Giá thép Trung Quốc giảm do nhu cầu vẫn chậm trước các kiểm soát dịch của Chính phủ, dù số liệu tồn kho giảm.
Dự trữ thép của các thương nhân và nhà sản xuất Trung Quốc giảm 340,000 tấn so với tuần trước xuống 22.55 triệu tấn trong tuần này. Tháng 4 và tháng 5 thường là giai đoạn tiêu thụ thép tốt ở Trung Quốc. Tồn kho thép giảm 1.4 triệu tấn trong tuần thứ hai của tháng 5/2021.
Giá xuất xưởng HRC Q235B tại Thượng Hải giảm 60 NDT/tấn xuống 4,780 NDT/tấn. HRC kỳ hạn tháng 10 giảm 0.55% xuống còn 4,730 NDT/tấn.
Giá thép cây HRB400 tại Thượng Hải giảm 30 NDT/tấn xuống 4,870 NDT/tấn với giao dịch chậm lại. Giá thép cây giao sau tháng 10 giảm 0.99% xuống 4,612 NDT/tấn.
Trên thị trường xuất khẩu, các nhà máy lớn của Trung Quốc giữ giá xuất khẩu thép cây ở mức 770-790 USD/tấn fob trọng lượng lý thuyết cho lô hàng tháng 6. Một số doanh nghiệp đã rút lại chào bán xuất khẩu và muốn thương lượng với người mua để thống nhất mức giá thỏa thuận. Tuy nhiên, hầu hết người mua ở Đông Nam Á đều đứng ngoài cuộc trước tâm lý thị trường giảm giá.
Trên thị trường HRC, tình hình trầm lắng với các nhà máy lớn của Trung Quốc im hơi lặng tiếng. Một số thương nhân chào bán HRC SS400 của Trung Quốc ở mức 773 USD/tấn cfr Việt Nam, tầm 743 USD/tấn fob Trung Quốc. Những người tham gia cho biết mức đó không đại diện cho các mức thị trường chính và không thể gây ra bất kỳ hoạt động mua nào. Cả người bán và người mua đều thích giữ thái độ chờ đợi sau khi chứng kiến giá nội địa Trung Quốc giảm sau đợt tăng giá ngắn hạn trong ngày trước.
Các thương nhân có hàng hóa chuyển tiếp đã nhận được đơn đặt hàng với giá 800 USD/tấn cfr Việt Nam đối với thép cuộn cấp SAE1006 của Trung Quốc. Các nhà máy đưa ra mức giá không đổi ở mức 820-830 USD/tấn cfr Việt Nam. Các nhà máy Ấn Độ quay trở lại thị trường Việt Nam với chào giá 850-860 USD/tấn cfr Việt Nam, nhưng mức đó không hấp dẫn so với giá thép cuộn Trung Quốc thấp hơn.
Các thương nhân cắt giá thép tấm loại A36 của Trung Quốc xuống còn 850 USD/tấn cfr tại Việt Nam, thấp hơn nhiều so với mức chào giá 880 USD/tấn cfr của các nhà máy Trung Quốc tại Việt Nam. Một nhà giao dịch tại Việt Nam cho biết những lời chào hàng đó không thể tạo ra lực mua do nhu cầu quốc tế yếu.
Thị trường nhìn chung bị bủa vây bởi các yếu tố áp lực, với một số ít yếu tố hỗ trợ đan xen:
Yếu tố hỗ trợ:
__Chi phí nguyên liệu thô cao.
_Chính phủ tung ra nhiều gói kích thích kinh tế, hỗ trợ ngành thép.
_ Nguồn cung giảm với yêu cầu giữ sản lượng 2022 thấp hơn 2021.
_Chính sách covid-19 nới lỏng khi ca nhiễm giảm.
Yếu tố áp lực:
_Chính sách hạ nhiệt giá nguyên liệu thô từ phía Chính phủ.
_Dịch bệnh, đóng cửa covid-19 hạn chế tiêu thụ.
_Thị trường bước vào mùa mưa cuối Q2.
_Khả năng Chính phủ giảm thuế thép xuất khẩu để hỗ trợ thị trường xuất khẩu.
_Đà tăng giá toàn cầu hạ nhiệt.
_Thị trường bất động sản u ám trong năm nay.
_Đồng NDT mất giá.
Thị trường bất động sản năm nay u ám do nợ xấu, nhu cầu chậm từ các dự án và hậu cần gián đoạn do các ca nhiễm covid-19 tăng đột biến. Đồng NDT mất giá khi Mỹ liên tục tăng lãi suất, giá nguyên liệu thô giảm trước các sức ép từ Chính phủ. Chính phủ Trung Quốc cũng khả năng tăng hoàn thuế xuất khẩu từ tháng 5 tới, để hỗ trợ thị trường xuất khẩu.
Trong khi đó, giá cũng được hỗ trợ phần nào từ các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ như phát hành trái phiếu, giảm lãi suất. Nhu cầu cũng sẽ gia tăng khi các hạn chế dịch được nới lỏng.
Do đó, dự kiến giá theo xu hướng giảm cả ngắn hạn, nhưng cũng có biến động tăng đan xen. Giá tháng 6-tháng 7 cho HRC SAE1006 Trung Quốc về Việt Nam giảm về khoảng 780-790 USD/tấn cfr Việt Nam.