THỊ TRƯỜNG THÉP XÂY DỰNG VIỆT NAM TUẦN 07/2016
Từ ngày 12 đến ngày 18-02-2016
1. Thị trường thép xây dựng trong nước
Trong năm 2016 này các doanh nghiệp không chịu cắt giảm sản lượng để giữ vững thị phần. Giá bán thành phẩm thép tiếp tục giảm theo xu hướng của giá nguyên liệu đầu vào. Nguồn cung dồi dào từ trong và ngoài nước sẽ đẩy giá thép xuống sâu trong những năm tới. Lượng tồn kho thép xây dựng lớn. Cạnh tranh trong ngành ngày một khốc liệt, khi những doanh nghiệp sử dụng công nghệ lò điện lạc hậu đang dần bị thị trường loại bỏ, thị phần tập trung về tay những doanh nghiệp lớn, có lợi thế về chi phí sản xuất.
Hiện nay, việc sản xuất phôi thép hầu như bị đình trệ, hàng sản xuất ra tồn đọng không bán được. Ngay cả những doanh nghiệp có truyền thống trong ngành thép như Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên cũng không thoát khỏi tình cảnh này. Tình trạng phôi thép nhập khẩu tăng đột biến về số lượng, liên tục giảm giá, khiến cho nhiều doanh nghiệp sản xuất phôi thép đang phải vật lộn để tồn tại.
Những cơ sở góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành thép thời gian tới được nhận định là do năm qua nền kinh tế đã khởi sắc hơn. Bên cạnh đó, gần đây nước ta hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế.
Đáng chú ý là sự kiện Việt Nam cùng các nước trong khối ASEAN chính thức xác lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào ngày 31/12/2015. Với nhu cầu thép thô tiêu thụ hàng năm khoảng 68 triệu tấn, trong khi sản xuất chỉ khoảng 22 triệu tấn, AEC là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây. Năm 2015, Việt Nam xuất siêu sang các nước AEC khoảng hơn 1,2 tỷ USD.
Mặc dù đưa ra những dự báo khá tích cực về triển vọng của ngành thép năm nay, song Hiệp hội Thép Việt Nam cũng cho rằng bên cạnh cơ hội vẫn còn nhiều khó khăn. Trên thực tế, trong năm 2015 các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải chịu sức ép cạnh tranh lớn do nguồn thép nhập khẩu từ nước ngoài tràn vào, nhất là thép Trung Quốc.
Đặc biệt, cạnh tranh từ thép Trung Quốc nhập khẩu tiếp tục là mối quan tâm lớn của tất cả các doanh nghiệp nội địa. Do kinh tế tăng trưởng chậm lại, quy hoạch ngành thép với công suất thiết kế quá lớn khiến cho lượng cung hàng vượt xa so với cầu tiêu dùng nội địa, các doanh nghiệp thép Trung Quốc bắt buộc phải tìm cách để xuất khẩu, dù phải bán với giá thấp hơn chi phí sản xuất, và Việt Nam trở thành thị trường lý tưởng do thị trường bất động sản đang có xu hướng hồi phục, vị trí địa lý kề bên giúp tiết kiệm chi phí vận chuyển.
2. Thông tin thị trường giá thép xây dựng các khu vực, nhà máy
Bộ Công thương khuyến cáo, các doanh nghiệp thép trong nước cần liên kết chặt chẽ để gia tăng tính cạnh tranh, bảo vệ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó với các khó khăn do sức ép cạnh tranh ngày càng tăng. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, tháng 1/2016, tình hình sản xuất và tiêu thụ thép không có nhiều biến động, sản lượng sắt thép thô ước đạt 364.500 tấn, giảm 7,1%; thép cán ước đạt 393.200 tấn, tăng 16,4%; thép thanh, thép góc ước đạt 385.500 tấn, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Nam, sản phẩm của Công ty thép Pomina. Giá bán tại khu vực trung tâm, đã bao gồm thuế VAT.
Bảng giá bán thép xây dựng Pomina | ||||
STT |
Chủng loại |
Mác Thép |
Đvt |
Giá |
1 | Thép cuộn Ø6 | CT2 | đ/kg | 13.182 |
2 | Thép cuộn Ø8 | 13.182 | ||
7 | Thanh vằn D10 | CT5, SD295A | đ/cây | 13.315 |
8 | Thanh vằn D12 | 13.170 | ||
9 | Thanh vằn D14 | 13.170 | ||
10 | Thanh vằn D16 | 13.170 | ||
11 | Thanh vằn D18 | 13.170 | ||
12 | Thanh vằn D20 | 13.170 | ||
13 | Thanh vằn D22 | 13.170 |
Bảng giá sau đây được tham khảo tại thị trường Miền Trung, sản phẩm thép Miền Trung. Giá bán đã bao gồm thuế VAT.
Bảng giá bán thép xây dựng Miền Trung | ||||
STT |
Chủng loại |
Mác Thép |
Đvt |
Giá |
1 | Thép cuộn Ø6 | CB240-T | đ/kg | 15.200 |
2 | Thép cuộn Ø8 | 15.200 | ||
3 | Thanh vằn D10 | 15.700 | ||
4 | Thanh vằn D12 | 15.700 | ||
5 | Thanh vằn D14 | 15.700 | ||
6 | Thanh vằn D16 | 15.700 | ||
7 | Thanh vằn D18 | 15.700 | ||
8 | Thanh vằn D20 | 15.700 | ||
9 | Thanh vằn D22 | 15.700 |
Giá bán thép cuộn tròn trơn xây dựng một số thị trường được tổng hợp theo các ngày trong tuần qua:
Bảng giá thép xây dựng | ||||
Ngày |
Sản phẩm |
Khu vực |
Đvt |
Giá |
15/2/16 | Thép cuộn Ø6 Pomina | Bình Dương | đ/kg | 11.000 |
Thép cuộn Ø8 Pomina | 11.000 | |||
Thép cuộn Ø6 | Đồng Tháp | 12.200 | ||
Thép cuộn Ø8 | 12.200 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Đồng Nai | 11.000 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 11.000 | |||
Thép cuộn Ø6 LD | Trà Vinh | 11.800 | ||
Thép cuộn Ø8 LD | 11.800 | |||
Thép cuộn Ø6 | Long An | 11.650 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.650 | |||
Thép cuộn Ø6 | Bạc Liêu | 11.600 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | An Giang | 11.550 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.500 | |||
Thép cuộn Ø6 | Hậu Giang | 11.000 | ||
Thép cuộn Ø8 | 11.000 |
Thị trường Long An, giá bán sản phẩm thép cuộn có giá bán khá thấp trong các tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 11.650 ngàn đồng/kg tại các đại lý bán lẻ.
Thị trường Bình Dương, giá bán sản phẩm thép cuộn Pomina khá ổn định trong tuần qua, lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ ở mức khiêm tốn do nhu cầu từ thị trường vẫn ở mức thấp. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép cuộn Ø6 và Ø8 có giá là 11 ngàn đồng/kg.
Thị trường Đồng Nai, lượng tiêu thụ không có chuyển biến đáng kể nào trong tuần này, giá bán luôn được duy trì ở mức cao qua nhiều tuần. Giá bán thép xây dựng được công bố trong đầu tuần này là 11 ngàn đồng/kg đối với thép cuộn Ø6 và Ø8, giá bán khá cao ở thời điểm hiện tại.
Thị trường Trà Vinh, giá bán lẻ thép cuộn tròn trơn xây dựng LD duy trì mức giá bán thấp hơn các tuần trước đó. Giá bán công bố đối với các dòng sản phẩm thép xây dựng Ø6 là 12.8 ngàn đồng/kg và Ø8 là 11.8 ngàn đồng/kg. Lượng sản phầm bán ra đều đặn, có chiều hướng tăng dần.
3. Dự báo thị trường thép xây dựng
Theo dự báo của Bộ Công thương, năm 2016, nhu cầu tiêu thụ tại một số thị trường khu vực như Trung Quốc có khả năng giảm, nhu cầu tiêu dùng trong nước khó tăng…Đặc biệt, đối với mặt hàng thép xây dựng, do cung đang lớn hơn cầu và quốc gia có sản lượng thép lớn là Trung Quốc vẫn đang thực hiện các chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, nên dự báo giá thép trong nước sẽ khó có khả năng tăng.
Trong năm 2016, thép xây dựng được dự báo sẽ tăng trưởng khoảng 15% so với năm vừa qua. Dự báo này của Hiệp hội thép Việt Nam đưa ra trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu được cho là có sự phục hồi nhẹ và ngành công nghiệp thép Việt Nam tiếp tục tăng trưởng trong những tháng tới.
Cụ thể, theo Hiệp hội thép Việt Nam, năm 2016 kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi nhưng với tốc độ chậm hơn, khoảng 3,3% trong khi theo dự báo trước đó là 3,6%. Các chuyên gia quốc tế tin rằng Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế phát triển vượt trội ở Châu Á trong giai đoạn 2016 - 2017.
Tình hình kinh tế năm 2016 có nhiều thay đổi, giá dầu được dự báo tiếp tục giảm sâu, kinh tế toàn cầu suy giảm, đặc biệt là sự lao dốc của kinh tế Trung Quốc. Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS) nhận định rằng trong năm 2016, một số ngành kinh doanh sẽ gặp nhiều khó khăn, trong đó có sản xuất thép do tình trạng dư cung có thể kéo dài. Theo Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và Trung Quốc, đến năm 2018, thuế nhập khẩu thép hợp kim về 0% càng tăng thêm lợi thế giá thấp của thép Trung Quốc.
Bộ Công thương khuyến cáo, các doanh nghiệp thép trong nước cần liên kết chặt chẽ để gia tăng tính cạnh tranh, bảo vệ sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu, chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó với các khó khăn do sức ép cạnh tranh ngày càng tăng.
Lưu ý: Bảng giá trên đây được tham khảo tại các công ty, đại lý chuyên cung cấp thép xây dựng. Vì vậy bảng giá bán này chỉ để tham khảo không phải là giá cố định mà được điều chỉnh dựa trên số lượng lô hàng, khách hàng khi mua tại các công ty hay đại lý, phương tiện vận chuyển và hình thức thanh toán tùy thuộc vào vùng miền.
4. Giá các mặt hàng thép cơ bản Việt Nam
| Chào giá (đ/kg) | ||
Xuất xứ | Giá | Tăng /giảm | |
Cuộn trơn Ø6 | Trung Quốc | 7.100 | Không đổi |
Cuộn trơn Ø8
| Trung Quốc | 7.500 | Tăng 100 |
Thép tấm 3,4,5 mm | Trung Quốc | 7.400 | Không đổi |
Thép tấm 6,8,10,12 mm | Trung Quốc | 7.500 | Giảm 100 |
HRC 2mm | Trung Quốc | 8.000 | Tăng 100 |
Tổng quan thị trường thép Trung Quốc tuần 7/2016
Nhìn chung trong tuần làm việc đầu tiên sau Tết, giá các loại thép đều có sự phục hồi ít nhiều. Dù đà tăng này được dự báo sẽ không bền vững vì thị trường vẫn chưa mở cửa trở lại hoàn toàn nên chỉ số giá này vẫn chưa phản ánh chính xác xu hướng thị trường. Một số người khá lạc quan thì tin vào sự phục hồi này khi nhu cầu thường cải thiện sau mùa đông và thị trường đang có mức tồn kho thấp. Nhưng số khác thì quan ngại rằng đợt tăng giá kéo dài sẽ gặp trở ngại bởi nguồn cung dư thừa.
Thị trường trong nước
Thép xây dựng
Vừa mới mở cửa hôm thứ Hai, thị trường thép cây giao ngay ở Trung Quốc đã tăng nhẹ 10 NDT/tấn lên 1.875-1.885 NDT/tấn (289-290 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế, gồm 17% VAT, khi một số người nâng chào giá một cách thăm dò. Nhưng xu hướng thị trường sau Tết vẫn không rõ ràng khi có rất ít người quay lại thị trường đúng ngày. Điều này được nhìn thấy khi giá của hai ngày sau đó vẫn không có gì thay đổi vì đa số vẫn áng binh bất động chưa dám đưa ra quyết định khi mà thị trường vẫn còn vắng. Đến thứ năm thì giá tăng đáng kể mặc dù lượng bán ra vẫn còn chậm khi hầu hết người mua được cho là sẽ chỉ quay lại làm việc vào tuần tới. Platts định giá thép cây HRB400 đường kính 18-25mm ở mức 1.905-1.915 NDT/tấn (292 USD/tấn) xuất xưởng trọng lượng thực tế gồm 17% VAT, tăng 30 NDT/tấn (5 USD/tấn) so với ngày trước đó.
Tại thị trường giao ngay Thượng Hải hôm thứ Tư, cuộn trơn Q195 6.5mm được định giá 1.910-1.920 NDT/tấn (293-294 USD/tấn ) gồm 17% VAT, tăng 30 NDT/tấn so với mức trước Tết.
Thép công nghiệp
Nhìn chung các nhà máy đều đang háo hức nâng giá HRC với sự trợ giúp của sức mua phục hồi theo mùa trong tháng 02 và 03. Xét cho cùng thì giá thị trường giao ngay hiện đang chín muồi cho một đợt tăng giá khi tồn kho thấp, công suất sử dụng thấp và biên lợi nhuận tại các nhà máy cũng thấp, kết hợp với sức mua tương đối cao. Nhưng số khác thì lại cho rằng bất cứ đợt tăng giá thép dẹt nào trong mùa xuân này cũng sẽ ngắn ngủi vì lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc không có dấu hiệu cải thiện cơ bản nào. Ngoài ra, tồn kho thấp cũng chỉ là tạm thời vì khi lượng hàng mới đổ về thị trường thì mọi chuyện sẽ trở nên khác. Nhưng dù sao trong tuần làm việc đầu năm mà giá HRC tăng 15 NDT/tấn so với mức trước Tết chốt tại 2.030-2.040 NDT/tấn (311-313 USD/tấn) xuất xưởng gồm 17% VAT như vậy cũng là một khởi đầu tích cực.
Trong khi đó, giá CRC SPCC 1.0mm ở mức 2.680-2.800 NDT/tấn (411-430 USD/tấn) tại Thượng Hải vẫn duy trì không đổi so với đầu tuần trước.
Thị trường xuất khẩu
Giá giao ngay của cuộn trơn ở Châu Á tính cho đến tuần này vẫn không đổi so với mức giá hôm 03/02. Hoạt động giao dịch thưa thớt là điều dễ hiểu khi Trung Quốc chỉ vừa mới quay lại những ngày làm việc đầu tiên sau Tết. Hôm thứ Tư, Platts định giá thép dây dạng lưới 6.5mm không đổi so với tuần trước và giữ ở mức 260-264 USD/tấn FOB.
Thị trường CRC đến ngày thứ Ba vẫn còn đang ngủ say, khi hầu hết các nhà máy chưa chào bán lại sau Tết. Đồng thời, các công ty giao dịch cũng chưa mở cửa trở lại hoàn toàn vì một số người sẽ chỉ quay lại làm việc sau Rằm tháng Giêng. Hôm thứ Ba, Platts định giá CRC SPCC 1.0mm trong khoảng 350-355 USD/tấn FOB, không đổi so với 1 tuần trước đó. Hầu hết mọi người đều dự báo nếu có tăng nhẹ thì giá cũng chỉ phục hồi ở thị trường trong nước, do tồn kho ứ đọng và những bất ổn mà nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt.
Thị trường thép cây xuất vẫn trầm lắng trong hai ngày làm việc đầu tiên khi các nhà xuất khẩu chưa quyết định chào giá mới của họ sau khi mở cửa kinh doanh trở lại sau Tết. Nhưng hai ngày sau đó, một số nhà xuất khẩu đã nâng chào giá lên, nhưng nhiều người khác vẫn đang đợi bên lề và vẫn chưa quyết định giá mới. Giá tăng chủ yếu là do niềm thị trường cải thiện hơn về giá thép xây dựng trong nước giữa bối cảnh nhu cầu phục hồi theo mùa và tồn kho thấp. Đến thứ Năm, Platts định giá thép cây BS500 đường kính 16-20mm tăng tổng cộng 4 USD/tấn lên 254-259 USD/tấn FOB trọng lượng thực tế. Các công ty giao dịch vẫn đang chờ đợi trong bối cảnh chào giá tăng từ các nhà cung cấp khi họ không chắc liệu mức tăng này có bền vững hay không.
Tương tự, thị trường HRC cũng bình ổn trong hai ngày đầu tuần khi các nhà máy chưa bắt đầu yết giá sau những ngày nghỉ Tết âm lịch. Các thương nhân cũng nán lại việc đưa ra chào giá mua và muốn đợi xu hướng thị trường trở nên rõ ràng hơn. Qua hai ngày sau đó, giá đã tăng lần đầu tiên trong tuần sau Tết, theo quan sát là do giá đã tăng vào thời gian nghỉ Tết và hiện giờ chỉ đang chuyển vào thị trường giao ngay. Tuy nhiên, đơn đặt hàng vẫn còn ít khi người mua vẫn muốn đợi xu hướng thị trường rõ ràng hơn vào tuần tới. Platts định giá HRC SS400 3.0mm trong khoảng 277-282 USD/tấn FOB, cao hơn 7,5 USD/tấn so với giá trước Tết.
Tổng quan thị trường thép Thế giới tuần 07/2016
Mỹ
Giá HRC Mỹ đã giảm nhẹ tuần này do người mua tiếp tục cho rằng thị trường suy yếu cũng như thời gian vận chuyển của các nhà máy tương đối ngắn. Platts chốt HRC hằng ngày còn 395-420usd/tấn ngắn xuất xưởng. Giá chốt CRC không đổi ở mức 550-570/tấn ngắn. Giá hai mặt hàng này đều được định giá theo giá cơ bản xuất xưởng ở khu vực Midwest (Indiana).
Nhà cung cấp phế Mỹ đã từ chối mức giá chào mua thấp hơn từ các nhà máy Đài Loan đưa ra hôm thứ Tư và chốt giá bán phép lô nhỏ hôm thứ Năm ở mức 160usd/tấn CFR Đài Loan cho loại HMS 80:20. Mức giá này bằng với mức giá bán trước Tết. Mức giá này tương đương với giá trước Tết âm lịch. Định giá của Platts cho phế HMS 80:20 (container) bờ tây Mỹ tăng 1 USD/tấn trong ngày thứ Năm lên 148 USD/tấn FAS cảng Los Angeles.
CIS
Giá xuất khẩu phôi thanh CIS vẫn duy trì mức 245-255 USD/tấn FOB Biển Đen ít nhất là trong một thời gian ngắn, khi giá mới được hỗ trợ bởi các nhà xuất khẩu Trung Quốc đang quay lại thị trường thế giới sau kỳ nghỉ Tết.
Thổ Nhĩ Kỳ
Giá thép thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ ở mức 314 USD/tấn FOB giảm 3,5 USD/tấn so với tuần trước, phản ánh sự sụt giảm trong sức mua.
Thép cây nội địa Thổ Nhĩ Kỳ nhìn chung vẫn còn im ắng kể từ tuần trước, khi nhiều khó khăn tài chính vẫn đang tiếp diễn từ những biến động trong tỷ giá hối đoái tiếp tục làm hạn chế việc giao dịch. Tuy nhiên, giá niêm yết của các đại lý đã mạnh lên trong ngày thứ Ba do sự rớt giá của đồng lira trong tuần này.
Giá thép cây ở trong nước đã tăng 20 TRY/tấn (7 USD/tấn). Giá bán thép cây đường kính 8-12mm của các đại lý ở khu vực Marmara nằm trong khoảng 1.150-1.170 TRY/tấn xuất xưởng (bao gồm 18% VAT), trong khi giá ở khu vực Iskenderun, miền nam nước này là 1.120-1.130 TRY/tấn; thế nhưng vẫn có thể giảm giá cho những đơn hàng khá lớn.
Giá phế nhập khẩu nhìn chung vẫn còn ổn định ở trong mức 174-176 USD/tấn CFR cho phế HMS 1&2 80:20 kể từ tuần trước.
Mặc dù một số nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm giá bán trong nước và xuất khẩu cho thép cuộn mạ xuống thêm 10-20 USD/tấn hồi tuần trước để kích cầu nhưng sức mua ở thị trường trong nước cho đến tuần này vẫn còn thấp. Nhu cầu xuất khẩu cũng không có dấu hiệu phục hồi; trong bối cảnh sự cạnh tranh khốc liệt.
Giá niêm yết trong nước của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ cho HDG dày 0.5mm là 540-570 USD/tấn xuất xưởng trong tuần này, trong khi chào giá cho PPGI 9002 0.5mm vẫn khá ổn định ở mức 640-670 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần trước.
Tuy nhiên, chào giá xuất khẩu của các nhà máy cho HDG vẫn còn thấp hơn đáng kể và ở mức 490-520 USD/tấn FOB, trong khi chào giá cho PPGI 9002 0.5mm duy trì mức 590-620 USD/tấn FOB, giữa bối cảnh nhu cầu tiếp tục yếu và sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ ở những thị trường xuất khẩu chính của Thổ Nhĩ Kỳ.
Chào giá HRC của các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ tới thị trường trong nước tuần này là 315-325 USD/tấn xuất xưởng (sản xuất tháng 03), tăng 5 USD/tấn so với tuần trước đó; nhưng vẫn có sẵn một số chào giá dưới 310 USD/tấn một chút. Chào giá xuất khẩu HRC của họ vẫn dưới 300 USD/tấn FOB, trong bối cảnh sức mua thấp và sự cạnh tranh khốc liệt.
Thị trường CRC Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục bị sức ép từ những vấn đề tài chính và sức mua trì trệ, nên các nhà máy không nâng giá niêm yết của họ mặc dù mức tồn kho rất thấp. Nhìn chung các nhà máy trong nước đang chào bán CRC trong khoảng 405-420 USD/tấn xuất xưởng kể từ tuần trước, trong khi chào giá xuất khẩu vẫn còn thấp hơn tới 20 USD/tấn, cho thấy sức mua tiếp tục thấp từ hầu hết các thị trường xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ cộng thêm sự cạnh tranh khốc liệt.
Châu Âu
Giá HRC khu vực phía bắc Châu Âu tuần này ở mức 320-330 euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Thị trường HRC này tương đối khá yên tĩnh với các nhà tích trữ hàng và các trung tâm dịch vụ chờ đợi các mời chào nhập khẩu mới trước khi xác nhận mức giá cao hơn. Nhập khẩu hiện vẫn ở mức 295-305euro/tấn CIF Antwerp mặc dù hầu như không có hoạt động mua bán nào diễn ra với giá chào từ Iran ở mức thấp nhất của mức giá này. Các nhà máy Nga chào bán ở mức 300euro/tấn CFR.
Trong khi đócác nhà máy Bắc Âu đang nỗ lực tăng giá thêm 25-30euro/tấn cho hấu hết các sản phẩm thép dẹt do các nhà sản xuất đang cố gắng duy trì kinh doanh trong một thị trường trì trệ. Platts chốt gía nội địa xuất xưởng Ruhr cho mặt hàng HRC và CRC là 320-325euro/tấn và 405-415euro/tấn, và hai nguồn tin từ nhà máy xác nhận giá chào HRC hiện là 340-350euro/tấn với CRC có mức giá cao hơn khoảng 100euro/tấn.
Thị trường tấm EU đang không có nhu cầu phục hồi đáng kể để thúc đẩy giá trong quý một năm nay. Đồng thời những áp lực liên tục từ sự cạnh tranh mạnh từ hàng nhập khẩu và nội bộ cũng góp phần vào một triển vọng ảm đạm cho sự phục hồi giá đáng kể hơn trong vài tháng tới. Giá thép tấm nội địa ở mức 350-360euro/tấn xuất xưởng Ruhr. Hàng nhập khẩu chốt ở mức không đổi là 280-290euro/tấn CIF Antwerp.
Thị trường thép cây ở Bắc Âu đã đi xuống khi bị sức ép bởi giá phế sụt giảm và sức mua tiếp tục suy yếu. Thị trường càng thêm bị áp lực sau khi giá phế vụn ở đây giảm 13 USD/tấn trong tháng 02 xuống còn 150-160 EUR/tấn. Các nhà máy Italia hiện đang cố gắng giữ chào giá của họ ở mức 320 EUR/tấn FOB và cao hơn, nhưng một số chào giá từ các nhà cung cấp khác thì thấp hơn chỉ có 305-315 EUR/tấn FOB. Platts định giá thép cây giảm 3 USD/tấn trong ngày thứ Ba xuống còn 345-355 USD/tấn xuất xưởng Tây Bắc Âu.
Ấn Độ
Các nhà sản xuất thép Ấn Độ bị buộc phải duy trì giá HRC trong nước cho tuần này. Nguyên nhân là do sức mua vẫn còn thấp sau khi các nhà sản xuất đẩy giá lên trong suốt tuần trước. Theo đó, Platts định giá IS HRC 2062 A/B 3mm vẫn ở mức 24.500-25.000 Rupees/tấn (357-364 USD/tấn) xuất xưởng.
Đài Loan
Feng Hsin Iron & Steel, đã quyết định giảm giá niêm yết với hy vọng sẽ kích thích doanh số để bảo vệ thị phần của mình ở quanh khu vực Taichung trong bối cảnh sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ ở Tainan hay miền nam Đài Loan. Theo đó giá niêm yết của Feng Hsin cho thép cây đường kính 13mm giảm 400 Đài tệ/tấn (12 USD/tấn) xuống còn 11.200 Đài tệ/tấn xuất xưởng Taichung. Đồng thời, công ty đang mua phế HMS 1&2 (80:20) với giá thấp hơn 300 Đài tệ/tấn còn 4.800 Đài tệ/tấn. Tuy nhiên giá bán của Feng Hsin vẫn chênh lệch 400 Đài tệ/tấn tấn trong giá giao dịch thực tế giữa thép thanh của công ty với giá của các đối thủ ở miền nam Đài Loan.