Thị trường thép Trung Quốc phân hóa những ngày đầu năm mới do nhu cầu nội địa tăng trước tết nguyên đán hỗ trợ giá trong khi nhu cầu đường biển im ắng trước lễ tết nguyên đán, dịch omicron lây lan nhanh và cạnh tranh gay gắt từ Ấn Độ gây sức ép cho các nhà máy xuất khẩu.
Giá nội địa tăng cũng một phần nhờ chi phí nguyên liệu thô tăng. Việc các nhà máy tích cực dự trữ nguyên liệu thô để tiếp tục sản xuất trong tháng này đã giúp đẩy giá quặng sắt và than tăng. Trung Quốc đã không đưa ra bất kỳ tín hiệu nào để thắt chặt kiểm soát sản xuất ngoài những gì họ đã công bố. Tuy nhiên, nhu cầu thép nhìn chung vẫn yếu, trong bối cảnh kỳ nghỉ Tết âm lịch từ 31/1 đang đến gần và những bất ổn liên quan đến ngành bất động sản.
Yếu tố hỗ trợ giá trong nước:
_Indonesia đã đình chỉ xuất khẩu than trong tháng 1 để tăng cường cung cấp than nhiệt cho các đơn vị sản xuất trong nước, làm dấy lên lo ngại về nguồn cung nguyên liệu thô cho Trung Quốc từ cuối tháng 1 đến giữa tháng 2.
_Chỉ số quản lý sức mua (PMI) ngành thép của Trung Quốc đã tăng lên 38.7 trong tháng 12, từ mức thấp nhất trong 21 tháng vào tháng 11, khi các nhà máy nối lại hoạt động và giá thép tăng, phù hợp với hoạt động sản xuất nói chung đã tăng tốc trong tháng thứ hai. Chỉ số PMI cho lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc đứng ở mức 50.3 trong tháng 12, cao hơn 50.1 trong tháng 11.
_ Một số nhà máy thép ở Đường Sơn và Thiên Tân dự kiến sẽ cắt giảm 50% sản lượng thép từ ngày 28/1 đến ngày 22/2 để đảm bảo chất lượng không khí tốt trong thời gian diễn ra Thế vận hội mùa đông ở Bắc Kinh. Tin tức về các hạn chế cũng nâng cao tâm lý.
_ Bốn nhà sản xuất than cốc luyện kim ở Thiểm Tây và Sơn Tây đã tăng giá than cốc lên 200 nhân dân tệ/tấn (31 USD/tấn), cho rằng nguồn cung than thắt chặt và phí vận chuyển tăng từ Covid đang làm tăng chi phí sản xuất. Giá than cốc giao tháng 5 tăng 4.3% lên 3,150 NDT/tấn.
Tại thị trường trong nước, giá HRC Q235B tại Thượng Hải tăng 20 NDT/tấn lên 4,940 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 5 tăng 2.16% lên 4,638 NDT/tấn. Các thương nhân đã tăng giá chào hàng lên 4,940-4,950 NDT/tấn, nhưng giao dịch bị hạn chế do người mua thận trọng.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải không đổi ở mức 4,720 NDT/tấn mặc dù giá giao sau tăng. Giá thép cây giao sau tháng 5 tăng 1.63% lên 4,494 NDT/tấn. Giao dịch trên thị trường giao ngay không có dấu hiệu cải thiện. Những người tham gia cho biết tồn kho thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất đã tăng 100,000 tấn trong tuần này, so với mức tăng 14,000 tấn của tuần trước. Dự trữ thép cây có khả năng tăng nhiều hơn trong những tuần tiếp theo, với việc người mua rút khỏi thị trường cho những ngày nghỉ Tết âm lịch. Sự phục hồi nhanh chóng của giá hợp đồng tương lai được những người tham gia thị trường coi là bình thường, với giá giao dịch kỳ hạn thấp hơn giá thị trường giao ngay trong tháng 12.
Trên thị trường xuất khẩu, chào giá thép cây ổn định mức 760 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết.
Tương tự với HRC, các nhà máy và thương nhân Trung Quốc giữ nguyên giá chào bán, với lý do thị trường nội địa ổn định. Một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc cho biết rằng những người mua hạn chế bằng đường biển có thể quan tâm đến việc đặt hàng với giá 750 USD/tấn fob Trung Quốc, mặc dù không nhận được hồ sơ dự thầu nào.
Nhiều nhà dự trữ Việt Nam chào mua rất thấp, tầm 740 USD/tấn cfr Việt Nam đối với HRC SS400 của Trung Quốc, tầm 710 USD/tấn fob Trung Quốc, một mức không thể chấp nhận được đối với các nhà máy và thương nhân. Không có thương nhân nào sẵn sàng bán khống hàng hóa ở mức giá đó do thị trường không chắc chắn, đặc biệt là khi giá nội địa Trung Quốc tăng.
Chào HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam ổn định ở mức 800-810 USD/tấn cfr, cạnh tranh hơn giá nhật bản 815 USD/tấn cfr, nhưng vấp phải cạnh tranh gay găt từ Ấn Độ chỉ 750 USD/tấn cfr.
Người mua Việt Nam có thái độ thận trọng trong bối cảnh xu hướng giảm biến thể Omicron đã gây thêm nhiều bất ổn vì nhu cầu thép có thể giảm khi biến thể này lan rộng.
Nhìn chung, xu hướng giá sắp tới sẽ còn biến động đan xen, nhưng xu hướng chính là giảm nhẹ trước khi có thể phục hồi vào tháng 3 vào mùa cao điểm.
Yếu tố áp lực:
_ Chi phí nguyên liệu thô giảm.
_Tiêu thụ chậm trước tết.
_Tâm lý tiêu cực từ khủng hoảng nợ Evergrande.
_Dịch bệnh bệnh phức tạp với biến thể mới Omicron.
_Các thương nhân tăng cường bán khống trên thị trường, gây thêm áp lực tâm lý.
Tuy nhiên, giá cũng được hỗ trợ từ:
_ Cắt giảm sản xuất tăng cường tới tháng 2-tháng 3.
_ Kích thích từ Chính phủ thông qua các cắt giảm lãi suất cho thị trường bất động sản đầu năm.
_Mặt bằng giá nguyên liệu thô vẫn cao.
_Nhu cầu mạnh sau tết và vào tháng 3.
Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước giảm về khoảng 4,500-4,700 NDT/tấn trong tháng 1-tháng 2 trước khi nâng phạm vi lên khoảng 4,700-5,000 NDT/tấn vào tháng 3.
Trên thị trường xuất khẩu, giá tiếp tục biến động theo giá nội địa, giảm trong tháng 1-tháng 2 để cạnh tranh so với giá chào thấp từ Ấn Độ và tăng lại vào tháng 3. Chào giá HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam trong phạm vi 770-790 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 1-tháng 2 và nhích lên 790-820 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 3.