THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG VIỆT NAM TUẦN 28
Từ ngày 10 đến ngày 16-07-2015
1. Thị trường thép xây dựng trong nước
Thị trường thép xây dựng đã có chuyển biến tích cực về lượng tiêu thụ tuy nhiên vẫn chưa thực sự rõ rệt, mức tiêu thụ vẫn chỉ ở mức cầm chừng nên chưa thể làm an lòng các nhà sản xuất và đại lý tiêu thụ đang đứng trước áp lực cạnh tranh gay gắt. Nguyên nhân một phần là do sự quy hoạch không đồng bộ của ngành thép, đầu tư tràn lan không có định hướng quy hoạch cụ thể, không có những sản phẩm có chất lượng mà chỉ tập trung vào sản phẩm thép xây dựng. Do vậy cung đang vượt cầu khá xa như hiện nay làm cho thị trường càng thêm khó khăn cả về sản xuất lẫn cạnh tranh trong thị phần tiêu thụ.
Theo thông tin từ CTCP Tập đoàn Hòa Phát (HPG), 6 tháng đầu năm 2015, sản lượng bán hàng của thép Hòa Phát đạt 675.710 tấn, tăng hơn 52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 24.000 tấn xuất khẩu sang thị trường Lào và Campuchia. Thép Hòa Phát hiện vẫn đang dẫn đầu về thị phần với 22,1%. Riêng trong tháng 6, thép Hòa Phát tiêu thụ hơn 100.000 tấn, tăng 54,5% so với tháng 6/2014, trong đó sản lượng xuất khẩu hơn 5.100 tấn.
Ngành thép đã có những tháng tiêu thụ khả quan liên tục kéo dài trong thời gian qua một phần nhờ thị trường bất động sản có dấu hiệu ấm lên từ cuối năm 2014, đồng thời nhu cầu xây dựng dân dụng, các công trình công cộng cũng được khởi công hàng loạt kể từ đầu năm đến nay. Tuy nhiên hầu hết các dự án đều có sự chuẩn bị từ trước khi khởi công, do vậy chỉ chờ thời điểm giao hàng theo tiến độ công trình, hiện có khá ít các công trình được triển khai mới.
Tổng hợp 6 tháng qua, khu vực miền Trung đóng góp 86.600 tấn và miền Nam đóng góp hơn 78.000 tấn, còn lại là sản lượng tiêu thụ của miền Bắc và xuất khẩu. HPG cũng cho biết, sản lượng xuất khẩu thép xây dựng đã tăng đều đặn những tháng gần đây, trung bình các thị trường Lào, Campuchia nhập gần 5.000 tấn thép Hòa Phát phục vụ các dự án xây dựng thủy điện, cầu đường. Về cơ cấu sản phẩm, với đặc thù phục vụ các dự án xây dựng cơ bản lớn, tỷ lệ tiêu thụ thép thanh của Hòa Phát chiếm khoảng 80% tổng sản lượng bán hàng, 20% còn lại thuộc về thép cuộn.
Theo Hiệp hội thép VN (VSA), lượng thép tiêu thụ trong tháng 6-2015 tăng đến 41% so với cùng kỳ năm ngoái đã đưa các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước có mức tiêu thụ tăng vọt trong bốn tháng liên tiếp, bình quân đạt trên 520.000/tháng, một mức khá cao đối với thép xây dựng trong những năm gần đây.
2. Thông tin thị trường giá thép xây dựng các khu vực, nhà máy
Lượng tiêu thụ thép của các thành viên Hiệp hội thép VN (VSA) tiếp tục duy trì ngưỡng trên 500.000 tấn/tháng của tháng thứ tư liên tiếp, ước đạt 530.000 tấn trong tháng 6-2015, đưa tổng lượng thép xây dựng tiêu thụ đến hết quý 2-2015 đạt 3 triệu tấn, tăng 24% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Nam, sản phẩm của Công ty Pomina. Giá bán chưa bao gồm thuế VAT.
Bảng giá bán thép xây dựng Tây Đô | ||||
STT |
Chủng loại |
Kích thước |
Đvt |
Giá |
1 | Thép cuộn Ø6 | Cuộn | đ/kg | 13.180 |
2 | Thép cuộn Ø8 | 13.180 | ||
3 | Thanh vằn D10 | Cây | 13.310 | |
4 | Thanh vằn D12 | 13.170 | ||
5 | Thanh vằn D14 | 13.170 | ||
6 | Thanh vằn D16 | 13.170 | ||
7 | Thanh vằn D18 | 13.170 | ||
8 | Thanh vằn D20 | 13.170 | ||
9 | Thanh vằn D22 | 13.170 | ||
10 | Thanh vằn D25 | 13.170 |
Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Nam, sản phẩm của Công ty Vnsteel. Giá bán chưa bao gồm thuế VAT.
Bảng giá bán thép xây dựng Vnsteel | ||||
STT |
Chủng loại |
Tiêu chuẩn |
Đvt |
Giá |
1 | Thép cuộn Ø6 | CT2 | đ/kg | 14.490 |
2 | Thép cuộn Ø8 | 14.450 | ||
3 | Thanh vằn D10 | SD295 | đ/cây | 14.550 |
4 | Thanh vằn D12 | CB300-V | 14.400 | |
5 | Thanh vằn D14 | 14.400 | ||
6 | Thanh vằn D16 | 14.400 | ||
7 | Thanh vằn D18 | 14.400 | ||
8 | Thanh vằn D20 | 14.400 | ||
9 | Thanh vằn D22 | 14.400 |
Giá bán thép cuộn tròn trơn xây dựng một số thị trường được tổng hợp theo các ngày trong tuần qua:
Bảng giá thép xây dựng | ||||
Ngày |
Sản phẩm |
Khu vực |
Đvt |
Giá |
12/7/15 | Thép cuộn Ø6 Pomina | Bình Dương | đ/kg | 15.000 |
Thép cuộn Ø8 Pomina | 15.000 | |||
Thép cuộn Ø6 | Đồng Tháp | 15.200 | ||
Thép cuộn Ø8 | 15.200 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Đồng Nai | 17.000 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 17.000 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Trà Vinh | 13.800 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 13.800 | |||
Thép cuộn Ø6 | Long An | 13.650 | ||
Thép cuộn Ø8 | 13.650 | |||
Thép cuộn Ø6 | Bạc Liêu | 13.600 | ||
Thép cuộn Ø8 | 13.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | An Giang | 14.550 | ||
Thép cuộn Ø8 | 14.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | Hậu Giang | 15.000 | ||
Thép cuộn Ø8 | 15.000 |
Thị trường Long An, giá bán sản phẩm thép cuộn có giá bán khá thấp trong các tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 13.650 ngàn đồng/kg tại các đại lý bán lẻ.
Thị trường Bình Dương, giá bán sản phẩm thép cuộn Pomina khá ổn định trong tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 15 ngàn đồng/kg.
Thị trường Đồng Nai, lượng tiêu thụ không có chuyển biến đáng kể nào trong tuần này, giá bán luôn được duy trì ở mức cao qua nhiều tuần. Giá bán thép xây dựng được công bố trong đầu tuần này là 17 ngàn đồng/kg đối với thép cuộn Ø6 và Ø8, giá bán khá cao ở thời điểm hiện tại.
Thị trường Trà Vinh, giá bán lẻ thép cuộn tròn trơn xây dựng LD duy trì mức giá bán thấp hơn các tuần trước đó. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép xây dựng Ø6 là 13.8 ngàn đồng/kg và Ø8 là 13.8 ngàn đồng/kg. Lượng sản phầm bán ra đều đặn, có chiều hướng tăng dần.
3. Dự báo thị trường thép xây dựng
Theo VSA cho rằng mức tiêu thụ tốt nói trên sẽ giảm dần từ quý 3-2015 trở đi khi nhu cầu thị trường bị tác động bởi thời tiết không thuận lợi, đặc biệt do mùa mưa ở miền Nam bắt đầu kéo dài trên diện rộng, bất chấp giá nguyên liệu thép phế và phôi thép nhập khẩu đang có xu hướng giảm bình quân 10-20 USD/tấn so với trước.
Theo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), ngành bất động sản có tín hiệu ấm lên, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh cộng với nhu cầu xây dựng các công trình hạ tầng cơ bản ngày càng lớn đã góp phần thúc đẩy lượng thép bán ra cho tất cả các thành viên thuộc VSA thời gian qua. Dự báo lượng tiêu thụ vẫn đạt được theo kế hoạch đầu ra tuy vậy vẫn còn khó khăn vào thời điểm sắp tới.
Hoạt động xuất khẩu vẫn được triển khai mạnh mẽ nhằm tìm kiếm giải pháp tiêu thụ cho sản phẩm thép xây dựng. Hiện tại công suất sản xuất thép xây dựng là rất lớn, vượt xa nhu cầu trong nước, do đó hướng xuất ra thị trường ngoài nước đã được một số doanh nghiệp thực hiện khá tốt như Pomina, Thép Miền Nam và mới đây là Thép Hòa Phát cũng đang từng bước vươn ra thị trường quốc tế và được thị trường các nước chấp nhận và đánh giá khá tốt vì giá thành cạnh tranh.
Thị trường Miền Nam, lượng tiêu thụ có dấu hiệu giảm do đang ở giai đoạn mùa mưa, hoạt động xây dựng giảm, lượng hàng bán ra không đồng đều. Dự báo, thị trường tiêu thụ sẽ tiếp tục giảm do nhu cầu đi xuống. Trong khi đó, thị trường Miền Bắc, lượng sản phẩm bán ra nhỏ lẻ tập trung ở các công trình dân dụng vừa và nhỏ, khu dân cư. Dự báo thị trường tiêu thụ vẫn duy trì ổn định do nguồn cung dồi dào và thị trường đang trong mùa xây dựng.
Dự báo giá bán sẽ duy trì đều đặn, không tăng không giảm trong tuần tới nguyên nhân là việc tăng giá bán hiện tại sẽ gặp nhiều trở ngại. Đầu ra sản phẩm đang gặp khó khăn, sản phẩm rất khó bán do phải cạnh tranh với các đơn vị khác, nguồn cung dồi dào trong khi nhu cầu ở mức thấp. Do vậy, ổn định sản xuất, giảm chi phí trên mỗi tấn sản phẩm, cải tiến công nghệ...là các mục tiêu hướng tới lâu dài của doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng.
Lưu ý: Bảng giá trên đây được tham khảo tại các công ty, đại lý chuyên cung cấp thép xây dựng. Vì vậy bảng giá bán này chỉ để tham khảo không phải là giá cố định mà được điều chỉnh dựa trên số lượng lô hàng, khách hàng khi mua tại các công ty hay đại lý, phương tiện vận chuyển và hình thức thanh toán tùy thuộc vào vùng miền.
4. Giá các mặt hàng thép cơ bản Việt Nam
| Chào giá (đ/kg) | ||
Xuất xứ | Giá | Tăng /giảm | |
Cuộn trơn Ø6 | Trung Quốc | 8.500 | Giảm 200 |
Cuộn trơn Ø8 | Trung Quốc | 9.400 | Giảm 100 |
Thép tấm 3,4,5 mm | Trung Quốc | 8.500 | Giảm 400 |
Thép tấm 6,8,10,12 mm | Trung Quốc | 8.700 | Giảm 300 |
HRC 2mm | Trung Quốc | 9.000 | Giảm 200 |
Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 28
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Sau vài tuần lao dốc không phanh, đà giảm của giá thép cây đã có dấu hiệu chững lại và tăng nhẹ vào cuối tuần trước và duy trì mức giá này đến hết tuần. Nguyên nhân được chỉ ra là nhờ nhận được sự hỗ trợ từ thị trường kỳ hạn, cộng thêm giá phôi thanh tăng 20 NDT/tấn vào cuối tuần qua đã giúp cải thiện niềm tin thị trường. Bên cạnh đó “gã khổng lồ” Hegang tiếp tục duy trì chính sách giá sàn cho thép cây từ ngày 7-13/7 đến hết ngày 20/7, cho thấy quyết tâm ra sức bình ổn thị trường của nhà máy. Tại thị trường Bắc Kinh, thép cây HRB400 đường kính 18-25mm duy trì mức 1.950-1.960 NDT/tấn (314-316 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế và gồm 17% VAT từ thứ sáu tuần trước.
Tại thị trường Thượng Hải, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá cao hơn 95 NDT/tấn (15 USD/tấn) so với tuần trước lên 1.980-2.000 NDT/tấn (319-322 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT. Đà phục hồi của giá trong nước phần lớn là nhờ giá trên thị trường kỳ hạn cải thiện hồi tuần trước. Nhưng nhìn chung sức mua trên thị trường giao ngay cũng sôi động hơn khi giá tăng.
Thép công nghiệp
Nếu như thị trường thép xây dựng đã ngưng giảm và phục hồi nhẹ thì tuần này giá HRC lại tiếp nối đà lao dốc qua các ngày trong tuần. Cụ thể, sau khi tăng được 30 NDT/tấn vào thứ sáu tuần trước thì các ngày tiếp theo là liên khúc rớt giá, nhìn chung HRC Q235 5.5mm ở Thượng Hải đã giảm 45 NDT/tấn còn 1.940-1.960 NDT/tấn (312-316 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT. Thực ra mức giá này chỉ cao hơn 10 NDT/tấn so với mốc thấp kỷ lục 1.940 NDT/tấn mới lập hồi thứ tư tuần trước. Do sức mua chậm chạp và dự báo một lượng lớn HRC từ nhà máy Wugang sắp sửa đổ về đây nên ai nấy đều có cái nhìn bi quan về xu hướng giá trong những ngày còn lại của tháng 7.
Tương tự, thị trường trong nước ế ẩm đang kéo giá CRC xuất khẩu giảm 45 NDT/tấn so với đầu tuần trước còn 2.680-2.760 NDT/tấn (432-445 USD/tấn). CRC tồn kho trên thị trường sẽ bắt đầu ứ đọng một cách đáng kể vào cuối tháng này, bởi vì lượng thép mới sẽ dần về tới trong khi sức mua quá yếu để có thể hấp thụ được hết số thép này nên sẽ càng gây thêm sức ép lên giá CRC.
Thị trường xuất khẩu
Giá xuất khẩu của CRC tiếp tục giảm trong tuần này cùng với giá trong nước. Các thương nhân khuyến cáo rằng nếu giá trong nước tiếp tục giảm thì giá xuất khẩu khó mà bình ổn. Platts định giá CRC SPCC dày 1.0mm trong khoảng 370-375 USD/tấn FOB hôm thứ Ba, giảm 8 USD/tấn so với tuần trước. Tính cho đến nay, giá xuất khẩu CRC đã giảm 17,5 USD/tấn tức 4,5%.
Giá cuộn trơn xuất khẩu sang Châu Á có những tín hiệu bình ổn trong tuần này, một vài nhà máy thậm chí còn nâng giá xuất khẩu lên. Nhưng những người mua trong khu vực vẫn đang đứng bên lề thị trường và đợi xem liệu đà tăng của giá lần này có bền vững hay không. Platts định giá cuộn trơn dạng lưới 6.5mm không đổi trong khoảng 310-315 USD/tấn FOB tuần này, đánh dấu tuần đầu tiên giá không đổi sau 8 tuần lao dốc liên tục từ giữa tháng 5.
Đồng thời, thép cây xuất sang thị trường này hiện giờ cũng đã bình ổn sau 8 tuần trượt dốc liên tục, phần lớn là nhờ giá thép ở thị trường Trung Quốc đã chấm dứt đà giảm và sự phục hồi của quặng sắt lên trên mốc 50 USD/tấn. Hôm thứ Năm, Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính từ 16mm trở lên không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 287-292 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều luồng ý kiến khác nhau về xu hướng giá sắp tới, nhưng có chung quan điểm là giá sẽ không giảm quá mạnh vì mức hiện nay đã quá thấp.
Do ảnh hưởng bởi sự mất giá nhanh của thị trường trong nước, HRC xuất sang khu vực Châu Á đã để “bốc hơi” 4,5 USD/tấn chỉ trong hai ngày thứ Sáu và thứ Hai. Nhưng sau đó đã ổn định trở lại mặc dù nằm ở mức thấp kỷ lục, phải chăng vì đã rơi xuống đáy quá thấp nên không thể giảm hơn được nữa chứ không phải do sức mua cải thiện. Vì vậy hầu hết mọi người vẫn chưa tin là giá đã phục hồi khi mà “cuộc chiến” khốc liệt giữa những người bán đang diễn ra và giá quặng sắt có khả năng biến động. Không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sức mua sẽ phục hồi và sức ép từ nguồn cung khiến triển vọng thị trường u ám. Tính đến ngày thứ Năm, HRC SS400 dày từ 3.0mm trở lên có giá 308-313 USD/tấn FOB.
Tổng quan thị trường thép thế giới tuần 28
Mỹ
Thị trường thép cuộn Mỹ vẫn đang im ắng chờ đợi động thái từ người mua sau thông báo tăng giá thêm 40 USD/tấn của USS. Platts vẫn giữ giá HRC và CRC không đổi tại mức 460-470 USD/tấn tại mức 580-590 USD/tấn xuất xưởng Midwest.
CIS
Trong khi thị trường trầm lắng thì các nhà máy CIS vẫn do dự giảm giá chào bán với hy vọng nhu cầu tiêu thụ sẽ tăng nhẹ. Giá phôi thanh tuần này ổn định tại mức 325 USD/tấn FOB Biển Đen. Gía phế giảm tại Thổ Nhĩ Kỳ đã buộc các nhà máy CIS giảm giá chào bán phôi thanh. Hãy còn quá sớm để biết liệu giá phôi thanh CIS sẽ ra sao trong tuần này do các đơn hàng vẫn chưa được chốt, dù vậy, các thương nhân đang đặt mục tiêu giá 320 USD/tấn FOB Biển Đen. Gía đang tiến gần tới giá Trung Quốc và thu hút người mua do lễ Ramadan đã gần kết thúc.
Đài Loan
Gía xuất khẩu phế từ Bờ Tây Mỹ tới Đài Loan giảm từ mức 200 USD/tấn CFR hồi đầu tuần xuống còn 190-192 USD/tấn CFR cuối tuần. Vài nhà máy Đài Loan đã thu mua được nửa số phế dự tính trong khi số khác không quan tâm phế nhập khẩu cho tới khi nó đạt mốc 180 USD/tấn CFR.
Thổ Nhĩ Kỳ
Các nhà máy cũng tiếp tục cắt giảm giá phế tàu và DKP xuống thêm 10-15 USD/tấn xuống mức thấp 227 USD/tấn trong bối cảnh giá phế nhập khẩu giảm, biến động tỷ giá và tiêu thụ trì trệ.
Thị trường thép cây rơi vào trầm lắng trong tuần này do lễ Ramadan trì trệ và các thiếu hụt tiền mặt cộng với bất ổn chính trị trước lễ Eid, các nhà môi giới bắt buộc phải giảm giá chào nội địa. Gía thép cây đường kính 8-12mm từ các nhà môi giới tới Marmara đạt mức 1.320-1.340 TRY/tấn xuất xưởng đã tính VAT 18% trong khi giá tại Iskenderun đạt mức thấp 1.250-1.270 TRY/tấn, thấp hơn đầu tuần 20-25 TRY/tấn.
Gía xuất khẩu thép cây bình ổn trong ngày hôm qua. Platts định giá thép cây xuất khẩu tại mức 420 USD/tấn, bình ổn so với ngày trước đó.
Tâm lý thị trường trì trệ cũng ảnh hưởng tới thị trường phôi thanh. Vài nhà máy bắt đầu chào bán phôi thanh chuẩn tại mức 360 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào Trung Quốc đạt mức thấp 315-320 USD/tấn CFR với chiết khấu vẫn có sẵn cho các đơn hàng lớn.
Trong bối cảnh tiêu thụ thấp nội địa và tại các thị trường xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ trước lễ Eid bắt đầu từ chiều hôm qua, giá chào HDG và PPGI vẫn bình ổn. Gía niêm yết HDG dày 0.5mm từ các nhà máy nội địa dao động trong khoảng 620-650 USD/tấn xuất xưởng trong khi giá chào xuất khẩu HDG 0.5mm đạt mức thấp 590-620 USD/tấn FOB kèm chiết khấu trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.
Gía chào xuất khẩu PPGI 9002 0.5mm vẫn bình ổn tại mức 720-750 USD/tấn FOB kèm chiết khấu trong tuần này trong bối cảnh tiêu thụ thấp và đồng dolla tăng trong khi giá chào nội địa đạt mức 690-720 USD/tấn FOB kèm chiết khấu cho các đơn hàng lớn.
Các nhà máy đang nỗ lực duy trì giá xuất khẩu thép cuộn cán nóng trong một thị trường trìn trệ với sự cạnh tranh mạnh mẽ từ CIS và Trung Quốc ở hầu hết thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ. Theo các nguồn tin công nghiệp ngày hôm qua cho biết chào giá xuất khẩu của các nhà máy này chỉ giảm thêm 5-10usd/tấn từ mức giá cao nhất trong tuần này cùng với chiết khấu. Các nhà máy đã cắt giảm giá xuất khẩu thép cuộn xuống 5-10 USD/tấn trong tuần này để kích cầu do giá chào từ đối thủ suy yếu tiếp tục gây áp lực cho thị trường trong bối cảnh tiêu thụ thấp. HRC có giá 380-390 usd/tấn FOB, với các mức chiết khấu chỉ dành cho các lô hàng tải trọng lớn; giá chào trong nước tương đối ổn định ở mức 410-430 usd/tấn xuất xưởng.
Châu Âu
Gía HRC và CRC có thể đã chạm đáy trước bối cảnh trì trệ trong hè. Gía HRC đạt mức 380-385 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr, không đổi kể từ ngày 30/6 trong khi CRC vẫn cố định tại mức 365-370 Euro/tấn xuất xưởng Ruhr kể từ ngày 9/6. Cả hai giá trên đều chạm mức thấp 6 năm do thị trường đang đối mặt với công suất quá mức giá nhập khẩu giảm.
Thị trường thép tấm Tây Bắc Âu đang cho thấy sự phản kháng yếu ớt trước sức ép của giá mặc dù các nhà máy khẳng định rằng họ không có sự linh động nhiều hơn để chấp nhận mức giá thấp hơn. Dự báo giá thép tấm sẽ tiếp tục suy yếu trong tháng này, mặc dù không giảm mạnh như tháng 6. Giá tại đây là 475 EUR/tấn gồm phí vận chuyển. Thép nhập khẩu chốt ở mức 375 EUR/tấn CIF Antwerp, cũng thấp hơn 5 EUR/tấn so với ngày trước đó.
Châu Á
Chào giá phôi thanh Q275 120mm từ Trung Quốc trong khoảng 320-325 USD/tấn CFR Manila hôm thứ Năm, giảm từ 330 USD/tấn CFR hôm thứ Ba và 335-338 USD/tấn CFR hôm thứ sáu tuần trước. Phí vận chuyển từ Trung Quốc tới Manila khoảng 25 USD/tấn.
Tại Việt Nam, chào giá phôi thanh Q235 150mm là 295-300 USD/tấn CFR Hải Phòng so với 305 USD/tấn CFR hôm thứ Ba. Phí vận chuyển từ Trung Quốc khoảng 10 USD/tấn.
Trong khi phôi thanh Q235 150mm được đặt mua với giá 305 USD/tấn CFR Thái Lan hôm thứ Tư. Chào giá hôm thứ Ba là 310 USD/tấn CFR. Phí vận chuyển từ Trung Quốc tới Thái Lan khoảng 13 USD/tấn
Một nhà cán lại Indonesia cho biết ông đã nhận được một chào giá cho phôi thanh Q275 150mm ở mức 300 USD/tấn CFR hôm thứ Tư. Chào giá này có thể đi xuống dưới 300 USD/tấn CFR bởi vì thị trường chứng khoán Trung Quốc sụp đổ. Phôi thanh Q235 130mm, giá mua là 300 USD/tấn CFR Indonesia, trong khi chào giá 310 USD/tấn CFR. Phí vận chuyển tới Jakarta khoảng 15 USD/tấn.
Giá giao ngay của thép cây nhập khẩu vào Châu Á lún sâu cùng với đà lao dốc không phanh của giá thép ở Trung Quốc và nguyên liệu hồi đầu tuần này. Tâm lý bi quan lan tỏa khắp thị trường, dẫn đến người mua phải nán lại việc thu mua do những quan ngại về giá sẽ sụt giảm thêm nữa. Hôm thứ Năm, Platts định giá thép cây BS460/HRB400 đường kính từ 16mm trở lên giảm đáng kể 15,5 USD/tấn so với tuần trước còn 287-292 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Mức giá trung bình 289,5 USD/tấn vẫn ở mức thấp nhất kể từ khi Platts bắt đầu định giá sản phẩm hồi tháng 11/2006.
Giá giao ngay của HRC nhập vào Châu Á vẫn duy trì ở mức thấp nhất đến ngày thứ Tư. Không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sức mua sẽ phục hồi và sức ép từ nguồn cung khiến triển vọng thị trường u ám. Người mua đang mất niềm tin và đứng ngoài thị trường. Platts định giá HRC SS400 dày từ 3.0mm trở lên trong khoảng 308-313 USD/tấn FOB Trung Quốc hôm thứ Năm bằng với ngày thứ ba và đã giữ mức giá này trong ba ngày liên tục.
Giá cuộn trơn nhập khẩu vào Châu Á có những tín hiệu bình ổn trong tuần này, một vài nhà máy thậm chí còn nâng giá xuất khẩu lên. Nhưng những người mua trong khu vực vẫn đang đứng bên lề thị trường và đợi xem liệu đà tăng của giá Trung Quốc có bền vững hay không. Platts định giá cuộn trơn dạng lưới 6.5mm không đổi trong khoảng 310-315 USD/tấn FOB tuần này, đánh dấu tuần đầu tiên giá không đổi sau 8 tuần lao dốc liên tục từ giữa tháng 5.
Ấn Độ
Các nhà máy thép Ấn Độ không muốn cạnh tranh với thép Trung Quốc trên trường quốc tế và đang trông chờ vào sự phục hồi của nhu cầu trong nước. Giá bán trong nước của HDG 0.4mm phủ 90 gram kẽm trên một mét vuông theo ước tính khoảng 38.000-40.000 Rupees/tấn (596-631 USD/tấn) xuất xưởng.
Các nhà máy ở Mumbai và Delhi than phiền rằng mặc dù nhu cầu HRC Ấn Độ vẫn duy trì ổn định trong tuần này, nhưng do lượng thép nhập khẩu gia tăng nên cơ hội để giá tăng là rất ít. Platts định giá xuất xưởng trong nước cho HRC IS 2062 loại A/B dày 3mm ở mức 28.500-30.500 Rupees/tấn (450-481 USD/tấn) hôm thứ Tư.
Trong khi chào giá cho HRC SS400 dày từ 3mm trở lên loại thương phẩm Trung Quốc hôm thứ Tư thấp hơn khoảng 10 USD/tấn so với tuần trước còn 340 USD/tấn CFR (21.553 Rupees/tấn). Mức giá này tương đương với giá nhập khẩu là 374 USD/tấn CFR (23.709 Rupees/tấn) gồm thuế nhập khẩu 10%.