THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG VIỆT NAM TUẦN 25
Từ ngày 19 đến ngày 25-06-2015
1. Thị trường thép xây dựng trong nước
Tuần qua thị trường tiêu thụ thép xây dựng giảm đáng kể, nguyên nhân là do mưa lớn kéo dài ở Miền Nam và bão số 1 ở Miền Bắc đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động vận chuyển cũng như tiến độ tại các công trình. Tại các đại lý, lượng tiêu thụ giảm rõ rệt, trung bình mỗi tuần xuất kho được 1,5 đến 2,5 tấn tùy theo thời điểm. Theo thông tin từ các nhà máy cũng như các dự án xây dựng, nhu cầu thép xây dựng vẫn tiếp tục giảm trong tuần tới và công tác vận chuyển sẽ gặp khó khăn vì thời tiết không thuận lợi.
Do nguồn quặng trong nước chất lượng thấp, nên để đảm bảo sản xuất, các doanh nghiệp thép đang tính toán đến việc nhập khẩu nguyên liệu nhân lúc giá thế giới giảm sâu. Cuối tuần qua, Công ty Cổ phần Thép Hòa Phát đã nhập 55.000 tấn tinh quặng từ Nam Phi để phục vụ cho quá trình sản xuất. Đây là lần đầu tiên đơn vị này nhập tinh quặng. Lô hàng này giúp Hòa Phát khơi thông được nguồn nguyên liệu từ thế giới trong bối cảnh nguồn quặng trong nước thiếu thốn. Căn cứ vào diễn biến thị trường và nhu cầu sản xuất, Hòa Phát sẽ tiếp tục nhập khẩu quặng trong thời gian tới.
Để đảm bảo phục vụ cho các nhà máy sản xuất trong nước, từ năm 2012, Chính phủ đã ban hành chỉ thị về việc cấm xuất khẩu các loại khoáng sản, trong đó có quặng sắt để dành cho việc chế biến sâu trong nước. Theo lãnh đạo Hiệp hội Thép, với trữ lượng còn lại của quặng sắt chỉ khoảng 1,3 tỷ tấn, không tính quặng sắt Tây Nguyên chất lượng thấp, chủ trương này của Chính phủ hoàn toàn nhất quán với tình trạng doanh nghiệp trong nước thiếu nguồn nguyên liệu.
Mối lo lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp thép vẫn là thép Trung Quốc. Việc các doanh nghiệp thép Trung Quốc lách luật bằng cách thêm chất Bo vào để hưởng quy chế thuế suất 0% đang gây ra những khó khăn cho thép sản xuất trong nước. Ban đầu, các doanh nghiệp Trung Quốc chỉ pha nguyên tố Bo vào sản phẩm thép cuộn, nhưng sau này lại cho vào thép hình và cả các sản phẩm thép khác để tăng tính cạnh tranh với các sản phẩm thép Việt.
Tuy giá bán có giao động nhẹ nhưng nhìn chung vẫn duy trì phổ biến như sau: giá thép cuộn dao động từ 14,9-15,1 triệu đồng/tấn, thép cây 15-15,1 triệu đồng/tấn. Giá bán cuối cùng vẫn dựa trên thỏa thuận giữa người mua và người bán, phụ thuộc vào thời điểm giao hàng và khối lượng đơn hàng.
2. Thông tin thị trường giá thép xây dựng các khu vực, nhà máy
Hiện tại nhu cầu thép xây dựng tại thị trường nội địa vẫn giữ mức tăng trưởng khá mặc dù lượng tiêu thụ giảm nhẹ so với tháng trước. Nhưng thực tế, nếu nhìn vào kim ngạch xuất nhập khẩu của ngành thép có lẽ sẽ không tránh khỏi cảm giác lo lắng khi lượng thép nhập khẩu vẫn gia tăng trong khi thép xuât khẩu lại có vẻ như đang chững lại. Cụ thể, nhập khẩu thép các loại từ các thị trường trong tháng 5/2015 giảm 19,3% về lượng và 34,5% về trị giá so với cùng kỳ. Tính chung 5 tháng đầu năm 2015, nhập khẩu thép các loại tăng 14,7% về lượng, giảm 2,5% về trị giá, tuy nhiên nhập khẩu sản phẩm từ thép tăng 51,2% về trị giá so với cung kỳ.
Lượng thép nhập khẩu đang tiếp tục có chiều hướng gia tăng mạnh, tập trung chủ yếu dưới dạng thép hợp kim. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Năm nay số lượng phôi thép nhập khẩu mà chủ yếu từ thị trường Trung Quốc có thể lên tới con số hàng triệu tấn.
Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Trung, sản phẩm của Công ty Thép Thái Nguyên. Giá bán chưa bao gồm thuế VAT.
Bảng giá bán thép xây dựng Thái Nguyên | ||||
STT |
Chủng loại |
Tiêu chuẩn |
Đvt |
Giá |
1 | Thép cuộn Ø6 | CT3 | đ/kg | 12.390 |
2 | Thép cuộn Ø8 | 12.390 | ||
3 | Thép cuộn Ø10 | 12.920 | ||
4 | Thép tròn trơn Ø12 | 12.920 | ||
5 | Thép tròn trơn Ø14 | 12.920 | ||
6 | Thép tròn trơn Ø16 | 12.920 | ||
7 | Thép tròn trơn Ø18 | 12.920 | ||
8 | Thép tròn trơn Ø20 | 12.920 | ||
9 | Thép tròn trơn Ø22 | 12.920 | ||
10 | Thép tròn trơn Ø32 | 12.920 | ||
11 | Thép tròn trơn ~Ø40 | 12.920 | ||
12 | Thanh vằn D10 | CT5 SD295A | 12.840 | |
13 | Thanh vằn D12 | 12.740 | ||
14 | Thanh vằn D14 | 12.640 | ||
15 | Thanh vằn D16 | 12.640 | ||
16 | Thanh vằn D18 | 12.640 | ||
17 | Thanh vằn D20 | 12.640 | ||
18 | Thanh vằn D22 | 12.640 | ||
19 | Thanh vằn D25 | 12.640 | ||
20 | Thanh vằn D32 | 12.640 | ||
21 | Thanh vằn D40 | 12.640 |
Giá bán thép cuộn tròn trơn xây dựng một số thị trường được tổng hợp theo các ngày trong tuần qua:
Bảng giá thép xây dựng | ||||
Ngày |
Sản phẩm |
Khu vực |
Đvt |
Giá |
23/6/15 | Thép cuộn Ø6 Pomina | Bình Dương | đ/kg | 15.000 |
Thép cuộn Ø8 Pomina | 15.000 | |||
Thép cuộn Ø6 | Đồng Tháp | 15.200 | ||
Thép cuộn Ø8 | 15.200 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Đồng Nai | 17.000 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 17.000 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Trà Vinh | 13.800 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 13.800 | |||
Thép cuộn Ø6 | Long An | 13.650 | ||
Thép cuộn Ø8 | 13.650 | |||
Thép cuộn Ø6 | Bạc Liêu | 13.600 | ||
Thép cuộn Ø8 | 13.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | An Giang | 14.550 | ||
Thép cuộn Ø8 | 14.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | Hậu Giang | 15.000 | ||
Thép cuộn Ø8 | 15.000 |
Thị trường Long An, giá bán sản phẩm thép cuộn có giá bán khá thấp trong các tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 13.650 ngàn đồng/kg tại các đại lý bán lẻ.
Thị trường Bình Dương, giá bán sản phẩm thép cuộn Pomina khá ổn định trong tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 15 ngàn đồng/kg.
Thị trường Đồng Nai, lượng tiêu thụ không có chuyển biến đáng kể nào trong tuần này, giá bán luôn được duy trì ở mức cao qua nhiều tuần. Giá bán thép xây dựng được công bố trong đầu tuần này là 17 ngàn đồng/kg đối với thép cuộn Ø6 và Ø8, giá bán khá cao ở thời điểm hiện tại.
Thị trường Trà Vinh, giá bán lẻ thép cuộn tròn trơn xây dựng LD duy trì mức giá bán thấp hơn các tuần trước đó. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép xây dựng Ø6 là 13.8 ngàn đồng/kg và Ø8 là 13.8 ngàn đồng/kg. Lượng sản phầm bán ra đều đặn, có chiều hướng tăng dần.
3. Dự báo thị trường thép xây dựng
Hiện đang vào mùa mưa nên tiến độ xây dựng gặp nhiều khó khăn dẫn đến nhu cầu về thép xây dựng không nhiều, song nhiều đơn hàng vẫn được các nhà máy chuyển đến công trình theo đúng hợp đồng đã ký kết. dự báo doanh số bán ra tại các đại lý sẽ có tuần chững lại. Được biết chỉ còn có cách là giảm giá thì mới mong tiếp tục thu hút khách hàng, tuy nhiên giảm quá sâu là không thể. Theo mức giá hiện tại thì các đại lý chỉ có thể giảm 500 ngàn/tấn đối với từng đơn hàng hoặc hỗ trợ vận chuyển.
Sắp tới, công ty Posco SS-Vina, công ty con của nhà sản xuất thép dài ở miền nam Việt Nam, dự kiến sẽ nghiệm thu chính thức nhà xưởng sản xuất thép cây và thép hình mới vào ngày 29/6 tới. Thép xây dựng mang nhãn hiệu Posco SS-Vina đã được đưa ra thị trường tiêu thụ từ tháng 3. Sau khi điều chỉnh một số khó khăn về chất lượng sản phẩm và mẫu mã dự kiến lượng sản phẩm sẽ được đẩy mạnh tiêu thụ ra thị trường trong nước. Giá bán sản phẩm thép cây thanh vằn xây dựng rẻ hơn các sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước nên tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn.
Lưu ý: Bảng giá trên đây được tham khảo tại các công ty, đại lý chuyên cung cấp thép xây dựng. Vì vậy bảng giá bán này chỉ để tham khảo không phải là giá cố định mà được điều chỉnh dựa trên số lượng lô hàng, khách hàng khi mua tại các công ty hay đại lý, phương tiện vận chuyển và hình thức thanh toán tùy thuộc vào vùng miền.
4. Giá các mặt hàng thép cơ bản Việt Nam
| Chào giá (đ/kg) | ||
Xuất xứ | Giá | Tăng /giảm | |
Cuộn trơn Ø6 | Trung Quốc | 9.300 | Không đổi |
Cuộn trơn Ø8 | Trung Quốc | 10.200 | Tăng 200 |
Thép tấm 3,4,5 mm | Trung Quốc | 9.200 | Không đổi |
Thép tấm 6,8,10,12 mm | Trung Quốc | 9.300 | Giảm 100 |
HRC 2mm | Trung Quốc | 9.200 | Giảm 400 |
Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 25
Mỹ
Gía nhập khẩu phế khối lượng nhỏ Mỹ vào Đài Loan giảm xuống dưới mức 230 USD/tấn CFR do sự suy yếu của thị trường thép cây Đài Loan cũng như phôi thanh giá thấp có sẵn từ Trung Quốc. Gía chốt phế đạt mức 229-230 USD/tấn CFR Đài Loan , giảm từ mức 230-232 USD/tấn tuần qua.
Tuy nhiên, thị trường thép cuộn khởi sắc do các nhà máy tăng giá chào bán. Một trung tâm dịch vụ tại Midwest cho biết nhận được chào giá CRC là 580 USD/tấn trong khi đơn hàng 500 tấn HRC gần đây được chốt tại mức 470 USD/tấn. Gía HRC vẫn không đổi tại mức 460-470 USD/tấn xuất xưởng Midwest (Indiana).
Thổ Nhĩ Kỳ
Gía xuất khẩu thép cây Thổ Nhĩ Kỳ suy yếu theo giá nội địa. Gía xuất xưởng tại Iskenderun là 420-425 USD/tấn, giảm mạnh so với giá sàn trước đó và giá xuất khẩu cũng giảm tương tự. Gía dự thầu từ Mỹ đạt mức 435-440 USD/tấn CFR trọng lượng lý thuyết.
Tương tự, các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ giảm giá chào xuất khẩu thép dây xuống 10 USD/tấn còn 450-460 USD/tấn FOB do tiêu thụ từ các nước giảm, đặc biệt là từ MENA do lễ Ramadan trong khi tiêu thụ từ Châu Âu và Mỹ cũng tương đối thấp.
Nhu cầu tiêu thụ thép cuộn mạ Thổ Nhĩ Kỳ vẫn thấp sau cuộc Bầu cử Tổng thống. Người mua đang thận trọng trước khi đặt hàng dựa vào sự bất ổn và thiếu hụt tiền mặt.
Gía CRC từ các nhà máy tương đối bình ổn tại mức 530-545 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu vẫn thấp hơn 20 USD/tấn trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt và nhu cầu tiêu thụ tương đối thấp từ các thị trường xuất khẩu chính của ThổNhĩ Kỳ.
Gía CRC 0.7-2mm từ các nhà môi giới cũng bình ổn tại mức 565-575 USD/tấn trong khi giá chào CRC từ CIS suy yếu 5 USD/tấn trong tuần này. Gía chào nhập khẩu CRC đạt mức 445-460 USD/tấn CFR.
Trong khi đó, giá HRC cũng tương đối bình ổn so với tuần trước. Gía chào HRC từ các nhà môi giới đạt mức 425-440 USD/tấn xuất xưởng.
CIS
Các nhà xuất khẩu phôi thanh CIS tiếp tục giảm giá phôi giao tháng 7 trước áp lực từ khách hàng cũng như động thái giảm giá của đối thủ Trung Quốc. Gía có sẵn tại mức 350 USD/tấn FOB nhưng không được nhiều người mua chấp nhận. Trong khi đó, giá chào từ Trung Quốc là 330-350 USD/tấn CFR Aliaga.
Gía xuất khẩu thép cuộn Biển Đen tuần này bình ổn. Theo các nhà máy Nga, giá đã ngưng giảm đối với thép sản xuất tháng 7 và bình ổn với thép giao tháng 8. Gía HRC Nga duy trì tại mức 345-348 USD/tấn FOB Biển Đen tới các khách hàng ngoài Châu Âu. Trong khi đó, giá chào bán 345 Euro/tấn FOB Biển Đen tới Châu Âu lại không cạnh tranh.
Nhà máy Severstal đang bán HRC tới Châu Âu tại mức giá 375-385 USD/tấn (335-344 Euro/tấn) FOB St Petersburg, không đổi. Đối với các thị trường khác, giá giảm 20-30 USD/tấn.
Gía CRC từ Nga đạt mức 435 USD/tấn FOB Biển Đen. Một thương nhân Châu Âu cho biết giá này dành cho các nước thứ ba do giá chào tới Châu Âu bị giới hạn do các điều tra chống bán phá giá. Gía chào CRC Severstal tới Châu Âu đạt mức 410-430 Euro/tấn FOB St Petersburg, giảm 17 Euro/tấn (20 USD/tấn) đối với các khu vực còn lại.
Châu Âu
Gía thép cây Ý và thép dây dạng lưới đã giảm 5 Euro/tấn do nhu cầu tiêu thụ thấp từ sự suy yếu của ngành xây dựng. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà máy cũng gây áp lực cho thép cây. Gía thép cây được chào bán chính thức tại mức 160 Euro/tấn xuất xưởng nhưng vài đơn hàng đã được chốt tại mức giá 150-155 Euro/tấn xuất xưởng. Tại thị trường xuất khẩu, giá giảm còn 415 Euro/tấn FOB dựa vào áp lực hàng nhập khẩu giá thấp từ Trung Quốc.
Trái lại, gía thép dây dạng kéo vẫn bình ổn mặc dù vấp phải áp lực hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc.Gía thép dây dạng kéo từ Ý đạt mức 450-460 Euro/tấn đã tính phí giao hàng thực tế với giá nhập khẩu đạt mức 405-410 Euro/tấn CIF Ý hoặc 430-435 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Gía thép hình Bắc Âu đã giảm 5-10 Euro/tấn trong 3 tuần qua dựa trên nhu cầu tiêu thụ thấp, trong khi giá thép thanh thương phẩm chỉ giảm 2-3 Euro/tấn nhờ số lượng khách hàng tăng.
Gía thép thanh thương phẩm đạt mức 80-90 Euro/tấn giá cơ bản, tương đương mức 500-510 Euro/tấn đã tính phí giao hàng.
Gía thép hình loại 1 đạt mức 520-525 Euro/tấn đã tính phí giao hàng. Các nhà máy không còn đủ size thép đang chào bán tại mức 520 Euro/tấn.
Tại thị trường thép cuộn, mặc dù các nhà máy Bắc Âu vẫn chào bán trên mức 400-405 Euro/tấn song giá giao dịch chỉ ở mức 390 USD/tấn.
Một nhà máy Đông Âu chào bán HRC tại mức 400-405 Euro/tấn, cùng giá với Bắc Âu nhưng chưa có giao dịch nào diễn ra dưới mức này.
Châu Á
Giá giao ngay của cuộn trơn nhập khẩu ở Châu Á đã giảm tới mốc thấp kỷ lục mới, theo giá trong nước tại Trung Quốc, do các nhà xuất khẩu bán khống với nỗ lực thu hút sức mua trong bối cảnh nhu cầu suy yếu. Tuy nhiên, một số người cho rằng giá ít có khả năng giảm thêm nữa.
Gía cuộn trơn dạng lưới 6.5mm thấp hơn 5 USD/tấn so với tuần trước còn 330-335 USD/tấn FOB Trung Quốc.
Tương tự, giá HRC giao ngay ở Châu Á giảm tới mốc thấp mới trong bối cảnh sự cạnh tranh gay gắt giữa những người bán, trong đó có cả những người bán khống, họ đánh cược rằng giá có thể sẽ giảm thêm nữa trong ngắn hạn. Gía HRC SS400 dày trên 3.0mm ở mức 337-345 USD/tấn FOB.
Giá thép cây cũng sụt giảm ở Châu Á, chạm mốc thấp kỷ lục mới .Thép cây BS460/HRB400 đường kính từ 16mm trở lên giảm mạnh 12,5 USD/tấn so với tuần trước còn 308-315 USD/tấn FOB Trung Quốc trọng lượng thực tế.
Ấn Độ
Giá thép cây và cuộn trơn của Ấn Độ đang lao dốc nhanh do thiếu lực cầu cũng như sự tràn lan của thép nhập khẩu giá rẻ phần lớn đến từ Trung Quốc, mặc dù khối lượng đã giảm bớt trong năm nay.
Thép cây đường kính 8-12mm ở Mumbai có giá khoảng 36.500 rupees/tấn (574 USD/tấn), giảm từ 39.000 rupees/tấn hồi đầu tháng 4 và 37.500 rupees/tấn của tháng 5 đã gồm phí vận chuyển tới khách hàng, thuế tiêu thụ đặc biệt và VAT. Xu hướng giảm cũng được nhìn thấy trong cuộn trơn khi giá xuất xưởng trong nước của thép dây đường kính 6.5-10mm hiện nay đã giảm 1.000-1.500 rupees/tấn trong hai tháng qua còn 29.000-30.000 rupees/tấn.
Chào giá Trung Quốc cho cuộn trơn loại SAE 1008 chứa nguyên tố bo đường kính 6.5-10mm tuần này khoảng 360-375 USD/tấn CFR Mumbai (tương đương 22.902-23.856 rupees/tấn). Mức giá này thấp hơn so với chào giá 410 USD/tấn CFR Mumbai hồi đầu tháng 5 và khoảng 420 USD/tấn CFR vào đầu tháng 12.
Trong khi đó, giá HRC ở Ấn Độ vẫn không đổi trong tuần này do nhu cầu ổn định. Gía xuất khẩu trong nước cho HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm ở mức 28.500-30.500 rupees/tấn (448-479 USD/tấn), không đổi so với tuần trước.
HRC SS400 loại thương phẩm dày từ 3mm trở lên của Trung Quốc tuần này tiếp tục dao động quanh mức 335 USD/tấn FOB (370 USD/tấn). Mức giá này tương đương 407 USD/tấn (25.902 Rupees/tấn) gồm thuế nhập khẩu 10%. Tuy nhiên, một vài nhà máy đang chào giá 306 USD/tấn CFR cho những lô hàng lớn và đặt mua ngay.
Đồng thời, giá thép cuộn tiếp tục đến từ Nhật Bản và Hàn Quốc một cách tích cực. HRC của Nhật Bản và Hàn Quốc có độ dày 1.4-2mm được chào bán với giá khoảng 400-410 USD/tấn CFR Mumbain tuần này. HRC của hai nước này được hưởng thuế nhập khẩu dưới 1% nhờ hiệp ước thương mại song phương.
Hàn Quốc
Hyundai Steel đã quyết định sẽ một lần nữa thu hẹp mức chiết khấu cho những khách hàng mua thép dầm hình H trong nước xuống 20.000 Won/tấn (18 USD/tấn) cho tháng 7 do sản lượng bị hạn chế vì bảo trì nhà máy. Đây cũng là lúc có giá điện cao hơn vào mùa hè.
Hyundai không tiết lộ chính thức giá thép dầm hình H nhưng theo các nguồn tin ước tính thì giá cơ bản cho thép dầm cỡ nhỏ sẽ vẫn nằm ở mức 820.000 Won/tấn (740 USD/tấn).
Nhật Bản
Giá thị trường của thép xây dựng ở Nhật Bản có vẻ như đã chạm đáy. Giá trên thị trường hiện nay của thép dầm hình H cỡ lớn SS400 ở Tokyo khoảng 77.000-78.000 Yên/tấn (626-634 USD/tấn) trong khi thép cây cỡ thường SD295 (16-25mm) là 58.000-59.000 Yên/tấn ($472-480 USD/tấn). Mặc dù hai mức giá trên đều thấp hơn tương ứng 2.000 Yên/tấn và 3.000 Yên/tấn so với tháng 01 nhưng có nhiều dấu hiệu tâm lý thị trường đang hồi phục.
Nhà sản xuất thép cây lớn nhất của Nhật Bản, Kyoei Steel, đã tăng giá thép cây thêm 2.000 Yên/tấn cho những hợp đồng tháng 7 trong khi Nippon Steel & Sumitomo Metal Corp lại tăng giá thép dầm hình H cho các dự án lên 3.000 Yên/tấn.
Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 25
Thị trường thép mở cửa trở lại vào ngày thứ Ba sau 3 ngày nghỉ lễ kéo dài đến đầu tuần. Xu hướng giá vẫn không có gì thay đổi, tiếp tục sụt giảm khiến nhiều người tỏ ra chán nản, nhưng các chủ đại lý vẫn gắng gượng cầm cự bằng cách hạ giá xuống thấp hơn với hy vọng níu kéo được khách hàng, tạo thành một vòng lẩn quẩn không lối thoát nên giá cứ hết lần này đến lần khác phá vỡ mốc thấp nhất chỉ cách nhau có vài ngày. Còn về phía các nhà máy, tuy nhận định tình hình hiện nay không có lợi để duy trì sản xuất nhưng họ cũng không dám cắt giảm sản lượng quá mạnh tay vì sợ ngân hàng sẽ căn cứ vào đó mà rút lại dòng vốn tín dụng, trong lúc họ đang rất cần tiền để xoay sở các món nợ vào giữa năm.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Sau khi giảm trong cả tuần trước, thép cây đã có ngày chững lại hôm thứ Ba. Nhưng với lý do khách quan là vì Lễ hội Thuyền Rồng kéo dài đến thứ Hai nên không có giao dịch trên thị trường chứ không phải vì thị trường đã phục hồi. Đến thứ Tư giá tiếp tục quay lại đà lao dốc và một lần nữa chọc thủng mốc thấp kỷ lục kể từ khi Platts bắt đầu định giá thép cây từ tháng 2/2012. Theo đó, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm giảm còn 2.105-2.115 NDT/tấn (339-341 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT, thấp hơn 10 NDT/tấn so với tuần trước.
Ở Thượng Hải, cuộn trơn Q195 6.5mm cũng giảm 65 NDT/tấn (10 USD/tấn) so với tuần trước còn 2.080 NDT/tấn xuất xưởng gồm 17% VAT.
Thép công nghiệp
Mặc dù nhiều nhà máy đã bắt đầu bảo trì nhưng theo quan sát thì việc này vẫn chưa hỗ trợ được nhiều cho giá thép. HRC Q235 5.5mm giao ngay giữa các đại lý ở Thượng Hải giảm 10 NDT/tấn còn 2.280-2.310 NDT/tấn (367-372 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT hôm thứ Tư. Các đại lý ở đây cho biết mức giá cao 2.310 NDT/tấn chỉ dành cho HRC từ các nhà máy hàng đầu trong khi HRC từ các nhà máy quy mô nhỏ hơn có thể bán với giá 2.280-2.290 NDT/tấn.
Platts định giá CRC loại như trên ở mức 2.850-2.950 NDT/tấn (459-475 USD/tấn) ở Thượng Hải, không đổi so với đầu tuần trước. Tuy nhiên, với tình hình các ngành công nghiệp đã thu hẹp quy mô trong tháng này, dự báo lực mua sẽ tiếp tục nhỏ giọt.
Thị trường xuất khẩu
Giá xuất khẩu CRC tiếp tục đi xuống trong tuần này giữa bối cảnh nhu cầu trì trệ. Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm ở mức 395-400 USD/tấn FOB hôm thứ Ba, giảm 2,5 USD/tấn so với đầu tuần trước. Tuy các nhà máy lớn vẫn đang chào giá 400-405 USD/tấn FOB, nhưng giá thực tế sau khi thương lượng giảm còn 395-400 USD/tấn FOB trong tuần này. Tuy nhiên, các khách hàng vẫn đang trong tâm lý chờ đợi vì dự đoán giá sẽ tiếp tục giảm.
Cuộn trơn xuất khẩu sang khu vực Châu Á giảm tới mốc thấp kỷ lục mới theo giá trong nước, do các nhà xuất khẩu bán khống để hấp dẫn người mua trong bối cảnh nhu cầu suy yếu. Nhưng khách hàng đang ép giá để có được mức giá thấp hơn. Tuy nhiên, khả năng giá giảm thêm nữa là rất thấp. Platts định giá cuộn trơn dạng lưới 6.5mm giảm 5 USD/tấn so với tuần trước còn 330-335 USD/tấn FOB hôm thứ Tư, đây là mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá hồi tháng 10/2006.
Giá HRC xuất khẩu tới Châu Á liên tục phá mức thấp kỷ lục dù chỉ mới lập trong ngày trước đó. Trong bối cảnh sự cạnh tranh gay gắt giữa những người bán, trong đó có cả những người bán khống, còn sức mua thì vẫn ì ạch nên giá sắp tới khó có cơ hội ngoi lên. Platts định giá HRC SS400 dày trên 3.0mm ở mức 337-345 USD/tấn FOB hôm thứ Tư, tức mức trung bình 341 USD/tấn, giảm 1,5 USD/tấn so với ngày trước đó và đây là mốc thấp nhất kể từ tháng 1/2006, khi Platts bắt đầu định giá.
Giá giao ngay của thép cây nhập vào Châu Á giảm một cách đáng kể trong tuần này và phá mốc đáy mới lập tuần trước. Giá vẫn đang bị sức ép do sức mua suy yếu trong khi các nhà máy Trung Quốc lại không muốn mạnh tay cắt giảm sản lượng mặc dù lợi nhuận teo tóp vì sợ gián đoạn dòng tiền mặt, nhất là vào giữa năm khi thanh khoản thậm chí còn eo hẹp hơn. Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính từ 16mm trở lên giảm mạnh 12,5 USD/tấn so với tuần trước còn 308-315 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế.