Giá thép nội địa Trung Quốc giảm lại do nhu cầu chậm hơn trước sự khóa cửa các thành phố vì sự gia tăng số ca nhiễm Covid-19 trong nước.
Tồn kho thép cuộn cán nóng do các thương nhân nắm giữ đã giảm hơn 20,000 tấn trong tuần này, chậm lại so với mức giảm hơn 40,000 tấn của tuần trước. Dự trữ HRC tại các nhà máy tăng khoảng 10,000 tấn trong tuần này. Dự trữ thép cây của các thương nhân và nhà sản xuất tăng 140,000 tấn trong tuần này so với mức giảm 70,000 tấn của tuần trước.
Nhiều dự án xây dựng ngoài trời ở Trung Quốc đã bị đình chỉ để kiểm soát sự lây lan của Covid-19 và tồn kho thép cây có khả năng tăng trong tuần tới do tiêu thụ chậm lại.
Tại thị trường giao ngay, HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 60 NDT/tấn xuống 5,210 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 10 giảm 0.98% xuống 5,228 NDT/tấn. Các nhà máy thép đang tăng sản lượng ở thành phố Đường Sơn với một số biện pháp khóa cửa được dỡ bỏ, nhưng nhu cầu thép ở Thượng Hải vẫn giảm do các ca nhiễm Covid-19 tại địa phương tăng nhanh và việc giao hàng tiếp tục bị gián đoạn.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 20 NDT/tấn xuống 5,040 NDT/tấn với giao dịch chậm lại trong bối cảnh giá giao sau giảm. Giá thép cây giao sau tháng 10 giảm 1.23% xuống 5,070 NDT/tấn. Thương mại thép cây tại các thành phố lớn trong nước đã giảm 50,000 tấn xuống còn 150,000 tấn so với ngày trước.
Trên thị trường xuất khẩu, một nhà máy ở phía bắc Trung Quốc đã giữ giá xuất khẩu thép cây ở mức 835 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết so với giá lý thuyết của một nhà máy phía đông Trung Quốc ở mức 855 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết.
Đối với thép cuộn, hầu hết các nhà máy Trung Quốc chưa chính thức công bố giá chào bán trong tuần này và ưu tiên giữ giá chào không thay đổi ở mức 890-910 USD/tấn fob Trung Quốc. Những chào bán đó cao hơn nhiều so với mức chấp nhận được của người mua trên biển và không có giá thầu.
Một nhà máy lớn của Trung Quốc đã bán ít nhất 60,000 tấn thép cuộn SAE1006 ở mức 938 USD/tấn cfr cho Việt Nam trong tuần này. Đơn hàng là thép cuộn có độ dày 2mm thường có giá cao hơn so với các cuộn dây thông số kỹ thuật phổ biến trên độ dày 2mm. Thép cuộn SAE1006 do các nhà máy khác của Trung Quốc sản xuất được chào giá 925-945 USD/tấn cfr Việt Nam.
Tháng 4 là mùa cao điểm tiêu thụ thép của Trung Quốc và các nước Châu Á, cộng với sự gián đoạn nguồn cung và chi phí vận chuyển tăng vọt do chiến tranh sẽ giúp giá cả tăng trưởng. Chính phủ Trung Quốc cũng đã đưa ra các tín hiệu hỗ trợ ngành thép từ các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng giá vẫn có biến động tăng giảm do các chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô của chính quyền Trung Quốc và giá cao vấp phải kháng cự từ phía người mua trong khi các ca nhiễm covid gia tăng làm cản trở tiêu thụ và ảnh hưởng tâm lý.
Chính phủ Trung Quốc cũng phát tín hiệu về việc giảm thuế để hỗ trợ ngành thép từ tháng 4. Việc giảm thuế cũng sẽ cản trở đà tăng giá thép.
Do đó, dự kiến giá thép giao ngay trong nước biến động và tăng lên khoảng 4,850-5,400 NDT/tấn tháng 4.
Trên thị trường xuất khẩu, giá biến động chiều hướng tăng. Chào giá HRC Trung Quốc về Việt Nam phổ biến khoảng 910-970 USD/tấn cfr Việt Nam tháng 4.
Sang tới hai tháng cuối quý, giá khả năng điều chỉnh giảm nhẹ khi nguồn cung dần cải thiện sau các hoạt động gia tăng sản xuất toàn cầu và tiêu thụ hạ nhiệt cộng với tình hình dịch covid lan rộng hơn. Phạm vi giá xuất khẩu HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam giảm về khoảng 850 USD/tấn cfr.
Yếu tố hỗ trợ:
__Gián đoạn nguồn cung thép từ chiến tranh Nga-Ukraine, đẩy giá thép toàn cầu tăng.
_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế hơn như giảm lãi suất để hỗ trợ ngành thép.
_ Gián đoạn nguồn cung do các biện pháp kiểm soát dịch.
_Chi phí vận chuyển và chi phí nguyên liệu thô tăng do chiến tranh.
_Nhu cầu mạnh vào mùa cao điểm.
Yếu tố áp lực:
_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.
_Dịch bệnh kìm hãm tiêu thụ.
_Thị trường bước vào mùa mưa tháng 6.
_Chiến tranh Nga-Ukraina dần hạ nhiệt, có thể sớm dừng đà tăng giá toàn cầu.
_Khả năng Chính phủ giảm thuế thép xuất khẩu để hỗ trợ thị trường xuất khẩu.