên thị trường bán lẻ Thượng Hải- đó là lý do tại sao các nhà sản xuất vẫn muốn bán ra ở trong nước và không vội xuất khẩu. Cả các nhà máy Trung Quốc và người mua nước ngoài vẫn trong tư thế chờ đợi, và thị trường xuất khẩu đã thực sự chững lại. Thay vì chào giá, các nhà máy đang đề nghị người mua đưa ra giá mua trước, nhưng người mua cũng đã ngưng chào giá vì họ cần thêm thời gian để xác định thực sự giá đang đi về đâu.

Các nhà máy lớn của Trung Quốc đã hạ chào giá xuất khẩu thép tấm so với tuần trước để phù hợp với sự sụt giảm của giá trong nước. Tuy nhiên, với mức giá thấp hơn, các giao dịch trên thị trường thép tấm đã cải thiện trong tuần này và hỗ trợ cho giá xuất khẩu. Tuy giá đã giảm bớt nhưng vẫn cao hơn so với cuối tháng 02. Hôm thứ Tư, hai nhà sản xuất thép tấm lớn đều ở miền bắc chào bán loại SS400 12-30mm với giá 330-335 USD/tấn FOB.

Giá giao ngay của cuộn trơn ở Châu Á sụt giảm từ ngày 10-16/3 do giá thép ở Trung Quốc suy yếu. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm ở mức 316-324 USD/tấn FOB, giảm 12 USD/tấn so với tuần trước. Sau khi tăng 40,5 USD/tấn lên mức cao nhất trong gần 9 tháng.

Sau khi duy trì ổn định ở mức giá 345-350 USD/tấn FOB suốt 4 ngày liên tiếp khi cả người mua và bán vẫn đang trong tư thế chờ đợi, thì giá HRC đã giảm 5 USD/tấn lần đầu tiên trong gần hai tháng qua do giá Trung Quốc suy yếu và hoạt động thu mua lắng dịu bớt. Nhưng đến thứ Năm, giá bán đã tăng nhẹ 1 USD/tấn do giá Trung Quốc và chào giá mua cao hơn. Một số nhà máy Trung Quốc đã chọn cách ngưng chào giá, do không chắc họ có thể bán với mức giá nào. Người mua ở nước ngoài cũng đang bắt đầu thu mua khi thấy giá Trung Quốc tăng trở lại. Hôm 17/3, HRC SS400 3.0mm có giá 342-345 USD/tấn, như vậy tuần này giá đã giảm 4 USD/tấn.

Diễn biến của thị trường thép cây xuất khẩu cũng tương tự, khi giá không đổi trong 4 ngày liên tiếp ở mức 310-315 USD/tấn FOB, khi các nhà cung cấp duy trì chào giá của họ không đổi để đợi người mua theo kịp. Nhưng sau đó giá không thể cầm cự mãi ở mức này nhất là khi giá trong nước sụt giảm nên đã giảm nhẹ 1,5 USD/tấn. Đến thứ Năm, nhiều nhà sản xuất cân nhắc lại chuyện tăng giá xuất khẩu một lần nữa, khi thấy giá thép giao ngay và giao sau ở Thượng Hải phục hồi trong đó có phôi thép, do đó chào giá thấp đã biến mất khỏi thị trường. Có thể nói, đây là một tuần biến hóa đầy linh hoạt của các nhà cung cấp tùy theo tình hình thị trường. Hôm thứ Năm, thép cây BS500 đường kính 16-20mm có giá 310-314 USD/tấn FOB.

 

Tổng quan thị trường thép Thế giới tuần 11/2016

 Mỹ

Trong bối cảnh niềm tin thị trường cho thấy giá thép tấm mỏng tiếp tục xu hướng tăng, một loạt các nhà máy Mỹ đang cố gắng tận dụng cơ hội này bằng cách thông báo tăng giá từ 20-40usd/tấn ngắn. Ước tính HRC có giá 450-460usd/tấn ngắn, giá 420-430usd/tấn ngắn  đã không còn xuất hiện. Giá CRC và HDG ở mức 590-610usd/tấn ngắn xuất xưởng Midwest.

Platts duy trì định giá HRC và CRC hàng ngày lần lượt ở mức 420-440usd/tấn ngắn và 580-600usd/tấn ngắn, cơ bản xuất xưởng Midwest (Indiana). 

Trong khi đó một số người mua cuộn trơn Mỹ dường như chắc chắn rằng mức giá tăng 20usd/tấn ngắn thông báo tuần trước của các nhà máy nội địa sẽ duy trì ổn định, những người khác thì cho rằng vẫn còn quá sớm để nói đến. Nucor tuần trước đã nâng giá cuộn trơn 20usd/tấn ngắn hàng giao tháng 04, cùng với Gerdau Long Steel North America và Keystone Steel & Wire cũng ra thông báo mức tăng tương tự vài ngày sau đó. Platts duy trì định giá tuần cuộn trơn dạng lưới Mỹ ở mức 430-460usd/tấn ngắn xuất xưởng hôm thứ Sáu.

Việc nhiều nhà máy Mỹ chính thức thông báo nâng giá thép cây trong tuần này sẽ kéo giá lên mức cao hơn nhưng mức tăng bao nhiêu sẽ có thể duy trì thì không ai chắc. Gerdau Long Steel North America và Commercial Metals Co. đã thông báo tăng giá các sản phẩm thép cây trong tuần này. Mức tăng của Gerdau mà công ty này cho biết sẽ tăng giá giao dịch thêm 30usd/tấn ngắn, có hiệu lực từ ngày 21/03, trong khi CMC cho biết sẽ tăng giá thêm 20usd/tấn ngắn có hiệu lực từ 01/04. Platts duy trì định giá thép cây đông nam Mỹ tại 455-470usd/tấn ngắn xuất xưởng thứ Năm. 

Giá xuất khẩu phế Mỹ đang tăng vọt do nhà cung cấp tiếp tục nâng giá chào bán trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu thắt chặt. Platts định giá phế vụn Bờ Đông nước Mỹ ở mức 210-215usd/tấn FOB, tăng từ mức 205-2017usd/tấn. Platts định giá phế container HMS 80:20 Bờ Tây Mỹ ở mức 170-175usd/tấn FAS Cảng Los Angeles, tăng từ mức 159-161usd/tấn.  

Thổ Nhĩ Kỳ

Tuần này đà tăng giá thép cây Thổ Nhĩ Kỳ hiện đang giảm dần, do các nhà máy hầu như duy trì giá niêm yết trong suốt tuần.

Đợt tăng giá mới nhất là từ Icdas hồi đầu tuần này. Giá bán của Icdas cho thép cây 12-32mm ở mức 1.390TRY/tấn xuất xưởng Istanbul và 1.370TRY/tấn xuất xưởng Biga, Canakkale, tương đương 412usd/tấn và 405usd/tấn tương ứng, không bao gồm VAT 18%. Giá của công ty này cho thép cây 10mm đã tăng lên mức1.400 TRY /tấn xuất xưởng, trong khi thép cây 8mm ở mức 1.410TRY/tấn xuất xưởng ở Istanbul.

Giá bán thép cây của Kardemir duy trì ổn định ở mức 1.145TRY/tấn xuất xưởng, tương đương 400usd/tấn, kể từ đó, không bao gồm VAT 18%.

Ngược lại giá thép cây xuất kho tại thị trường nội địa Thổ Nhĩ Kỳ lại đang giảm nhẹ. Do nhu cầu tiêu thụ thấp hơn so với tuần trước cũng như đồng lira tăng giá so với đồng dollar Mỹ hôm thứ Năm. Giá bán phổ biến thép cây 8-12mm của các nhà tích trữ ở vùng Marmara giảm còn 1.380-1.410TRY/tấn xuất xưởng (gồm 10% VAT) hôm thứ Năm, giảm nhẹ 10TRY/tấn tương đương 3.5usd/tấn. 

Giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ tăng do giá từ các nhà máy tiếp tục tăng cũng như một mức độ sẵn sàng chấp nhận cao hơn được từ người mua nghe nói đến. Giá chào xuất khẩu, nghe nói trong một phạm vi là 390-400usd/tấn FOB. Platts định giá thép cây xuất khẩu Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 374usd/tấn FOB thứ Năm, tăng 8usd/tấn từ mức thứ Tư.

Trong khi đó Kardemir đã chốt đơn đặt hàng bán phôi thanh hôm 14/03 và có thể sẽ tái mở bán trong vài ngày tới. Mức tăng dự kiến trong giá niêm yết của Kardemir có thể sẽ thấp hơn so với lần tăng giá trước đó, trong bối cảnh giá cả ổn định hơn trong tuần này. Giá niêm yết của công ty cho phôi thanh tiêu chuẩn là 335-340usd/tấn xuất xưởng. 

Icdas cũng tăng giá wire rod 7-8.5mm lên mức 1,450-1,480 TRY/tấn xuất xưởng, bao gồm VAT.

Sau khi tăng vọt đáng kể khoảng 100usd/tấn, giá cuộn cán nóng và cán lạnh nội địa Thổ Nhĩ Kỳ đang duy trì ổn định trong tuần này, do người mua rút ra khỏi thị trường chờ đợi điều chỉnh giá giảm xuống.

Giá chào trong nước của các nhà sản xuất trong khoảng 420-450usd/tấn xuất xưởng vào hôm thứ Ba, tăng hơn 100usd//tấn  kể từ cuối tháng 02. Song song với sự gia tăng đáng kể này, chào giá CRC của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho thị trường trong nước cũng đã tăng lên trong mức khoảng 510-540usd/tấn vào cuối tuần trước.

Đối với cuộn mạ sau khi tăng giá lên đáng kể song song với giá cuộn cán nóng, các nhà sản xuất cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ đã bắt đầu đưa ra chính sách chiết khấu cho giá niêm yết đối với một số loại mặt hàng thép cuộn mạ, giá chào nghe nói ở mức 670-680usd/tấn so với mức 700usd/tấn của tuần trước. Chào giá HDG dày 0.5mm ở mức 660-690usd/tấn xuất xưởng hôm thứ Tư, trong khi giá chào trong nước của PPGI 9002 0.5mmở mức 760-790usd/tấn xuất xưởng. 

Tuần này giá mua bằng dollar cho phế tàu và giá mua bằng lira cho phế DKP của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đang tiếp tục cải thiện.

Giá phế tàu nấu chảy bắt đầu được chào giá đến nhà máy ở miền tây Thổ Nhĩ Kỳ (Habas, IDC, Ege Celik, Ozkan) ở mức 215-220usd/tấn hôm thứ Tư, tăng 5usd/tấn so với đầu tuần. Tuy nhiên, giá phế nhập khẩu duy trì ổn định trong khoảng 216-218usd/tấn CFR trong tuần này, trong bối cảnh giá phôi và thép thành phẩm ở Thổ Nhĩ Kỳ đang hạ nhiệt.

Một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cũng tăng giá thu mua phế DKP hơn nữa hôm thứ Tư. Một nhà sản xuất thép lò hồ quang điện lớn nhất Thổ Nhĩ Kỳ, Colakoglu, và nhà sản xuất thép hợp kim Asil Celik đã nâng giá mua vào cho phế DKP lầnlượt thêm 30TRY(10usd)/tấn lên mức 555TRY(190usd)/tấn và thêm 25TRY(8.5usd)/tấn lên mức 600TRY(205usd)/tấn.  

Giá mua phế nội địa của các nhà sản xuất thép EAF nằm trong mức 555-600TRY/tấn (190-205usd/tấn) hôm thứ Tư, tùy thuộc vào khu vực và yêu cầu của nhà máy. 

CIS

Tuần này giá chào phôi vuông của CIS có thể ở mức 295-300usd/tấn FOB cho sản lượng tháng 05. Một nhà sản xuất thép Nga cho biết đang chào giá phôi vuông ở mức 285-290usd/tấn FOB. Mặc dù đà tăng dường như chỉ có thể trong ngắn hạn người mua vẫn không thể tin được sự tăng vọt của xu hướng đi lên và đang tỏ ra rất thận trọng với mức giá đặt mua là bao nhiêu. Thứ Sáu, 11/03, Platts tăng định giá phôi vuông FOB Biển Đen hàng tuần lên mức 255-265usd/tấn, tăng 5usd/tấn trong so với tuần trước đó.

Sau một bước tăng vọt cuối tuần trước, thị trường phôi thanh Biển Đen đạt đến một bước chuyển và niềm tin tuần này đã tỏ ra thờ ơ hơn, với dự đoán điều chỉnh giá sẽ diễn ra trong tương lai gần. Với sự biến động thị trường cũng như thiếu rõ ràng gần đây, chào giá từ nhà máy CIS tiếp tục được biết trong một phạm vi khá lớn là 310-350usd/tấn FOB Biển Đen tuần này. Giá thầu tối đa của người mua nằm trong khoảng 310-315usd/tấn CFR Thổ Nhĩ Kỳ.

Niềm tin thị trường suy yếu hơn ở khu vực Biển Đen giải thích cho xu hướng một số giá chào bán phôi thanh Trung Quốc giảm xuống còn 275-290usd/tấn FOB Trung Quốc. Do đó hầu hết các thương nhân dự đoán sẽ có sự điều chỉnh giảm xuống của giá Biển Đen trước khi ổn định ở mức 285-290usd/tấn FOB Biển Đen.  

Platts định giá phôi thanh xuất khẩu CIS ở mức 310usd/tấn FOB Biển Đen hôm thứ Năm, không đổi so với thứ Tư.

Nhà sản xuất thép cuộn  Nga và Ukraina đang đàm phán chào giá mới cho hàng xuất khẩu Biển Đen trong tuần này, cho thấy mức tăng đáng kể của sản lượng sản xuất tháng 04, giao tháng 05. Lần tăng giá này diễn ra song song theo xu hướng đi lên được thiết lập bởi những nhà xuất khẩu Trung Quốc đã khởi động cách đây một tháng.

Đầu tuần này, một nhà máy của Nga đã gia nhập thị trường với chào giá HRC chốt ở mức 330usd/tấn FOB Biển Đen cho thị trường Bắc Phi và 310euro/tấn FOB cho thị trường châu Âu và giá thỏa thuận sẽ gần mức “chắc chắn không dưới 300usd/tấn FOB” cho đơn hàng cuộn khối lượng nhỏ. Chào giá CRC cho khu vực ngoài EU chốt ở 390usd/tấn FOB. Tại Ai Cập mức giá 330-350usd/tấn FOB cho HRC là chấp nhận được tương đương giá CFR là 350-370usd/tấn.

Nhà sản xuất Ukraina Metinvest bán HRC và CRC đến Thổ Nhĩ Kỳ lần lượt ở mức 380-385usd/tấn và 445usd/tấn, CFR. Platts định giá HRC hàng ngày tại 322.5usd/tấn FOB Biển Đen, tăng 15usd/tấn. Giá CRC tăng 20usd/tấn lên mức 380usd/tấn FOB hôm thứ Năm.

Châu Âu

Sau sự khởi đầu trì trệ trong năm nay, thị trường tấm dày châu Âu đang nhanh chóng cải thiện mạnh mẽ trong tháng 03 với các nguồn tin địa phương cho biết giá tăng đang tốt hơn nhiều so với trước đây.

Chào giá tấm khổ ¼ từ các nhà máy khu vực tây bắc châu Âu đang tăng lên đáng kể, ở mức khoảng 400-420euro/tấn. Chào giá cho các loại thép tấm dày 5-6mm là 425-430euro/tấn cơ bản vận chuyển. Platts định giá thép tấm hằng ngày ở mức 380euro/tấn xuất xưởng Ruhr, tăng 12.5euro/tấn. Định giá nhập khẩu duy trì không đổi ở mức 310euro/tấn CIF Antwerp. 

Tại thị trường tấm mỏng Tata Steel đã thông báo tăng thêm 5euro/tấn sau khi đã thông báo tăng 25euro/tấn một tháng trước đó. ArcelorMittal đã tăng thêm 30euro/tấn cho toàn bộ đơn đặt hàng trong Q2 cuối tuần trước. Theo ước tính, điều này cho thấy chào giá ở mức 360-370euro/tấn trong thị trường giao ngay trong khi những nhà máy khác xác nhận mức giá chào bán là 350-360euro/tấn.

Chào giá từ một số các nhà máy được nghe nói ở mức 350-360euro/tấn trong khi Platts tính toán chào giá của nhà sản xuất hàng đầu thị trường này là ArcelorMittal ở trong phạm vi 360-370euro/tấn.

Platts nâng định giá HRC châu Âu trong tuần này lên mức 340-350euro/tấn xuất xưởng Ruhr.

Giá chào nhập khẩu cho mặt hàng HRC tiếp tục khan hiếm, với giá chào được nghe gần đây nhất từ Trung Quốc ở 310euro/tấn CIF Antwerp mặc dù một nhà máy Nga nghe nói cũng đang chào giá ở mức 310euro/tấn FOB. 

Tuần này giá thép cây ở khu vực tây bắc châu Âu đã tiếp tục tăng lên, trong bối cảnh thị trường phế và thị trường quốc tế cải thiện mạnh mẽ. Các thành phần tham gia thị trường ở Đức cho biết rằng giá thép cây đã tăng thêm khoảng 20euro/tấn trong suốt 10 ngày qua lên mức cơ bản 95-100euro/tấn tương đương 365-370euro/tấn vận chuyển, trong khi giá cơ bản ở Pháp được biết ở mức 90euro/tấn. Platts định giá thép cây hàng ngày hôm thứ Ba tăng 5euro/tấn lên mức 355-365euro/tấn xuất xưởng NW châu Âu. 

Đối với cuộn trơn, được biết các nhà sản xuất khu vực tây bắc châu Âu vẫn chưa chào giá, sau khi nhìn thấy giá của mình sụt giảm còn 310euro/tấn xuất xưởng giao ngay.

Giá thanh toán tháng 03 của phế vụn đã tăng lên mức 165-175€/tấn so với tháng trước đó, theo các thành phần tham gia thị trường. Các nguồn tin ở Pháp và Bỉ cho biết mức tăng cao 20-30€/ tấn, để đáp ứng với sự gia tăng tại các thị trường quốc tế. 

Nhật Bản

NSSMC sẽ duy trì giá thép dầm hình H giao ngay trong nước cho những hợp đồng tháng 3 (cán vào tháng 4). NSSMC đã giữ giá thép dầm hình H không đổi trong hơn một năm qua. Tuy NSSMC không bao giờ tiết lộ giá niêm yết của mình nhưng giá thị trường hiện nay cho thép dầm hình H SS400 ở Tokyo xấp xỉ 70.000-71.000 Yên/tấn (614-623 USD/tấn), không đổi so với cách đây 1 tháng.

Ấn Độ

Ngụ ý từ các nhà sản xuất thép Ấn Độ rằng họ đang cân nhắc chuyện tăng giá sớm cho các sản phẩm chủ chốt trong đó có HRC đã châm ngòi cho một số hoạt động thu mua đầu cơ giữa các đại lý trong nước. Trong tháng qua, các nhà máy Ấn Độ đã tăng giá HRC thêm 2.000-3.000 Rupees/tấn (30-45 USD/tấn) trước động thái áp dụng chính sách giá nhập khẩu tối thiểu (MIP) của New Delhi có hiệu lực từ ngày 05/02.

Với MIP cho HRC nhập khẩu là 445 USD/tấn (30.000 Rupees/tấn), các nhà sản xuất trong nước tự tin rằng họ có thể nâng giá lên tổng cộng 5.000 Rupees/tấn vào tháng tới. Tuy nhiên, việc thu mua như vậy không được xem là nhu cầu thực sự mà  đang làm tăng thêm hàng tồn trên thị trường, nhưng việc giải quyết chúng thì chậm.

Platts định giá HRC IS 2062 A/B 3mm trong khoảng 25.500-26.500 Rupees/tấn (379-394 USD/tấn) xuất xưởng trong tuần này, không đổi so với tuần trước.

Đài Loan

Feng Hsin Iron & Steel, nhà sản xuất thép cây hàng đầu Đài Loan, đã nâng giá niêm yết cho thép cây và giá mua phế một lần nữa, lên thêm 400 Đài tệ/tấn (12 USD/tấn) từ ngày 14-18/3 để phản ánh đà tăng duy trì của giá phế suốt ba tuần qua.

Với lần điều chỉnh mới đây, mức giá mà Feng Hsin đang đang trả cho các nhà cung cấp HMS lên 5.500 Đài tệ/tấn. Trong khi giá niêm yết cho thép cây chuẩn 13mm đạt 11.900 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung.

Các nhà máy Đài Loan không nghĩ giá phôi Trung Quốc tăng gần đây sẽ bền vững, và do đó để giảm thiểu rủi ro, họ đang hạn chế nhập khẩu trong khi giá cao.